Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 09 - Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10179)
Bài 09 - Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu

Kalu Rinpoche

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 9]
Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


Tôi mong ước nhận định được tất cả những biến hiện
chúng xuất hiện đối với tôi trong trung hữu là những phóng chiếu
của chính tôi; những hiển hiện của chính tâm của tôi.

Liên Hoa Sinh , “Sách Tây Tạng của Người Chết”. (Tử Thư Tây Tạng).

-----------------------

Sẽ không có tái sinh nếu, vào thời điểm chết, chúng ta bị biến mất như một ngọn lửa nến vụt tắt hoặc sự bốc hơi của nước. Nhưng tâm là chân không (emptiness: chân không diệu viên; chân không diệu hữu), và chân không dung thông (the void) không biết cái chết. Vào lúc chết, thân và tâm, chúng được gắn với nhau là những hiện tướng hư huyễn, li biệt; mỗi bên đi đường riêng của nó. Lúc đó, một lần nữa, do bởi năng lực của nghiệp, những căn bản tập khíphiền não tạo lập bởi nhiều tác nhân dẫn chúng ta tới tái sinh vào một trong sáu cõi (cõi người, trời, a tu la, súc sinh, ngạ qủy, địa ngục).

Trung Hữu

Theo Chính Pháp (Dharma) cũng như theo các truyền thống khác, chết không phải là một chấm dứt. Vượt ngoài chết, có một loạt tương tục của các trải nghiệm trong những trạng thái khác biệt được nhận biết gộp lại là trung hữu (bardo). Thuật ngữ Tây Tạng này nguyên văn nghĩa là “giữa hai” (between two), khoảng ở giữa (interval), hoặc sự thông qua, lối thông qua (passage). Những lối thông qua này là tất cả những trạng thái tâm thức đi thông qua. Những liên hoàn của trung hữu (the series of the bardos) tạo thành hiện hữu lưu chuyển hoặc sinh tử lưu chuyển (cyclic existence or samsara)

Những liên hoàn của trung hữu tương ứng với sự chuyển cư của tâm thức từ cuộc đời tới cuộc đời, nhưng cũng tương ứng với những biến hoá hình dáng xảy ra từng mỗi sát na trong những trạng thái tâm thức của chúng ta.

(The series of bardos corresponds to the transmigration of the consciousness from life to life, but also to the transformations that occur moment by moment in our states of consciousness).

Giáo pháp liên quan đến những trung hữu khác biệt được trình bày đặc biệt trong một văn bản truyền thống rất phổ biến, Bardo Thodrol, nguyên văn nghĩa là, “sự hiểu biết thông suốt giải thoát cách tuyệt các trung hữu” (“the understanding that frees from the bardos”), mà ở Tây phương thường được biết nhiều hơn với tên “Tử Thư Tây Tạng”

(The Tibetan Book of the Dead).

Giáo pháp này đưa ra những chỉ giáo thực dụng về làm thế nào tiến qua các trung hữu và dâng hiến một đạo lộ để thật chứng bản chất của những trung hữu này và tự giải thoát chính chúng ta cách tuyệt với các trung hữu.

(It gives practical instructions on how to proceed through the bardos and offers a path for realizing the nature of those bardos and liberating ourselves from them)

Mặc dầu “khoảng ở giữa chết và tái sinh” (the interval between death and rebirth) là nghĩa được biết đến nhiều nhất, từ ngữ “trung hữu” (bardo) không những chỉ nói đến thời kì giữa chết và tái sinh, nhưng còn nói đến tất cả những trạng thái hiện hữu tâm thức trải nghiệm.

Thế nên, từ ngữ “trung hữu” cũng được dùng để nói đến dòng đời (life), là trung hữu giữa sinh và chết và là, trong đa số trường hợp, cái thời kì dài nhất của các trung hữu.

Cũng có trung hữu giữa hai tâm niệm (the bardo between two thoughts), hoặc giữa hai trạng thái của tâm thức, nó là cái ngắn nhất của các trung hữu.

Thời kì từ thời điểm nhắm mắt ngủ tới khi thức tỉnh thì được gọi là trung hữu chiêm bao, trong khi trải nghiệm chính cái chết thì được gọi là trung hữu của thời điểm chết.

(The period from the moment of falling asleep to waking up is called the dream bardo, while the experience of death itself is the bardo of the moment of death)

 Sau khi sự hô hấp ngừng lại hoàn toàn, có một thời kì khi tâm vẫn ở lại trong một trạng thái toàn thể bất thức thì được gọi là trung hữu của tính không (= trung hữu của chân không/ chân không diệu viên/ chân không diệu hữu)

(After respiration stops completely, there is a period when the mind remains in a state of total unconsciousness, called the bardo of emptiness)

Cuối cùng, trung hữu của sinh thành (trung hữu của sinh hữu; trung hữu của tái sinh) là thời kì theo sau trung hữu của tính không, trong thời kì này tâm thức có sự trải nghiệm của một thế giới sau cái chết, nó kéo dài cho tới thời điểm tái sinh.

(Finally, the bardo of becoming is the period that follows the bardo of emptiness, during which the consciousness has the experience of a postmortem world, which lasts up until the moment of rebirth)

Bốn Trung Hữu Quan Trọng

Nói vắn tắt, có bốn trung hữu quan trọng từ tiến trình chết tới tái sinh là:

1. Trung hữu từ sinh tới chết, hoặc, trạng thái chúng ta hiện ngay lúc này.

2. Trung hữu của thời điểm chết, tương ứng với lối thông qua từ sống tới chết.

(tương ứng, có thể tạm hiểu là từ sinh tới chết, lối sống ra sao,tỉ dụ vui với thiện hạnh của người, của mình, và buồn với ác hạnh của người, của mình, thì tâm tình vào thời điểm chết tương ứng với thời từ sinh tới chết. ĐHP)

3. Trung hữu của tính không (= trung hữu của chân không / chân không diệu viên / chân không diệu hữu), thời kì theo sau chết.

4. Trung hữu của tái sinh, giai đoạn giữa trung hữu của tính không và một thời-gian- cuộc-đời khác (another lifetime) là khi chúng ta bắt đầu một trung hữu mới của sinh tới chết.

Sáu trung hữu được nói đến thường xuyên gồm cả hai trung hữu khác ở trong trung hữu của sinh tới chết: trung hữu chiêm baotrung hữu thiền định. Mỗi một trung hữu này tương ứng với những trạng thái của tâm thức sống trọn vẹn trong suốt thời-gian-cuộc-đời này.

Trong những chương theo sau, chúng ta sẽ miêu tả mỗi một trong bốn trung hữu quan trọng này, chúng cùng nhau tạo thành hiện hữu sinh tử lưu chuyển. 

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phụ Lục 1 Đại Sư Tăng Triệu giảng Tính Không

Xin nhớ đến lời Đại sư Tăng Triệu (374 hoặc 378 - 414 ) ( tịch lúc 27 hoặc 31 tuổi) trong Triệu luận , phần Tông Bản Nghĩa:

 “Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội , năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa.

Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ BỔN VÔ chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là BỔN VÔ, chẳng phải có ý làm thành vô (có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì BỔN VÔ này nó vượt ngoài cái có và không tương đối).

Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.

duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH.

Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.

Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy…

Tại sao vậy ? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể , chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là BỔN VÔ.”

( Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch , in trong CHƯ KINH TẬP YẾU , trang 470 - 471) ..

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phụ Lục 2. Tâm như hư không vô sở hữu

Nguồn gốc của Phật pháp là tâm ,
Nguồn gốc của vũ trụ cũng là tâm ,
Người học Phật pháp phải biết cái nguồn gốc đó chính là tâm mình chứ chẳng phải ai khác .

 

…Tổ thứ 14 của Thiền Tông Ấn Độ là ngài Long Thọ dùng “Hư không vô sở hữu” để thí dụ cho tâm. Tâm linh vốn chẳng có hình thể số lượng, do đó dùng bộ óc suy nghĩ chẳng thể tiếp xúc, nên chẳng thể dùng lời nói văn tự để diễn tả.

Phật pháp chỉ có thể miễn cưỡng nói là TÍNH KHÔNG. KHÔNG này tức là để hiển bày sự dụng của tâm. Cũng như hư không vô sở hữudung nạp tất cả vật, tất cả vũ trụ vạn vật từ mặt trăng, mặt trời cho tới núi sông, đất đai, nhà cửa, cây cối,bất cứ cái gì đều phải nhờ cái “VÔ SỞ HỮU” này dung nạpứng dụng.

Cuộc sống hằng ngày của con người như ăn cơm, mặc áo, nói năng tiếp khách, làm việc đều phải nhờ cái ‘vô sở hữu’ này mới được hiển bày, chỉ tiếc rằng chúng ta ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Nên Phật Thích Ca dạy pháp thiền trực tiếp để mọi người đều được tự hiện toàn vẹn chính tâm mình. Cái giờ phút hiện ra tâm mình gọi là kiến tính thành Phật.

Dù nói thành Phật thực chẳng có Phật để thành, chỉ là ở trong mở mắt chiêm bao tỉnh dậy mà thôi [Cũng như ở trong nhắm mắt chiêm bao tỉnh dậy] thì tự chứng tỏ tất cả sự vật trong chiêm bao (người và thế giới chiêm bao) đều chẳng thật gọi là chứng ngộ.

Bản thể của tâm vô sở hữu tức là trống rỗng, vì trống rỗng nên gọi là TÍNH KHÔNG, vì tính không nên cùng khắp không gian thời gian. Cùng khắp không gian thì chẳng có khứ lai nên gọi là NHƯ LAI, nghĩa là đúng như bản lai; cùng khắp thời gian thì không có gián đoạn sinh diệt nên gọi là NIẾT BÀN.

Vì trống rỗng vô sở hữu chẳng có chỗ để trụ nên gọi là VÔ SỞ TRỤ ; vì trống rỗng vô trụ thì chẳng thể trói buộc nên gọi là GIẢI THOÁT. Nghĩa chữ Phật là giác ngộ, tâm của chúng sinh đều có tính giác ngộ nên gọi là PHẬT TÍNH, cũng gọi là Bồ Đề. Bồ Đề nghĩa là giác ngộ. Nói tóm lại, danh từ thì có muôn ngàn sai biệt khác nhau nhưng nghĩa thì chẳng khác, chỉ là hiển bày thể dụng của tâm mà thôi.

Vì tâm vô sở hữu thì chẳng thể kiến lập, nên Phật nói là VÔ THỦY, chẳng có bắt đầu, cũng gọi là vô sinh. Vì có sinh thì phải có bắt đầu. Vì vô sinh thì không thể kiến lập, nếu có thể kiến lập ắt có sự sinh khởi và bắt đầu, cho nên người chứng quả gọi là NGỘ PHÁP VÔ SINH, cũng gọi là CHỨNG VÔ SINH PHÁP NHẪN. Nói một cách khác, tất cả kinh Phật đều dùng sự hiểu biết của chúng sinh để chứng tỏ tất cả sự vật qua ý thức của bộ não nhận biết đều chẳng phải thật, nên nói VẠN PHÁP DUY TÂM, TẤT CẢ DO TÂM TẠO. Vì tâm có thể tạo là có kiến lập, tức là chẳng thật vậy .

…..

[Lược trích từ “Vũ Trụ Quan thế kỷ 21, Yếu Chỉ Phật Pháp, Yếu Chỉ Trung Quán Luận” của HT Duy Lực ]

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phụ Lục 3. Chủ nghĩa Hư vô

Phật Quang Đại Từ Điển, Thích Quảng Độ dịch , in 2000, 6 quyển 7374 trang + quyển Mục lục.

Chân như: Sanskrit: bhuta-tathata; tathata. Chỉ cho bản thể chân thực tràn khắp vũ trụ; là nguồn gốc của hết thảy muôn vật .
Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tính, Thực tế, Thực tướng, Như lai tạng, Pháp thân, Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị giới….
Trong sách Phật Hán thời kì đầu dịch là:
Bản Vô. Chân, chân thật không hư dối; Như, tính của sự chân thật ấy không thay đổi….

Hư Vô chủ Nghĩa (Nihilism)
Chủ nghĩa phủ định tất cả đạo đức,tập quán, chế độ, tôn giáo, hoặc chân lí, giá trị của bất cứ sự vật gì.

Theo “Patrul Rinpoche. Lời vàng của Thầy tôi”. Bản dịch 2008, http:/vietnalanda.org. thì
“Những người theo chủ nghĩa thường hằng (eternalism) tin là có một cái ngã thường hằng và một đấng tạo hoá (tạo lập thế giới) hiện hữu vĩnh cửu bên ngoài ta, chẳng hạn như các vị thần Isvara và Vishnu.
“những người theo thuyết hư vô tin rằng tất cả sự vật hoàn toàn tự phát, không có đời quá khứ hay đời vị lai, không có nghiệp quả, không có tự dogiải thoát
“ Có 360 biểu từ vọng kiến (false view) và 62 biểu từ tà kiến (wrong view)

(biểu từ = statement), có thể gộp chung thành hai nhóm : chủ nghĩa thường hằngchủ nghĩa hư vô (=đoạn diệt; chấm dứt, không có gì cả).
Theo quan điểm hành động không tạo nghiệp quả thì thiện hạnh không đem lại lợi ích, và ác hạnh không đem lại tổn hại.”

Nếu bạn có một thoáng chút ý niệm về danh từ chân như, bạn sẽ biết bản chất của bạn là tính Bản Phật Phổ Hiền (Nature of Primordial Buddha Samantabhadra)

(Phổ Hiền= All-around Goodness).
Như vậy bạn chấp thuận, tùy thuận, và hỗ trợ (blessing) cho chính cuộc đời bạn, cuộc đời của kẻ khác, hiện hữu tồn sinh, và bạn chung vui xẻ buồn với mọi người, với vạn hữu, chung lưng đấu cật với mọi người để chống lại các thảm họa do con ngườithiên nhiên gây ra (do vô minh, do duyên khởi) và bạn đem lại an-ổn-không-sợ-hãi cho mình, cho người (benediction: vô uý thí)

Một thoáng ý niệm về chân như, giúp bạn nhận thức bạn vốn là đấng phúc đức, tốt lành, thiện hảo, bạn đã gặp chính mình (encounter yourself), gặp bản lai diện mục, “ta về gặp lại tình ta, dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân” (Thiền sư Viên Minh).

Ngài Long Thọ và ngài Phật Hộ (Buddhapalita) đều giảng Chân như là thật chứng tuệ tri chính minh bằng tuệ quán không bị nhơ nhuốm. Chân như không phải là do người khác chỉ dạy hoặc do người khác trao cho bạn.

Từ ngữ Phật học ngài Vô Trước ( Asanga 375-430) giảng:

Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn muội, Hắc ám… là đồng nghĩa

------------------------------------

Chú thích thuật ngữ

1.Viết theo “The Tibetan Book of the Dead”, translated by A. F. R. Thurman,

Bantam Books,1994

 “Trung hữu” được dùng tối thiểu theo 3 nghĩa:

(a) nghĩa căn bản thông dụng để nói về toàn thể thời kì giữa chết và tái sinh;

(b) nghĩa kĩ thuật để nói về sáu trung hữu: trung hữu đời sống, trung hữu chiêm bao, trung hữu thiền định, trung hữu điểm chết, trung hữu thật tại (=pháp tánh), và trung hữu tái sinh ;

(c) và theo nghĩa “ một giai đoạn tiến triển của một trung hữu”, thì chính nó cũng được gọi là một trung hữu, tuy nó ở trong sự trải nghiệm của một giai đoạn riêng biệt trong một trong sáu trung hữu (= một giai đoạn phát triển nhỏ -- của một trong sáu trung hữu--, thì cũng gọi là một trung hữu )

“Between” is used in at least thre e senses: its basic colloquial sense of the whole period between death and rebirth; its technical sense in the set of the six betweens, the life, dream, meditation, death-point, reality, and existence betweens;and in the sense of “phase of a between”, where the experience of a particular period in one of the six betweens is itself called a between.

2. Trung hữu tính không (emptiness between)= trung hữu pháp tánh (dharmata between) = trung hữu thật tại (reality between)

3. Ngài Long Thọ : Duyên khởi = Tính không = Trung đạo = Như huyễn

4. Ngài Tăng Triệu : Bổn Vô= Thật Tướng = Pháp Tánh = Tánh Không = Duyên Hội

5. “Thanh Tịnh Đạo” của Ngài Phật Minh / Phật Âm (Buddhaghosa), Thích Nữ Trí Hải dịch, có giảng (trang 960 , quyển 2 , đoạn 250:

“Ở đây, trở thành gọi là hữu…
Chính tiến trình nghiệp là hữu, thì gọi là nghiệp hữu.
Cũng vậy, chính tiến trình tái sanh là hữu thì gọi là sanh hữu.
Và ở đây tái sanh là hữu vì nó hiện hữu…
Nghiệp cần được hiểu là hữu vì nó đem lại hữu hay sự tái sanh…
Tất cả nghiệp đưa đến tái sanh đều là nghiệp hữu…
Sanh hữunói vắn tắt các uẩn do nghiệp sanh.” 

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Kalu Rinpoche

From Life to Life: Transitions and the Bardo

May I recognize all the manifestations that appear to me in the bardo as being my own projections; emanations of my own mind.

Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead.

--------------------

There would be no rebirth if, at the moment of death, we disappeared like a candle flame going out or water evaporating. But mind is emptiness, and the void does not know death. At death , body and mind, attached as they are to illusory appearances, separate; each goes its own way. Then once again, by the power of karma, basic tendencies and afflictions caused by various agents lead us to be reborn in one of the six realms.

Bardo

According to Dharma as well as other traditions, death is not an end. Beyond death, there is a continuous series of experiences in different states known collectively as the bardo. This Tibetan term literally means “ between two” , “interval”, or “passage”. These passages are all the states that the consciousness passes through. The series of bardos makes up cyclic existence, or samsara.

The series of bardos corresponds to the transmigrationof the consciousness from life to life, but also to the transformations that occur moment by moment in our states of consciousness. The teachings relating to the different bardos are presented in particular in the well-known tradition text, the Bardo Thodroll, literally , “ the understanding that frees from the bardos”, better known in the West as “ The Tibetan Book of the Dead ”. It gives practical instructions on how to proceed through the bardos and offers a path for realizing the nature of those bardos and liberating ourselves from them.

Even though “the intrval between death and rebirth” is its best-known meaning, the word “bardo” refers not only to that period between death and rebirth, but to all the existential states the consciousness goes through.Therefore, the word is also used to refer to life, which is the bardo between birth and death and is, in most cases, the longest life of the bardos. There is also the bardo between two thoughts, or between two states of consciousness, which is the shortest of the bardos. The period from the moment of falling asleep to waking up is called the dream bardo, while the experience of death itself is the bardo of the moment of death. After respiration stops completely, there is a period when the mind remains in a state of total unconsciousness, called the bardo of emptiness. Finally, the bardo of becoming is the period that follows the bardo of emptiness, during which the consciousness has the experience of a postmortem world, which lasts up until the moment of rebirth.

The Four Great Bardos

Briefly, the four great bardos from the process of dying to being reborn are:

1. The bardo of birth to death, or, the state we are in right now.

2. The bardo of the moment of death, corresponding to the passage from life to death.

3. The bardo of emptiness, the period following death.

4. The bardo of becoming, the stage between the bardo of emptiness and another lifetime in which we begin a new bardo of birth to death.

The six bardos frequently referred to include two others in the bardo of birth to death: the dream bardo and the meditation bardo. They each correspond to states of consciousness lived out during this lifetime.

In the following chapters we will describe each of the four great bardos, which together make up cyclic or samsaric existence.

---------------------------------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha. Wisdom, 1997. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10309)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11169)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10982)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11215)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11272)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14275)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12499)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26367)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11718)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29297)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11676)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10799)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11106)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10971)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10794)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11336)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10796)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12261)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11302)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10077)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11416)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13427)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11280)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11488)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12715)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13788)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13202)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12825)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12180)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30162)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24917)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10985)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11750)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10689)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11234)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11545)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12923)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12119)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11339)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10229)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11818)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11213)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10912)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13093)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10207)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10888)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10956)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14549)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10707)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21982)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12087)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11445)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30204)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19611)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20590)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12571)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12570)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21217)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13267)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14479)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30446)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28039)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28390)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20971)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28700)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27255)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21970)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26248)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21661)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23428)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26416)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23222)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19865)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22958)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21179)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19979)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15435)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25692)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14140)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26087)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22528)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22572)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22901)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13224)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23206)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13189)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28986)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30523)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14256)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26279)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33248)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35583)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8657)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13329)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30676)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22154)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant