Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vì mẹ một vần thơ

20 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9639)
Vì mẹ một vần thơ


blank

Lời Tựa

Mỗi người trong chúng ta, ít nhiều đều mang nặng những ray rứt, kỷ niệm và hối tiếc, và có thể cả thương yêuhy vọng. Những xúc cảm đó có thể làm cho tâm hồn chúng ta trở nên phong phú hơn và sâu sắc hơn. Với thời gian, những xúc cảm đó sẽ khiến chúng ta trở nên nhạy cảm hơn hoặc chai đá hơn. Những hỗn độn của kỷ niệm, xúc cảm và thương yêu trong lòng mỗi người có vẻ rất riêng tư, nhưng hình như trong tất cả chúng ta đều có một thứ xúc cảm nào đó, một thứ tình thương nào đó rất giống nhau, đó là tình thương mẹ hay là lòng hiếu thảo. Chẳng qua thì cũng chỉ vì mỗi người trong chúng ta đều có một người mẹ, lớn lên dưới sự chăm sóc, dạy dỗ và tình thương yêu của mẹ.

Tôi xin dừng một phút ở đây để tưởng nhớ đến những người kém may mắn hơn chúng ta, chẳng hạn như những đứa trẻ trong viện mồ côi hay đang sống lây lất bên vệ đường, hoặc có những người sau khi lọt lòng thì mẹ đã chết. Tuy nhiên tôi vẫn tin rằng mặc dù không có cái may mắn để được biết mẹ mình là ai hoặc vì quá thơ dại không còn hình dung ra được hình ảnh mẹ, nhưng khi lớn lên họ vẫn có thể đau xót cho thân phận mình, vẫn một lòng thương mẹ, vẫn ước mơ được lớn lên trong tình thương yêu của một người mẹ, dù đấy chỉ là một giấc mơ không thực hiện được.

Trong bất cứ trường hợp nào, dù cho mẹ còn sống hay đã mất, hoặc không được biết mẹ mình là ai, nhưng tất cả chúng ta đều sinh ra với dòng máu của mẹ trong tim. Dòng máu ấy đã nuôi ta khi còn là một noãn cầu, một thai nhi... cho đến giây phút này khi tim ta còn đập. Dòng máu của mẹ vẫn còn đó, vẫn yên lặng tuần hoàn trong huyết quản để nuôi nấng ta và sưởi ấm tim ta : . . . . . .


 Dòng máu đỏ trong tim,
 Là máu hồng của mẹ.
 Dòng máu ấm lặng im,
 Nuôi ta từ tấm bé.

Hôm nay, tôi xin góp nhặt một vài vần thơ đã viết từ lâu, trong những giây phút cô đơn của cuộc sống để tưởng nhớ đến mẹ. Cái khổ đau và chua xót của mẹ tôi, cái ray rứt và xót xa trong tôi là những gì riêng tư, nhưng biết đâu cũng có thể rất gần với một vài người khác. Vì thế đã nhiều lần tôi có ý định viết lại những khổ đau và những xót xa đó, ít nhất là để lại cho con cháu tôi, nhưng rồi tôi vẫn không đủ can đảm. Mỗi lần cầm bút thì kỷ niệm và xúc cảm lại bùng lên trong tôi và nghiền nát tôi.

Mãi cho đến hôm nay khi đã quá nửa đời người và trong lúc góp nhặt những vần thơ còn cất giữ được, tôi mới chợt nhận ra rằng cái đau khổ và chua xót của mẹ tôi quả chẳng có nghĩa gì cả so với những nỗi khổ đau và xót xa của tất cả những người mẹ. Bỗng nhiên tôi cảm thấy lòng mình thật nhẹ nhõm khi nghĩ rằng kể từ hôm nay, tôi sẽ vĩnh viễn cất riêng cho tôi và dấu trong tôi thật thầm kín những chua xót của mẹ tôi. Tôi xin hiến dâng lòng hiếu thảotình thương của tôi cho tất cả những người mẹ trên thế gian này. Nếu người đọc nhận ra cái chân thật của xúc cảm trong các vần thơ của tôi, thì đấy chính là tình thương của tôi hiến dâng cho từng người mẹ trong tất cả chúng ta.

Bures-Sur-Yvette, 18.01.2005

Tác giả

Một mảnh không gian

Thưa mẹ, mẹ có biết không, thời gian, không gian làm cho con run sợ và phẫn uất. Đó là những biên giới đã phân chia tất cả, đã ngăn cách tất cả và làm cho con người lẻ loi và cuộc sống bơ vơ. Con muốn tạo ra trong quả tim nhỏ bé của con một thế giới mà nơi đó không có không gian và cũng chẳng có thời gian, tất cả những gì con ôm ấp đều gần gũi với nhau.

Biết bao nhiêu lần mẹ đã kể cho con nghe quãng đời con gái của mẹ nơi làng quê, bên ông ngoại bà ngoại..., những dịp lễ trong làng, những hội rằm, vui biết mấy. Vào những dịp như thế, ông ngoại vừa là thầy đồ lại vừa là thầy thuốc của làng thường đứng ra tổ chức các cuộc thi cờ người ở sân nhà mà mẹ còn nhớ mãi. Học lóm, mẹ đánh cờ rất giỏi. Mẹ cũng đã học được cả chữ nho và cả nghề bốc thuốc của ông ngoại.

Để rồi một hôm, mẹ về nhà chồng và không còn dịp nào quay về làng quê nữa. Mẹ làm dâu thật cực khổ, vừa phải nhịn nhục và chịu đựng đủ mọi thứ, lại vừa phải tảo tần, buôn bán để nuôi cha ăn học ở Hà-nội.

Mẹ kể rằng mỗi ngày mẹ phải gánh hai thúng hàng xén để lên đường ra chợ từ lúc trời còn tối đen và gà chưa gáy sáng. Ở chợ mẹ bán từng đoạn chỉ, cái kim, cái khuy, cái lược... Chiều về, theo bờ đê dọc đường làng, mẹ thường tìm nơi nào có ao sen để ngồi nghỉ chân. Mẹ nói mẹ thích hoa sen nhất trên đời, ngắm hoa soi bóng trên mặt nước là mẹ đỡ mệt hẳn đi. Nhìn hoa mẹ lại mơ màng nghĩ đến ông ngoại, bà ngoại nơi làng quê, đến cha ở Hà Nội, và đến cái quãng đời con gái của mẹ...

Thế rồi cha thi đỗ và được bổ đi làm tận bên Lào. Mười năm theo cha từ hạ Lào, thượng Lào, Vân Nam..., mẹ dành dụmtiện tặn để gởi tiền về cất cho bà nội một căn nhà ngói ở Sơn Tây. Căn nhà vẫn còn đấy mẹ, tuy xiêu vẹo, điêu tàn và cô giáo Tường cũng đã bán cho người khác rồi.

Năm 1938, mẹ lại theo cha vào Nam. Có những đêm nhớ làng quê, nhớ ông ngoại, bà ngoại, mẹ đọc chữ nho cho con nghe, con chẳng hiểu gì cả. Mẹ bảo rằng mẹ vẫn còn nhớ bóng dáng ông ngoại ngồi trên chiếc phản gỗ dạy học trò, mẹ lấp ló cạnh cửa hoặc bên vách để học lóm. Là con gái, mẹ không được học, thế mà mẹ cũng thuộc được gần hết Tứ thư Ngũ kinh. Con không thích kinh thư vì chẳng hiểu gì cả, nhưng có những đêm mẹ hát cho con nghe những bài hát mà mẹ thường hát khi còn con gái, những điệu cò lả, trống quân, ru con, quan họ..., và con cố cầm nước mắt. Tiếng hát của mẹ rưng rưng, chan chứa tình thương nhớ tự đáy lòng vẫn còn âm vang trong đầu con.

Mẹ nhắc mãi ước vọng của mẹ, cái ước vọng lớn nhất, cái ước vọng cuối cùng là được trở về quê cũ, thăm mộ ông ngoại, bà ngoại, thăm bờ ao cạnh nhà, thăm con đường làng Mông Phụ...

Mùa xuân năm 1991, thay mẹ con đã tìm về được ngôi làng của mẹ. Nhưng đâu còn gì nữa, con chẳng tìm ra ngôi nhà của ông ngoại. Hỏi thăm về nhà họ Đỗ, chỉ có vài người còn nhớ mang máng thế thôi. Nhà cửa san sát, con chẳng thấy bờ ao, cũng chẳng thấy bóng tre. Hơn ba phần tư thế kỷ đã chia cách cái quãng đời con gái của mẹ...

Con đã muốn gói một nắm đất của làng Mông Phụ đem về Nam đắp lên mộ mẹ, nhưng mộ mẹ cũng đâu còn. Bắc Việt nghĩa trang gần Tân Sơn Nhất lúc ấy đã biến thành một đám ruộng khoai.

Thôi mẹ ạ, mẹ hãy quên đi, tất cả những gì trên thế gian này đều phù du cả. Mẹ hãy nhắm mắt gạt bỏ tất cả mà chỉ nên giữ những gì còn sót lại trong đáy tim của mẹ. Những gì còn sót lại, con tin rằng lúc nào cũng thầm kín, vẹn toàn và trường tồn mãi mãi.

Cái mảnh không gian làng quê mà mẹ đã dùng tình thương để phác họa trong tâm hồn con vẫn còn nguyên vẹn, vẫn có ánh nắng hồng, có ao sen, có hội trăng rằm và vẫn thấp thoáng bóng dáng ông bà ngoại. Con xin được mang cái mảnh tình thương đó, cái mảnh không gian nguyên vẹn đó mà mẹ hằng ấp ủ để dâng lại mẹ, để đắp cho mẹ trong giấc ngủ ngàn thu: 


Rọc rách không gian từng miếng nhỏ,
Xếp vào từng mảnh túi hành trang.
Lớp lớp không gian ngày xưa đó,
Gói vào nén chặt nỗi niềm thương.

Cắt đứt thời gian từng đoạn ngắn,
Buộc túi hành trang đeo lên vai.
Hun hút ngàn thu đâu cách mãi?
Thời gian đâu dễ vướng chân ai.

Đường về quá khứ lần bước nhẹ,
Tìm về với mẹ chuỗi ngày thơ.
Chọn mảnh không gian làng quê mẹ,
Trải ra phủi sạch lớp bụi mờ.

Cả mảnh không gian ửng nắng hồng,
Có hàng tre rủ, vũng ao sen,
Có ông bà ngoại thương con gái,
Rời bỏ làng quê đi lấy chồng.
 
Chẳng một lần về, xa từ đấy,
Mẹ xa bà ngoại xa ông ngoại,
Xa cả bờ ao, xa luống khoai,
Tiếc cả hội làng vui biết mấy...

Nhắc mãi mẹ thương hoài quê cũ,
Cố gói về đây bên cạnh mẹ,
Chút mảnh không gian làng Mông Phụ,
Đắp lên mình mẹ giấc ngàn thu.



Một vùng hoang vu và sỏi đá,
miền nam Yemen, 10.10.92


Một lời thăm mẹ

Từ lâu chẳng một lời,
Không một câu thăm mẹ.
Hôm nay mẹ thế nào?
Mong mẹ vẫn an vui.
Suối vàng thuyền mẹ thả?
Con thuyền bé trôi xa?
Xanh rêu dòng nước chảy?
Mẹ hiểu cuộc đời này,
Sao có nhiều bận rộn,
Con phải sống, phải ăn,
Phải ngủ, phải làm việc,
Thêm tủi hờn, thương yêu.
Nhân gian kiếp làm người,
Món nợ này phải trả.
Từ những ngày xưa đó,
Biết bao nhiêu nước mắt,
Mẹ trả cho cuộc đời,
Mẹ trả cả thương yêu,
Mẹ cho con kiếp người.

Thưa mẹ,
Suối vàng rêu có xanh?
Yên vui thuyền mẹ thả?
Hai bên bờ ngát hoa?
Thế gian còn nhiều nợ.
Con nợ nắng ngày xuân,
Con nợ mưa ngày hạ,
Con nợ lá ngày thu,
Nợ cả rét chiều đông.
Lớn lên con nợ người,
Yêu thương con nợ mẹ.
Món nợ này bao la,
Con có gì để trả?
Xin trả hết cho người,
Còn chút nào trả mẹ.
Tuy tấc lòng nhỏ bé,
Nguyện trả bằng thương yêu.
Con chỉ xin giữ lại,
Chua xót chút tình người.

Thưa mẹ,
Từ lâu con vun xới,
Con ươm được cành hoa,
Lá xanh như cuộc đời,
Cánh hồng như tuổi thơ,
Nhụy hoa ngát tình người.
Trong tim con hoa nở.
Muốn gởi hoa cho mẹ,
Cổng thiên đường mờ mịt,
Cõi thiên đường sao xa?
Hình như trên cõi ấy,
Đã có thừa trăm hoa?
Vì mẹ cõi trần gian,
Đáy lòng con vun xới,
Cánh hoa ngát tình người,
Hoa này xin dâng mẹ,
Gởi mẹ cõi rêu xanh,
Thả hoa theo con nước,
Chốn suối vàng chìm sâu.

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse 10.08.98

 

Thăm mẹ

Thưa mẹ,
Suối vàng rêu có xanh?
Dòng nào thuyền mẹ thả?
Có bến bờ an vui?
Nghìn thu miền chín suối,
Mẹ mang theo được gì?
Dư vị một kiếp người?
Hay ngày xưa chua xót?

Thưa mẹ,
Nghìn thu cõi suối vàng,
hoa thơm cỏ lạ?
Có bến bờ xanh rêu?
Nao nao dòng nước chảy.
Nếu hôm nào mẹ thấy,
Lênh đênh trên con nước,
Bồng bềnh một cánh hoa.
Ấy là hoa dâng mẹ,
Lá xanh như cuộc đời,
Như kiếp người của mẹ.
Cánh hồng như tuổi thơ,
Ngày thơ thời tuổi nhỏ,
Nơi Mông Phụ làng xưa,
Yên vui bên ông ngoại,
Cạnh bà ngoại nuông chiều.
Mẹ hãy vớt cành hoa,
Nhụy thơm ngát tình người,
Từ lâu con vun xới.
Ấy tình người mẹ cho,
Thế gian làm chút vốn.
Ấy tình người mẹ trả,
Để trả hết cho người,
Mẹ gởi lại cho con,
Thay mẹ cõi trần gian,
Con trả hết cho người.

Thưa mẹ,
Suối vàng rêu vẫn xanh?
Mong manh con thuyền bé,
Dòng nào miền chín suối,
Có bến bờ an vui?

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse 17.08.98


Lại nhớ đến mẹ

Thưa mẹ,
Hôm nay mẹ vẫn khoẻ?
Suối vàng rêu vẫn xanh?
Lênh đênh con thuyền bé,
Nghìn thu mẹ có hay?
Bờ cỏ nào làm bến?
Kiếp người mẹ đã quên?

Thưa mẹ,
Thế đó là kiếp người.
Thôi chua xót ngày xưa,
Buông tay mẹ hãy bỏ,
Kiếp người mẹ hãy quên.

Riêng con,
Cõi phàm con vẫn nhớ,
Nắm chặt tay mẹ lạnh,
Trong tim con se thắt,
Suối rẽ một dòng quanh.
Thế đó là cõi người,
Nghìn thu con vẫn nhớ,
Ôm chặt tay mẹ lạnh,
Xót xa mẹ khép mắt,
Hai vành mi đọng lại,
Tê buốt một dòng xanh.

Thưa mẹ,
Đáy nước rêu có xanh?
Bấp bênh con thuyền bé,
Dòng nào thuyền mẹ thả?
Con nước này có sâu?
Xót xa một kiếp người,
Mẹ thả chìm xuống đáy.
Xoáy tròn con nước chảy,
Mẹ buông trả kiếp người.
Hãy bỏ hết đi mẹ,
Món nợ nào có quên,
Thay mẹ con sẽ trả,
Xin trả hết cho người,
Nguyện trả bằng thương yêu.

Thưa mẹ,
Mong mẹ cõi rêu xanh,
Nao nao dòng nước cuốn,
Mẹ đã quên kiếp người.

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse,
26.08.98

 

Sao vẫn còn nhớ mẹ

Thưa mẹ,
Thế gian con thương mẹ,
Chốn nào nơi chín suối,
Ngàn năm nước mấy dòng?
Suối vàng nước có sâu?
Dòng nào nước có xoáy?
Nếu con thuyền có chao?
Mẹ hãy vững tay chèo.

Xót xa mẹ bỏ hết,
Mẹ bỏ cả yêu thương,
Để giữ lấy tay chèo.
Cho con nước trong veo,
Cho cỏ rêu xanh bến,
Mẹ hãy quên kiếp người.
Cứ rêu xanh bờ cỏ,
Mặc con nước lửng lơ,
Mẹ đừng nhớ kiếp phàm.

Thay mẹ cõi trần gian,
Còn chút nào vương vấn,
mẹ con sẽ trả.
Cho hung bạo hận thù,
Con trả bằng tha thứ,
Cho oán hờn hung dữ,
Con trả bằng yêu thương.
Ấy là con trả mẹ,
Đền đáp chút thương yêu.

Xin mẹ,
Thế gian này bỏ hết,
Có gì đâu để thương,
Chẳng có gì để nhớ,
Sá gì đâu tủi hờn.

Này mẹ,
Suối vàng nước có sâu?
Giữa dòng con nước xoáy,
Nếu con thuyền có chao,
Mẹ đưa con tay chèo,
Con chống thuyền cho mẹ.

Thưa mẹ,
Mong mẹ chốn xanh rêu,
Yên vui con thuyền bé,
Nghìn thu con nước trong.

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse
28.08.98


Nghìn thu mẹ có hay

Chẳng lẽ ôm lấy tay mẹ mãi,
Bụng mẹ con xếp hai bàn tay.
Trả mẹ mười ngón xương xếp lại.
Thế đó nghìn thu mẹ có hay?

Dẫn con, nắm lấy tay mẹ dắt,
Nuôi con, xốc vác hai bàn tay.
Ra đi mười ngón gầy xếp lại.
Lặng lẽ nghìn thu mẹ có hay?

Nham hiểm, trong vòng tay mẹ che.
Hung bạo, đưa cánh tay mẹ đỡ.
Để rồi khép lại hai tay lạnh,
Lạnh buốt nghìn thu mẹ có hay?

Tuổi thơ xa mẹ ngày xưa đó,
Hai tay tuy nhỏ sức mẹ cho.
Chống đỡ cõi người từ thuở ấy,
Ở chốn nghìn thu mẹ có hay?

Dày dạn phong sương tay đã rắn,
Nghĩ rằng đủ sức che cho mẹ,
Mẹ đã xa rồi ngày xưa ấy,
Thương mẹ nghìn thu mẹ có hay.

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse, 11.09.98


Dọn bàn thờ cúng mẹ

Trên chiếc mâm nho nhỏ,
Con chọn một chùm nho,
Đặt dành riêng cho mẹ,
Tình con nằm trong đó.

Chọn cành hồng xanh lá,
Hương hồng thơm đậm đà,
Cắm vào bình cho mẹ,
Tình con nằm trong hoa.

Pha ấm trà chưa đầy,
Hương trà thơm nhẹ bay,
Tình con tan trong tách,
Rót cho mẹ thật đầy.

Nhớ một ngày còn bé,
Che bằng vạt áo mẹ,
Đi giữa trưa trời nắng,
Mát rượi tình mẹ che.

Có những lần con đau,
Xếp sách con nhức đầu,
Mẹ nấu con chén cháo,
Và thoáng vẻ lo âu.

Tình mẹ hòa bát cháo,
Nuôi con từng tế bào.
Rồi cuộc đời trôi mau,
Mẹ bay hồn phương nào ?

Giỗ mẹ ngày hôm nay,
Thắp mẹ nén hương này.
Theo khói hương nhè nhẹ,
Tìm mẹ tình con bay.

Sa mạc Yémen, 25.04.92


Mồ côi

Khổ đau nào lớn nhất,
Là khổ đau của mẹ.
Có người mẹ nào không đau khổ?
Nước mắt nào xót xa nhất,
Là nước mắt của mẹ.
Có người mẹ nào không khóc?
Ước vọng nào thiết tha nhất,
ước vọng của mẹ.
Có người mẹ nào không ước mơ ?
Nuôi con mẹ vẫn hằng mơ,
Mong sao con lớn chen chân với đời.
Con ôm chặt những ước vọng của mẹ,
Con xót xa những giọt nước mắt của mẹ.
Nhưng mà đau khổ mẹ ơi,
Làm sao con tát vơi lòng biển khơi?
Nhớ ngày hấp hối,
Mẹ nuốt hết lo âu,
Mẹ nuốt hết đau khổ,
Nhìn con mẹ gượng xanh xao nụ cười,
Này con giữ lấy tình người,
Cho con mẹ chỉ có ngần ấy thôi.
Tay mẹ xương,
Nắm tay mẹ lạnh,
Hành trang con gói chút tình,
Truyền tay mẹ ấm hành trình đường xa.
Thế rồi biển rộng bao la,
Nặng hành trang đó xông pha với đời.
Hôm nay con đã hiểu:
Tình người là thiên đường,
Yêu thương là cửa ngõ.
Vì con xin mẹ chớ lo,
Yêu thương con đóng làm đò,
Dọc ngang biển rộng gom lòng bàn tay.

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse
03.08.95


Biển cả tình mẹ cho

Nửa dòng máu trong tim,
Là máu hồng của mẹ.
Dòng máu ấm lặng im,
Nuôi con từ tấm bé.

Trong con mỗi tế bào ,
Ôm ấp tình của mẹ.
Dầu ở tận phương nào,
Về thăm con mẹ nhé.

Con thấy trong mắt mẹ,
Giọt nước mắt chưa nhoè,
Giọt nước mắt bao la,
Rạt rào như biển cả.

Trong con sóng dâng cao,
Cuồn cuộn ngọn sóng gào.
Dạt dào tình mẹ đó,
Biển cả tình mẹ cho.

Sa mạc thuộc miền Tây bắc Yémen, 17.06.92



Đêm huyền ảo


Hình như có tiếng chạm khẻ trên cửa sổ làm cho tôi thức giấc, nhìn lên tôi chợt thấy gió đưa một chiếc lá khô chạm nhẹ vào mặt kính bên ngoài cửa sổ. 


 Giữa mộng dường như ai gọi khẽ,
 Va nhẹ lá khô trên cửa kính.
 Giật mình nhìn ra khung cửa nhỏ,
 Khuôn vàng vành vạnh bóng đêm thanh.


Qua khung cửa, khuôn trăng tròn vành vạnh, thật trong và thật sáng. Nền trời màu lam lấm tấm sao đêm. Ô kìa, dường như trăng đang mỉm cười với tôi? Trăng nhìn tôi từ phía sau khung cửa và dường như mời mọc? Tuy có vẻ e thẹn nhưng trăng vẫn nhìn tôi và lại còn tiếp tục mỉm cười với tôi nữa. Chẳng lẽ tôi đang nằm mơ hay sao? Dụi mắt bước xuống giường, tôi khoác áo bước ra sân, nhìn lên trời cao. Nhưng đúng lúc ấy lại có một làn mây nhẹ trôi ngang và che khuất khuôn trăng.
 

Hơi mát của đêm thu đập vào mặt làm cho tôi tỉnh hẳn. Thật lạ, quanh tôi hình như thiên nhiên đều thức dậy. Cây cỏ đang trò chuyện với nhau. Những tảng đá đang trầm tư nghĩ ngợi. Dưới gốc cây, côn trùng đang tìm nhau và hò hẹn. Trong ánh sáng mờ ảo của trăng sao, dường như mọi vật bỗng trở nên thân thiện và gần gũi với nhau hơn.
 

Tôi bước vào khu vườn nhỏ bằng những bước chân thật nhẹ, nhẹ đến nỗi dường như cây cỏ cũng không bị va chạm dưới gót chân tôi. Vừa lúc bước đến bên cạnh bụi cúc mà tôi vừa trồng lúc ban chiều thì tôi bỗng trông thấy trong số những hoa cúc vàng đang khoe sắc dưới ánh trăng có một cánh hoa nghiêng nhẹ trong cơn gió thoảng và có vẻ như mừng rỡ và cất tiếng nói với tôi:
 

- Em cám ơn chàng đã mang em về ngôi vườn này và đặt em vào đất. Thật may mắn quá cho em được tìm lại hơi lạnh của đêm thu, nắng ấm của mặt trời và chân em sẽ ăn sâu vào lòng đất mát.

- Tôi chưa bao giờ để cho một cánh hoa phải héo đi trong một góc phòng hay chết khô trong chậu.

- Em xin đa tạ lòng ưu ái của chàng.

- Lạ nhỉ, sao hoa không có miệng mà lại nói được, không có tai mà lại nghe được ?

- Đâu cần có tai mới nghe được, đâu cần có miệng mới nói được, ta nóí với nhau bằng ngôn ngữ của lòng ta đấy !

-Thế à, cám ơn Cúc đã mách bảo, tôi sẽ tự tin hơn, sẽ nói chuyện với muôn vật và muôn loài chung quanh tôi bằng ngôn ngữ của lòng tôi.


 Hé mở lòng tôi trong yên lặng,
 Vằng vặc trong tôi muôn ánh trăng.
 Đón lấy quanh tôi muôn sức sống.
 Tâm sự thì thầm cùng vạn vật,
 Biết nói gì đây trong đêm sáng,
 Tôi cúi xuống từng cọng cỏ,
 Để ngỏ lòng tôi với muôn loài. 
 

Trên bờ thềm cạnh bụi cúc là chậu hoa lan mà tôi yêu quý nhất. Hoa màu tím nhạt và thật xinh. Tội nghiệp quá, hoa mong manh nhưng chịu đựng rất giỏi.

-Này Lan ạ, Lan có lạnh lắm không ? Trời đã vào thu rồi đấy, anh mang hoa vào nhà kính nhé.

-Không, em không lạnh lắm đâu. Cứ mặc em, em thích thiên nhiên và cảnh vật chung quanh em. Tim em giá buốt đã lâu rồi, có sao đâu.

-Thương Lan của tôi quá!


 Thương em tim tím cành lan,
 Tình xa vẫn thắm như ngàn ngày xuân ?
 Tình xanh xa lắm hay gần ?
 Yêu em còn biết có ngần này đây.
 Tình ai anh nắm trong tay,
 Se tròn năm tháng những ngày những đêm.
 Đêm nay ray rứt bóng em, 
 Nâng cành lan tím mà mềm nhớ thương.

 

Ô kìa, phía đằng kia dường như có một cành đào đang lơi lả và vẫy gọi. Bước đến gần, cành đào ngả nghiêng trong gió, mừng rỡ như muốn ôm chầm lấy tôi:

- Anh có biết không, đêm hôm qua mẹ anh có về ngang đây. Mẹ anh ngồi trên cỏ và tựa lưng vào thân em, được một lúc lâu thì dường như mẹ anh khóc. Em cũng chẳng hiểu những giọt nước mắt lấp lánh trên gương mặt của mẹ anh là những giọt nước mắt đau khổ hay toại nguyện, vì lúc trời mờ sáng và trước khi ra đi thì mẹ anh có nói với em rằng mẹ anh rất thương anh và hãnh diện vì anh.

- Thế à, xin cám ơn Đào. Mẹ tôi lúc nào cũng hãnh diện vì tôi. Đào có biết không, ngày xưa khi còn sống, mẹ tôi hy sinh rất nhiều và phải gánh chịu thật nhiều đau khổ. Cái đau khổ không bờ bến của mẹ tôi đã mở cửa đưa tôi vào một thế giới thật kỳ diệu, một thế giới của yêu thương, một thế giới mà tất cả vạn vật đều thân thiện với nhau, gần gũi với nhautrò chuyện với nhau...


 Đêm hôm qua mẹ về ?
 Thưa mẹ, mẹ vẫn khoẻ ?
 Trong con mẹ có nghe?
 Máu mẹ giọt thì thầm,
 Giọt máu hồng ấm ấm.
 Đâu ngờ mẹ về thăm.
 Trở về từ yên lặng,
 Tìm con trong âm thầm,
 Xa xăm mẹ về thăm ?
 Không phải thế đâu mẹ,
 Từ những ngày thơ ấu,
 Tim con mẹ vỗ về,
 Ru con từ tấm bé.
 Trong con từng hơi thở,
 Mẹ luôn luôn gần kề.

 

Đào lại chỉ chiếc đèn lồng tạc bằng đá hoa theo kiểu Nhật bản bên cạnh hồ cá đỏ và nói với tôi rằng:

- Nơi chiếc đèn lồng bằng đá đằng kia có một vị thần về trú ngụ đã từ lâu. Ngoài những lúc tham thiền, vị ấy thường đến trò chuyện với chúng em, giảng cho chúng em về Đạo Pháp, về Phật tính của muôn loài và bản chất Vô thường của cả vũ trụ này...

- Thật là vinh dự cho tôi, tôi phải đến vái chào vị ấy ngay.

Bước về phía chiếc đèn lồng bằng đá rêu phong trong bóng tối dưới chân bụi trúc cạnh bên hồ cá, tôi quỳ xuống và vái lạy. Vừa ngẩng đầu lên thì tôi bỗng thấy một cụ già, dáng gầy nhưng gân guốc và khoẻ mạnh, râu tóc bạc phơ, đang tọa thiền trước mặt tôi. Có lẽ đấy chính là vị thần mà Đào vừa mách bảo. Vị thần bỗng xuất thiền, hai vai chuyển động, hai mắt từ từ hé mở và nhìn tôi. Vị thần nhìn tôi thật nhân từ bằng đôi mắt rực sáng dưới ánh trăng. Vẻ từ bi của đôi mắt sáng như xuyên thẳng vào tâm hồn tôi, khơi động trong tôi một sức sống vừa mãnh liệt lại vừa êm đềm. Vị thần bỗng cất tiếng :

- Này cháu, ta đến tham thiền trong khu vuờn của cháu có lẽ không làm phiền đến cháu chứ ?

- Không đâu, không đâu, hơn nữa đấy lại còn là một vinh dự cho cháu và tạo cho cháu dịp may được gần kề với sức mạnh của thần linh.

- Ta hỏi thế thôi, thật ra ta đã hiểu tấm lòng của cháu. Mỗi ngày ta thường nhìn cháu cuốc đất trồng hoa, cháu chú tâm để yêu thương từng chiếc lá, từng hạt cát, thỉnh thoảng lại ngắm nhìn vạn vậttham thiền. Hay lắm, hay lắm, cháu hãy cố gắng hơn nữa.

- Xin đa tạ thần linh, mỗi ngày cháu sẽ xin cố gắng hơn.

 - Cháu có thấy khối đá cạnh lối mòn ở góc vườn hay không, khối đá đã trụ thiền hơn hai mươi triệu năm rồi đấy, im lìm với thời gian, bất động với không gian. Nước mưa chảy dài trên thân đá, rong rêu mọc xanh trên lưng đá. Có những con chim đến đậu, hót vang và phóng uế trên đầu của khối đá.

- Xin muôn vàn đa tạ, cháu đã hiểu được lời của thần linh chỉ dạy. Cháu xin dốc tâm cầu mong trong mỗi đơn vị nhỏ nhoi nhất của vật chất, trong mỗi tế bào đơn sơ nhất của muôn loài sinh vật, mặc dù trong hoàn cảnh nào, thuộc trường hợp nào thì thực tính cũng đều được hiển lộ một cách viên mãn và kết tinh lại như từng tinh thể trong khối đá kia để tất cả cùng nhau vượt ra khỏi không gianthời gian. Cháu xin được cúi lạy thần linh để tỏ lòng biết ơn. Tôi mọp đầu xuống mặt đất để lạy tạ. Vừa ngẩng đầu lên thì vị thần đã biến mất 

Từ từ đứng lên tôi lại tiếp tục đi quanh ngôi vườn. Trong ánh sáng mờ ảo của trăng sao, giữa sự vắng lặng của đêm thanh và sâu thẳm của bóng tối, bỗng dưng tôi nghe vang lên nhè nhẹ một khúc hát thật êm dịu. Tôi phân biệt được từng tiếng ca, tiếng hát, tiếng đàn, hình như tất cả đã phát ra từ các hạt tinh thể trong cát đá, từ mỗi tế bào của cỏ cây và sinh vật. Thật lạ lùng, trong tôi từng giọt máu, từng tế bào cũng hòa nhịp để hát theo, làm vang lên nhịp điệu của một khúc nhạc giao hưởng, của một bản tình ca vô tận. Tôi quỳ xuống, úp mặt vào lớp cỏ xanh, xác thân tôi bỗng tan ra thành nước thấm vào lòng đất, hòa với rễ cây và sỏi đá. Tôi nghe nhè nhẹ quanh tôi tiếng thì thầm của côn trùng trong cỏ dại, xôn xao tiếng gọi nhau và hò hẹn của dế giun .
 

Huyền diệu thay cái sâu thẳm trong tôi và trong vạn vật. Trong cái sâu thẳm đó tôi tìm thấy sự kết hợp giữa yêu thươngvắng lặng, âm điệu của một bản tình ca :


 Vang lừng tiếng hát trong yên lặng,
 Mờ ảo quanh tôi muôn ánh trăng.
 Không dây, không phím, không người khẩy,
 Nhịp nhàng trong vắt tiếng đàn căng.
 Yên lặng trong tôi trong vạn vật,
 Cùng nhau giao hưởng khúc tình ca.
 Vi vu tiếng sáo không người thổi,
 Bên hồ cành trúc bóng trăng rơi.
 

Trong cái ồn ào của cuộc sống hằng ngày tôi không nhìn thấy được gì cả, không nghe được gì cả. Tiếng kêu gào, lời dối gạt và hận thù của người làm chính trị khiến tôi sợ hãi. Ánh sáng của đèn đuốc, màu sắc của quần áo và phấn son làm mù hai mắt tôi. Sự tấn công dồn dập của hình ảnhâm thanh nơi phố xá, trên mặt kính truyền hình, nơi trung tâm thương mại... làm cho tâm trí tôi tê liệt và u mê. Sự giả dối, tham vọng, hận thù giữa người và người làm cho tôi bàng hoàng và khiếp sợ.

Huyền diệu thay, bình an thay, tôi bước vào cái thanh thản của một ngôi vườn, trong tiếng nhạc hòa tấu của thiên nhiên. Vạn vật đều đến gần với tôi và yêu thương tôi. Chân tôi chạm với cỏ ướt, gió lạnh ôm lấy mặt tôi. Từng hơi thở, tôi trao đổi hơi ấm trong tôi với khí mát của đêm thanh.
 

Bỗng cảnh vật mờ hẳn đi, ngôi vườn chìm vào bóng tối. Tôi nhìn lên cao thấy một đám mây nhỏ kéo đến và che khuất khuôn trăng. Chực nhớ rằng ra vườn là cốt ý nhìn trăng, tôi bèn tiếp tục nhìn lên cao và có ý chờ cho đám mây bay đi. Nền trời sâu thẳm và đầy sao, xa xa một vài cụm mây nhỏ khác chầm chậm lướt ngang. Vầng trăng từ từ ló dạng, trong vắtrạng rỡ. Tôi lại tiếp tục đi, trăng theo tôi từng bước trong ngôi vườn, bỗng dưng tôi có cảm giác dường như trăng đang nhìn tôi và mỉm cười với tôi....Ngước đầu lên thì quả đúng như thế, trăng đang mỉm cười với tôi. Lạ thật, tôi bước thì trăng cũng bước theo, chúng tôi bước bên nhau trong khu vườn nhỏ bé và mờ ảo, chung quanh vang lên văng vẳng một điệu nhạc thật êm dịu và nhẹ nhàng.
 

Thỉnh thoảng tôi lại nhìn trăng, trăng vẫn yên lặng đi bên cạnh tôi và cũng quay sang sang nhìn tôi, nhìn tôi với một nụ cười thật hồn nhiên và giản dị như nụ cười của trẻ thơ. Tuy nhiên cũng có lúc trăng lại cười với tôi bằng nụ cười của một người thiếu nữ, tình tứ, đậm đà và e thẹn. Rồi bổng dưng nụ cười lại biến đổi, mường tượng như nụ cười của một vị Phật, hiền hòa, nghiêm trang, nhân từtrầm lặng...

Bỗng nhiên tôi cảm thấy dường như đôi chân của tôi nhẹ hẳn đi và rời khỏi mặt đất. Sao trời bỗng gần lại với tôi hơn, đang nhẹ nhàng chuyển động và xoay vần trong quỹ đạo. Văng vẳng tôi nghe xôn xao các vì sao đang kể chuyện và hàn huyên với nhau. Từ trong sâu thẳm của trời cao tôi vẫn còn nghe văng vẳng khúc tình ca vang lên từ ngôi vườn nhỏ bé của tôi.
 

Tôi vẫn tiếp tục bước, thật nhẹ và thật nhẹ. Lạ thật, có phải tôi vẫn đang bước trong ngôi vườn hay đang tản bộ bên bờ sông Ngân hà, hay biết đâu cũng có thể là đang trôi giạt trong một cõi không gian nào xa lạ ? Dầu sao thì bên tai lúc nào tôi nghe thấy tiếng côn trùng thỏ thẻ, tiếng trăng sao thì thầm, hòa lẫn với tiếng róc rách của bờ nước sông Ngân...
 

Về phía chân trời, hình như có những tia sáng ló dạng, có lẽ sắp hừng đông. Trăng đã thấp, muôn sao cũng mờ đi. Tôi quay vào nhà, lên giường và kéo chăn lên tận cổ rồi thiếp đi trong một giấc ngủ muộn, một giấc ngủ thật nhẹ nhàng và êm ái. Văng vẳng quanh tôi hình như chim muông đã thức dậy, hót vang đón mừng những tia nắng mới của một buổi bình minh.
 
Bures-Sur-Yvette, 20.10.00


 
Giấc mơ thật thà

Chiều về chênh chếch đồi xa,
Nghiêng nghiêng giọt nắng hiên nhà nắng phai.
Chiều sa tím dãy đồi dài,
Tím màu mắt mẹ những ngày xa xưa.

Trước sân cành lá đong đưa,
Như ru nhịp võng mẹ đưa ngày nào.
Chiều buông nhớ mẹ nao nao,
Buông vào quá khứ chìm vào tuổi thơ.

Thời gian ngày bé hững hờ,
Trôi nhanh cuốn cả giấc mơ thật thà.
Mơ rằng khi lớn làm ra,
Xây nhà mẹ ở mua quà mẹ ăn.


 Paris, 10.08.92 
 



Con gởi vào lòng đại dương

Sống còn nửa kiếp lênh đênh,
Một con thuyền bé bập bềnh nhớ thương.
Càng dày càng dạn phong sương,
Càng chao thuyền bé càng thương mẹ nhiều.

Xếp vào nén được bao nhiêu,
Nặng khoan thuyền bé bấy nhiêu là tình.
À ơi từ thuở sơ sinh,
Thương mẹ dấu kín một mình chẳng trao.

Thuyền ơi thuyền giạt phương nào?
Xoáy theo dòng đục cuốn vào dòng trong?
Cái ngày chìm xuống giữa dòng,
Thương mẹ, con gởi vào lòng đại dương.


Sana (Yémen), 06.12.92


Người lính thủy của mẹ

Này con, người lính thủy của mẹ,
Biển xa căng cánh buồm thuyền bé.
Sóng xô, con nắm chặt tay chèo,
Biển rộng, ước vọng mẹ nhìn theo.

Thương con hai cánh tay còn nhỏ,
Trên sóng lái con thuyền nhấp nhô.
Cắn răng con vượt lên ngọn sóng.
Sức mẹ trên cánh tay con đó!

Cỡi sóng con ngược về quá khứ,
Ra khơi con đừng quên lịch sử.
Này con, người lính thủy của mẹ,
Căng gió con lướt vào tương lai.

Thương con, mẹ chắp hai bàn tay,
Mong con, con đừng buông tay lái.
Này con, người lính thủy của mẹ,
Gió bão, con có hai bàn tay.

Cứ mặc, dù biển xa thuyền bé,
Lướt lên người lính thủy của mẹ!
Mẹ biết hai bàn tay con cứng,
Đừng sợ dù sóng to con nhé!

Này con, rồi một ngày đẹp trời,
Nơi xa bên kia bờ biển khơi,
Êm ả cánh buồm căng hương gió.
Thế đó con đi vào lòng người.

Thế đó mẹ tiễn con vào đời,
Vẫy tay bên này bờ biển khơi,
Xa con, người lính thủy của mẹ,
Hai tay, con đừng quên con nhé!


Bures-Sur-Yvette, 27.12.01


Ước vọng

Ru con bên ngọn đèn hao,
Ru từng ngày tháng ru vào tương lai.
Mẹ ru ước vọng thật dài,
Mong sao con lớn sánh vai bằng người.

Ước mơ giúp mẹ nụ cười,
Giúp cho mẹ tưởng đêm dài nửa gang.
Bỗng buông tay võng bàng hoàng,
Mẹ mang theo mẹ dở dang mộng dài.

À ơi ước vọng đừng phai,
Hãy ru cho mẹ giấc dài ngàn thu.



Paris, 13.08.92



Chắp tay

Chắp tay,
Xin được làm ngọn gió,
Lay ngọn nến lập loè,
Trên bàn thờ giỗ mẹ.

Chắp tay,
Xin hóa làm hạt bụi,
Bám trên vết chân người.
Chốn hồng trần tha phương.

Chắp tay,
Ước làm manh chiếu rách,
Đắp cụ già hành khất,
Đêm vỉa hè co ro.

Úp mặt,
Xin hóa làm nước mắt,
Giọt nước mắt thật mặn,
Lăn trên má người tình.

Ngửa tay,
Gió luồn qua năm ngón,
Mười ngón tay thật thà,
Là những vần thơ tôi.

Ngửa tay,
Rơi xuống làm hạt bụi,
Hồng trần cơn gió lốc,
Một cõi nào lang thang.

Khe khẻ,
Tôi kéo manh chiếu rách,
Đắp thân người hành khất,
Trên vỉa hè quê hương.

Đưa tay,
Lau hai dòng nước mắt,
Những giọt nước thật mặn,
Hoen trên má người tình.

Dòng nước mắt yên lặng,
Như một vần thơ câm.
Cứ giữ yên trong mắt,
Thôi đừng chờ tôi lau.

Lạc bước tận phương nào?
Trót làm thân hạt bụi,
Bám trên vết chân người,
Cõi về đâu nhớ lối.

Vào một đêm mưa lạnh
Có một người hành khất
Ngủ bên lề cuộc đời
Thiếu cả manh chiếu rách.

Nhẹ như thân hạt bụi,
Phương nào theo gió bay.
Ngọn nến bàn thờ mẹ,
Ngọn gió về lung lay.


Bures-Sur-Yvette, 21.11.02


Mẹ dạy tình người

Giữa cuộc đời hung bạo,
Mẹ dạy nở nụ cười.
Mẹ tập tim con nhịp,
Nhắc con nhớ tình người.

Mẹ dạy con yêu đời,
Mắt mẹ nhòe đau khổ.
Mẹ khuyên hãy thương người,
Tim mẹ gầy héo khô.

Thiết tha mẹ thương người,
Cho nên con vẫn nhớ,
Mẹ dạy trong giấc mơ,
Tìm mẹ giữa tình người.

Tình người con tìm thấy,
Đáy hồn con dâng trào,
Bóng mẹ sao chẳng thấy?
Hồn mẹ lạc phương nào?

Thả hồn bay tìm mẹ,
Nghe tim run khe khẽ,
Ngỡ nhịp tim của mẹ,
Hóa ra chính tình người.
 
Sa-mạc Yémen, 17.06.92

 
Ta đi mình ở lại nhà

Ta đi mình ở lại nhà,
Cái ao rau muống luống cà mình chăm.
Một đi nào biết bao năm,
Đêm mưa giường lạnh mình nằm nhớ ta ?

Công danh trông thế mà xa,
Đêm đêm đèn sách cho ta nhớ mình.
Sáng trăng xem hát sân đình?
Hay bên khung cửi để mình nhớ ta.

Bước đi thương nhớ mẹ già,
Vì ta mình nhé mẹ già mình thương.
Vì ai khăn để đầu giường,
Mà lau nước mắt giọt thương giọt dài.

Giọt dài rõ xuống vì ai,
Không ta mình thấy đêm dài lắm chăng?
Thương mình ta nhắn mình rằng,
Đêm đêm trăng sáng chúng mình với nhau.

Thương nhau dù có chờ lâu,
Mẹ già mình nhé quả cau miếng trầu.
Cái ngày ta được đỗ đầu,
Vinh quy ta lại với nhau chúng mình.

Bures-Sur-Yvette 13.01.01



Công cha nghĩa mẹ
 
 
Công cha như núi thái sơn,
 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
 Ca Dao

Bập bẹ ngày biết nói,
Vuốt đầu con mẹ hỏi :
Thương cha con để ở đâu ?
Tình cha con chất trên đầu thật cao.

Thương mẹ, mẹ chẳng hỏi,
Riêng con, con không nói.
Nhưng mà mẹ có biết không?
Thương mẹ con dấu trong lòng con mang.

Tập viết mẹ cầm tay,
Mẹ dạy chép câu này :
Công cha nhiều lắm con ơi,
Này con hãy nhớ vào đời mang theo.

Công cha cố đáp đền,
Nghĩa mẹ có đâu quên.
Công cha con chép sổ dầy,
Nghĩa mẹ con khắc tầng mây lưng trời.

Paris, 20.08.92

 
Một giọt nước

Thưa mẹ,
Hôm qua con nằm mơ,
Thấy có con đom đóm,
Lập loè như vì sao,
Trên cành đào cạnh cửa.

Sáng hôm nay ra vườn,
Con thấy một giọt sương,
Như viên ngọc long lanh,
Như pha lê trong suốt.

Óng ả trên cành đào,
Một giọt sương thật trong,
Lồng mây trời màu hồng,
Ửng màu xanh đọt lá.

Giọt sương mai thật trong,
Mong manh như bọt nước,
Rạt rào trên ngọn sóng,
Cõi đại đương mênh mông.

Thưa mẹ,
Con nhớ phút ra đi,
Mẹ cho con nước mắt,
Một giọt nước cuối cùng,
Của thân gầy héo khô.

Nhìn con bằng nước mắt,
Mẹ cho con vị mặn,
Của khổ đau kiếp người,
Của bọt sóng ngàn khơi.

Lớn lên con đã hiểu,
Bằng một giọt nước mắt,
Mẹ cho con màu hồng,
Của mây trời lồng lộng.


Mẹ cho con màu xanh,
Màu xanh của hoa lá,
Xanh xanh một kiếp người,
Xanh ngát một mùa xuân.

Bằng giọt nước lấp lánh,
Mẹ cho con trăng sao,
Lẫn thięn hŕ vũ trụ,
Cả trần gian těnh người.

Thưa mẹ,
Ngỡ mắt mẹ đã khô,
Thế gian xuân đã tàn,
Đại dương nước đã cạn,
Muôn sao trời đã tan.

Nhưng hôm nay lại thấy,
Giọt nước mắt của mẹ,
Trên chót lá đầu cành,
Một giọt sương thật trong.


Bures-Sur-Yvette, 19.12.99



Tôi hỏi

Ngày bé tôi hỏi mẹ:
Vì sao rừng âm u ?
Giống sài lang hung dữ ?
Này con, con nghe mẹ :

Rừng sâu không âm u,
Muôn thú không hung dữ.
 Sợ lòng con âm u,
Chính tim con hung dữ.

Con chớ sợ rừng sâu,
Con đừng e muôn thú.
Mẹ lo sợ cho con,
Thiếu tình thương rộng mở.

Ngày bé tôi hỏi cha :
Có những gì thật xa,
Bên kia bờ biển cả ?
Này con, con nghe cha :

 Chẳng có gì thật xa,
Chẳng có gì là lạ.
Lớn lên con sẽ đi,
Bến bờ kia con đến.
 
Con lại thấy rừng sâu,
Con thấy trăm cầm thú,
Con lại thấy loài người,
Những con người như con.

Con đi, ngỡ càng xa,
Địa cầu chừng nhỏ bé,
Con trở về với mẹ,
 Con quay về với cha.

Lòng người dù bao la,
Tình người con nối lại.
Tình con dù nhỏ bé,
Nhớ ôm bằng hai tay.

Lớn lên tôi hỏi lá :
Âm u rừng có sâu ?
Thanh thản lá trên cành,
Nhìn tôi bằng màu xanh.

Tôi hỏi loài cầm thú,
Thú nhìn tôi sợ hãi :
Kinh sợ một giống người,
Mơ địa cầu hoang vu.
 
Úp mặt tôi hỏi biển :
Vì đâu lòng biển mặn ?
Rạt rào, muôn ngọn sóng,
Gọi tôi vào hư không.


Bures-Sur-Yvette, 06.01.04
 

 
Hơi thở

Từ ngày lọt lòng mẹ,
Tôi biết thở một mình.
Thuở bé nằm trong nôi,
Tôi biết khóc gọi mẹ.

Hôm nay tôi còn thở,
Hơi thở này của ai ?
Của mong manh hạnh phúc ?
Của khổ đau kiếp người ?

Phút này tôi đang thở,
Hơi thở này vì ai ?
Vì trong tôi xót xa ?
Vì tình người phải trả ?

Tại sao tôi vẫn thở ?
Cho ai hơi thở này ?
Nhịp thở này cho mẹ,
Hơi thở này cho cha.

Tôi thở cùng hoa lá,
Cùng với muôn cầm thú,
Tôi thở với rừng sâu,
Tôi thở với địa cầu.

Này côn trùng cầm thú,
Cùng hoa lá hoang vu,
Hãy cho nhau hơi thở,
Vì nhau nhịp thở này.

Cùng thở với đại dương,
Ta thở với thủy triều,
Dâng lên rồi rút xuống,
Ta thở với mười phương.

Mười phương trời rộng mở,
Ta thở với trăng sao,
Ta thở trong lòng người,
Ta thở vào vũ trụ.

Hôm nay tôi còn thở,
Nghìn năm tôi vẫn thở.
Hơi thở nào cho mẹ?
Nhịp thở nào cho cha?

Xót xa tôi vẫn thở,
Tôi thở cho muôn hoa,
Tôi thở vì muôn thú,
Tôi thở bằng tình người.

Úp mặt trong hai tay,
Tôi thở bằng nước mắt,
Giọt nước mắt thương người,
Tôi khóc từ trong nôi.

Tôi không khóc gọi mẹ,
Mẹ cho tôi hơi thở,
Tôi đã thở một mình,
Tôi thở với trăng sao.
 

Bures-Sur-Yvette, 06.01.04


Ngày xưa đất Lào

Vientian, Pacsé, Luang Prabang,
Phongsaly, Louang Namtha, Xieng Khouang...
Thưa Cha, những ngày xưa đất Lào,
Thưa Mẹ, đã bảy mươi năm rồi đấy mẹ.
Thời con chưa ra đời,
Cha mẹ đi làm xa,
Tình quê hương trên vai,
Giang hồ căng mạch máu.
Hôm nay con trở lại,
Những ngày xưa trôi mau...
Bẩy mươi năm đấy cha,
Một kiếp người mẹ nhỉ?
Hôm nay con tìm lại,
Những ngày xưa thật xưa,
Mảnh thời gian thật xa.

Thưa mẹ,
Con kể chyện mẹ nghe :
Mékong nước vẫn đục,
Dòng Nam Ou lững lờ.
Ngày nhỏ con còn nhớ,
Xứ Lào mẹ thương quê,
Thương ông ngoại bà ngoại,
Nhớ mái đình bờ ao.
Mẹ kể chuyện xứ người,
Chuyện nước độc rừng thiêng,
Cảnh núi đồi cheo leo,
Chuyện bản Thái người Mèo,
Chuyện người Lào phố chợ.
Mẹ kể con còn nhớ,
Hôm nay con tìm lại,
Cảnh nước Lào ngày xưa,
Một ngày xưa của mẹ.

Thưa cha,
Con kể chuyện cha nghe :
Đỉnh Phou Loi mây mờ,
Những bản Mường bơ vơ,
Rừng hoang đầy cầm thú,
Nay đã kém hoang vu.
Cố tìm vết chân cha,
Chốn rừng sâu âm u,
Chỉ thấy vết chân người,
Trên đường mòn phố bụi.

Thưa mẹ,
Chùa That Luang vàng son,
Con thắp nén hương này,
Thoang thoảng khói hương bay.
Hình dung hình bóng mẹ,
Cứ ngỡ rằng hôm nay,
Con đang quỳ bên mẹ.
Trên bệ hương trầm bay,
Phật ngồi im trong khói.

Thưa cha,
Ngang dọc một quãng đời,
Một quãng đường kinh nghiệm,
Thương yêu ngập trong tim.
Mắt cha là trời rộng,
Phổi cha khí rừng thiêng.
Cha trao lại cho con,
Yêu thương căng mạch máu.
Giang hồ nặng hai vai.

Hôm nay con trở lại,
Xa xưa mảnh đất Lào,
Rạt rào tình thương mẹ,
Bóng cha trĩu trên vai.
Thương cha và nhớ mẹ,
Gót giang hồ hôm nay.

Mường Pakbeng bên bờ sông Mekong, 03.03.00

 
Thưa mẹ,

Ngày còn nhỏ vào những đêm mưa mẹ thường hay kể cho con nghe về những ngày thơ ấu của mẹ bên ông ngoại bà ngoại, hoặc những chuyện phiêu lưu của cha và mẹ tận xứ Lào xa xôi. Ngoài những mẫu chuyện lưu luyến của những ngày ấu thơ và của thời còn con gái nơi làng quê thì hình như cái khoảng thời gian mười năm theo cha nơi xứ Lào đã ghi đậm trong ký ức của mẹ thật nhiều kỷ niệm và đã đánh dấu một khúc quanh rất lớn trong cuộc đời của mẹ.

Phải chăng sau bao nhiêu năm làm dâu mẹ chồng, chị chồng và khổ cực nuôi cha ăn học, mẹ đã tìm thấy những giây phút tự do và một chút hạnh phúc thật sự bên cha nơi xứ Lào hoang vuxa lạ

Mẹ kể rằng thuở ấy nước Lào còn hoang vu lắm, con người rất chất phác, thật thà và giản dị. Rừng núi chưa có vết chân người. Mẹ và cha phải đi thuyền trên sông Mê-kông, sông Nam Ou, ngược lên bắc Lào để nhậm chức vì thuở ấy chưa có đường bộ. Có những khúc sông nước xoáy và chảy mạnh, không thể chèo hay chống thuyền ngược dòng nước được, khi gặp những khúc sông ấy thì hàng chục người phu phải phải cột dây vào thuyền và chia nhau lội nước hai bên bờ sông để kéo. Chung quanh rừng núi hoang vu, khỉ vượn hàng đàn trên các cành cây cao. Hai bờ sông cọp beo rình rập đuổi bắt hươu nai xuống uống nước. Khi gặp voi thì các người phu phải trèo lên bè hoặc lội ra giữa dòng để tránh.

Đêm đến, thuyền neo giữa dòng sông để nghỉ. Các người phu ngủ trên bờ hoặc trên bè của họ. Rừng núi trở nên âm u hơn. Tiếng côn trùng và cầm thú vang rền trong rừng sâu đen ngòm. Vào những đêm trăng, các đỉnh núi chót vót khuất trong mây và sương mù lại càng trở nên bí hiểm và hùng vĩ hơn.

Sau khi thiết lập xong các hệ thống viễn thônghành chánh, cha mẹ lại phải đổi đi nơi khác. Có khi di chuyển trên lưng lừa hay lưng ngựa, bên những sườn núi cheo leo, mây mờ dầy đặc. Mẹ thường bảo rằng đi trong mây, cảnh vật hóa thành trắng đục như sữa, không còn phân biệt được gì cả ở chung quanh. Mây lại có mùi khen khét như khói.

Mẹ còn kể cho nghe về nếp sống, thói tục, tập quán, bùa ngải nơi các bản làng của thổ dân miền núi.

Hôm nay, đã hơn bảy mươi năm rồi đấy mẹ, con trở lại nước Lào để cố tìm lại những kỷ niệm của mẹ. Dầu sao thì con cũng không tìm thấy cái hoang vu trong các câu chuyện mà mẹ đã kể hoặc nếu một vài nơi hoang vu nào còn sót lại thì cái hoang vu đó có lẽ cũng đã kém đi nhiều. Quang cảnh chung quanh con hình như có vẻ thờ ơ, kém hẳn cái thiết tha trong những lời mẹ kể. Biết đâu trí tưởng tượng của con khi còn thơ ấu đã biến cái hoang vu trong các câu chuyện của mẹ trở thành hoang vu hơn và cái thiết tha trong những kỷ niệm của mẹ trở thành thiết tha hơn ?

Đến Vientian con có viếng chùa That Luang, chùa Si Saket. Tại Luang Prabang, con có trèo lên ngôi chùa thờ Phật trên đỉnh đồi Phou Si, viếng chùa Xieng Thong, đi thuyền đến động Pak Ou..., nơi nào con cũng hình dung hình bóng mẹ đang quì dưới bệ thờ để tưởng nhớ đến ông ngoại, bà ngoại nơi quê nhà.

Một kiếp người mẹ nhỉ.

Bures-Sur-Yvette, 06.06.00

 
Con mơ được một lần

Con mơ được một lần,
Một lần thôi mẹ nhé,
Thêm một lần nữa thôi,
Được nắm lấy tay mẹ.

Chỉ ước được một lần,
Trước khi mẹ nhắm mắt,
Được nói thêm một lời,
Nói rằng con thương mẹ.

Nhưng hôm nay nghẹn lời,
Ngước nhìn lên quỹ đạo,
Nhạt nhoà với trăng sao,
Lặng im con thương mẹ.

Chắp tay con quỳ xuống,
Tìm lời của côn trùng,
Thì thầm trong cỏ dại.
Nghìn thu mẹ có nghe ?

Bằng những lời thương mẹ,
Con nói với trẻ thơ,
Con nói vào lòng người,
Nói với từng cọng cỏ.

Cứ nhắm mắt mẹ nhé,
Cả thế gian là mẹ.
Con có muôn ngàn dịp,
Để nói lời yêu thương.

Riêng một câu thương mẹ,
Con nuốt vào trong tim,
Ngước nhìn lên trăng sao,
Con gởi vào quỹ đạo.

Bures-Sur-Yvette,
08.03.08


Lửa hồng

Sinh ra từ ngọn lửa,
Ngọn lửa của mẹ cha ?
Của đam mê dục tính ?
Của bản năng kiếp người ?
 
Quay về từ muôn kiếp,
Hừng hực lửa luân hồi.
Đã bao lần tắt lịm,
Lại le lói trong nôi.

Lớn lên trong lửa bỏng,
Tôi đi vào cuộc đời,
Bơ vơ từng bước nhỏ,
Trên những vũng than hồng.

Bằng ngọn lửa trong tim,
Hai bàn tay chắp lại,
Xin tình người rộng mở,
Dìu tôi vào yêu thương.

Làm đóm lửa lập loè,
Hao mòn thân ngọn nến,
Tôi soi bát cơm đầy,
Trên bàn thờ giỗ mẹ.

Cấu hợp nào kết lại ?
Tứ đại này củi khô,
Nguyện làm mồi cho lửa,
Từ bi ngọn lửa hồng.

Máu ấm đỏ trong tim,
Tôi đi tìm bóng mát,
Thế giới này lửa bỏng,
Có cõi nào lặng im ?

Dưới bóng cội cây này,
Tréo chân tôi ngồi xuống.
Tất cả những ngọn lửa,
Bỗng vụt tắt trong tôi.


Bures-Sur-Yvette, 20.08.07

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25653)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37869)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19587)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18668)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14258)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20099)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9503)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14370)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35566)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10654)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19703)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23200)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10746)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20218)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10602)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9965)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14877)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17654)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17597)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13190)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31164)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25758)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13980)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17506)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10976)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12289)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10469)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12269)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9615)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12354)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9196)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8494)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9959)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12032)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14417)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9900)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11206)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8295)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14083)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9907)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15205)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13036)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23076)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23987)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12570)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15426)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17786)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15049)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16551)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16092)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17639)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11590)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11617)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17825)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10780)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10519)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11322)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12078)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11049)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36417)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8961)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9678)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34709)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17263)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10242)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10468)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12198)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13635)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14665)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9149)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24806)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11636)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10315)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15939)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15570)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14578)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18355)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9570)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18519)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18585)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19017)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13344)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47988)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11065)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13549)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13037)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12553)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31772)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11669)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant