Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền: Sự Tĩnh Lặng của Tâm

22 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 14231)
Thiền: Sự Tĩnh Lặng của Tâm

 

Xưa nay ai cũng biết Thiền là tìm về cõi tĩnh và lặng để cho tâm được an tịnh. Thật ra Tĩnh là lúc nào cũng biết rõ ràng, còn lặng là yên lặng; tức là trong trạng thái như là thân tâm bất động, dừng mọi hoạt động của thân tâm. Làm thế nào để thân và tâm bất động? Phải biết điều thân là làm cho thân yên ổn không di động, cách ngồi cho chắc nịch như kiết gíà, bán già, hay sao cho việc ngồi thiền lâu. Từ đó tâm mới có thể được yên lặng, nhưng chưa phải là tâm không hoạt động vì dòng tư tưởng trong tâm lúc nào cũng trào ra như tâm viên ý mã vậy. Tâm được tĩnh lặng là lúc nào cũng tĩnh (tĩnh giác) là biết rõ ràng, còn tâm lặng là vắng mọi vọng niệm, bặt các vọng tưởng. Ngoài cách điều thân ra, thiền cần mở ra nhiều phương pháp chế ngự tâm này cho nó thuần thục vâng lời theo Ta (ông chủ) được an tịnh mà Phật đã dạy nhiều Pháp Môn cho chúng sanh tùy căn cơ trình độ để tu tập. Dù có nhiều pháp môn khác nhau để điều tâm, tựu chung chỉ có phân biệt hai cách làm cho tâm được tĩnh lặng; đó Thiền tiệm ngộ, tương đối làm cho dòng tâm thức bớt chao đảo, bớt vọng niệm, bớt gây nghiệp thức, dòng tâm thức trong sáng hơn; còn Thiền đốn ngộ, tuyệt đối rèn luyện tuệ giác chặt chẻ và miên mật hơn để rửa sạch dòng tâm thức triệt để hơn, từ đó nghiệp thức trong tâm dần dần sáng sủa không còn vẩn đục. Bài này chỉ chú trọng đến cách điều tâm thuộc phạm vi trí tuệ, một phần trong toàn bộ tu tập của Phật Pháp.

 

I. Pháp Môn Căn Bản

 

Trong kinh Pháp Môn Căn Bản, Phật dạy phương pháp căn bản dùng trí để thiền định bằng hai cách sau: một cho phàm phu dùng tưởng tri để nhận thức, còn đối với vi hữu học, bậc A-La-Hán, và đấng Như Lai thì dùng thắng tri hay tuệ tri để nhận thức.

Phàm Phu

Tưởng thức là sự suy nghĩ, tưởng nhớ, tưởng tượng, ký ức, thuộc loại Mạc- Na- thức hay trong A-Lại-Da-thức, là những hình ảnh được khôi phục lại, có cái trung thực, có cái sai lạc và ngay cả có cái tương tự lẫn lộn với hình ảnh đối tượng cũ, nhưng không phải đối tượng cũ. Đã là những hình ảnh cũ khôi phục lại là những ảo ảnh của những đối tượng khiếm diện (kể như không có đối tượng). Do đó tưởng tri là biết do tưởng thức hoặc suy nghĩ lại những ý tưởng so đo, tưởng tượng những đối tượng không thật có do tiền ngũ căn trực tiếp nhận thức, nên sự nhận thức chấp trước, lệch lạc và không chơn thật của tri kiến phàm phu, chúng sanh thường tình mà thôi. Như Phật thuyết giảng:

-- Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đạiđịa đại. Vì tưởng tri địa đạiđịa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại…

Vị hữu học

Những vị có học, thì tri kiến được chính xác hơn, cái biết sáng suốt như suy nghĩ rõ ràng, không đối chiếu lệch lạch mà nhìn thẳng vào sự vật. Thắng tri hay liễu tri sự vật mà không so đo, không suy nghĩ vẩn vơ, tưởng tượng và không dục hỷ mà dùng chơn trí bằng pháp chánh tri kiến.

Bậc A-La-Hán.

Bậc A-la-hán là những vị dùng pháp thắng tri để liễu tri sự vật (pháp chánh tri kiến) không dục hỷ và đoạn trừ được tam độc. Bậc I biết pháp liễu tri sự vật mà không dục hỷ. Bậc ÌI biết pháp liễu tri sự vật, không dục hỷ và đã đoạn trừ được tham dục. Bậc III biết pháp liễu tri sự vật, không dục hỷ, đoạn trừ được sân hận.Bậc IV biết pháp liễu tri sự vật, không dục hỷ, đoạn trừ được si mê.

Đấng Như Lai

Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ, hoàn toàn diệt trừ các ái, sự ly tham sân si, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như lời Phật giảng:

 

* Ðấng Như Lai - II

Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đạiđịa đại. Vì thắng tri địa đạiđịa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: "Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Tưởng tri là sự nhận thức dùng trí là tĩnh giác, và thức là chất liệu đối tượng để tư duy. Do đó tưởng tri còn dính dáng đến quan niệm, thất tình, lục dục của tự ngã hệ luỵ đến ái thủ hữu. Dù vậy hành giả cũng tạo được một phần tĩnh lặng, vì trau giồi đức tính tốt, bài học tốt cho đạo đức, giới luật, cho trí minh mẩn và tránh những điều bất thiện cho bản ngã.

Thắng tri là biết ngay, cái biết sa-na hiện tiền, tuệ tri, cái biết rõ ràng đầy đủ, liểu tri của tuệ giác. Trong thắng tri là đã tĩnh giác và trong sát-na hiện tiền thì không có thời gian để vọng tưởng xen vào. Vậy thắng tri là sự tĩnh giác vắng bặt mọi tư duy, tư tưởng. Từ hai pháp môn căn bản này có thể phân biệt được đệ nhất nghĩa cốt tủy của các kinh Phật, và thiền định cho đúng với lời Phật dạy.

 

II. Tĩnh Lặng Tương Ðối

Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước. Dùng thực tại tương đối trên để lèo lái dòng tư duy, tư tưởng đặt ra ấy mà tâm tập trung vào không cho mọi vọng tưởng khác xen. Từ đó tâm thức không còn duyên theo tâm viên ý mã, trí và thức được chúng ta hướng dẩn đến chổ yên tịnh. Sự tập trung (định) này làm cho tâm thức ổn định không chạy lăng xăng, và hổn độn như trước nữa. Ðó là định của thức.

 a). Ðề mục

Một đề mục đề ra, dù bài giảng của đức Phật về chân lý (tuệ giác: tánh không thì không chấp thủ mọi quan niệm, tư tưởng của tự ngã), đạo đức, hay giới luật (không chấp thủ những điều bất thiện). Tư tưởnggiới hạn tối đa, cũng do trí cùng thức liên hợp để nhận định, đó cũng là một tư tưởngđơn giản, vì có thời gian làm huyễn hóa mọi tư duy chúng ta, mặc cho tư duy đó hạn định ngắn ngủi đi nữa. Tuy vậy dòng tâm thức bớt vẩn đục do sự định của thức. Một tuệ quán sâu sắc và sự tập trung cô đọng làm cho tâm sáng tỏ như những nhà minh triết, bác học, v.v…, còn thiền sư thì trở nên minh tâm, kiến tánhtu hành lâu dài sẽ tiệm tiến đến bờ giác ngộ giải thoát.

Quán tứ niệm xứ (quán thân trên thân, quán thọ trên các thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp). Nếu tập thiền định thì có thể gọi là Thiền Tứ Niệm Xứ, hay Thiền Hơi Thở đều dùng tuệ quán. Lời Phật dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ :

Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.”

Minh sát tuệ thì dòng tư tưởng, quan niệm vắng lặng, chỉ có tri nhận thẳng vào đối tượng tự phát từ trong hay ngoài thân tâm như hoạt động của thân thểhiện tượng đột phàt trước mắt ở ngoài khi đi đứng nằm ngồi như những gì ngũ giác quan cảm nhận v.v…; hiện trong tâm như các hoạt động của hơi thở ra vào dài ngắn, cảm giác bụng phồng xộp v.v.. tất cả đều ghi nhận và biết rõ ràng tương tự tứ niệm xứ.

Các pháp môn thiền định, tứ niệm xứ, minh sát tuệ mặc dầu dùng thắng tri, biết ngay đối tượng tuy vậy cũng có thời gian nên kẻ hở để tư tưởng xen vào dù quá it. Hành giả chỉ chú tâm, tuệ quán vào các hoạt động của nội ngoại tâm vừa tu tập trí tuệ vừa trau giồi phẩm hạnh và thực hành theo bát chánh đạo mở ra con đường sáng mau đến bờ giác ngộ.

Theo TÐPHVA, “Thiền định hay sự phát triển tâm linh, hay quán chiếu về khổ, vô thườngvô ngã. Thiền định trong các trường phái Phật giáo tuy có khác nhau về hình thứcphương pháp, nhưng cùng có một mục tiêu chung là làm tinh thần tập trung, thanh thảntrong suốt như một dòng sông nước trong mà người ta có thể nhìn thấy tận đáy, từ đó ý thức biết được sự thể nghiệm về ngộ, giải thoátđại giác. Ngoài ra, cố gắng thực tập thiền định thường xuyên nếu hành giả chưa nhập vào chân lý thì ít ra cũng sẽ giúp chúng ta xa rời nhị nguyên phân biệt.

Thiền cũng là quá trình tập trung và thấm nhập nhờ đó mà tâm được yên tĩnh và nhất tâm bất loạn (qui nhất), rồi đi đến giác ngộ.”

 

 b). Các Pháp Môn Khác

 

 Niệm Phật.

Pháp niệm Phật nếu được nhất tâm, tất cả sẽ vãng sanh về cõi Di Ðà, tuy nhiên cách niệm Phật chỉ là để tránh mọi vọng tưởng củ nổi dậy và vọng tưởng mới phát sanh, mà chưa thể nắm bắt được chơn tâm. Nếu hành giả hằng sống với thế giới không có vọng tưởng, thì sẽ sanh vào thế giới an lạc như cõi Phật Di Ðà, dù chưa đến cõi hoàn toàn giác ngộ, niết bàn tuyệt đối.

 Niệm Chú.

Pháp niệm chú là cách quán tưởng chủ khách, dù sự kiên cố và sự bít kín tất cả các vọng tưởng bằng câu chú qua thân khẩu ý, dù quán tưởng biểu tượng (câu chú) như là chính biểu tượng. Đó là sự tập trung chuyên nhứt vào một đối tượng giả lập hay một biểu tượng huyễn hóa, tức là giải thoát mọi vọng tưởng, khổ áchphiền não, để đạt đến cảnh giới cực lạc của Phật A Di Đà Vô Lượng Quang hay Đại Nhật Như Lai

 Công Án.

 Riêng tham thoại đầu, thoại là lời nói, khi chưa nổi niệm muốn nói là thoại đầu, nếu đã nổi niệm muốn nói dù chưa nói ra miệng cũng là thoại vĩ rồi. Như vậy thoại đầu tức là một khi một niệm chưa sanh. Tham là nghi, nghi là không hiểu không biết. Nếu có việc gì đã hiểu đã biết thì hết nghi, hết nghi tức là không có tham.
Vậy tham thoại đầu là nhìn ngay chỗ một niệm chưa sanh, không biết đó là cái gì. Thiền Tông gọi là nghi tình, có nghi tình mới gọi là thoại đầu. Do nghi tình,đến chỗ giác ngộ gọi là kiến tánh thành Phật.
Tựu chung, dùng công án hay thoại đầunghi tình là một thực tại giả lập cho nên vẫn còn dùng pháp nhị nguyên chủ khách --mặc dù chuyên chú vào một đối tượng duy nhứt và miên mật hành trì không có kẻ hở để vọng tưởng do nghiệp lực dẩn -- vì thế có thể vượt qua tất cả mọi vọng tưởng (chỉ còn có duy nhứt một công án hay thoại đầu tức là một thực tại giả lập) nên giải thoát mọi khổ ách cũng như các nhân duyên chằng chịt khác mà đạt đến cảnh giới cực lạc của chư Phật, và các pháp môn tương tự khác.

 

III. Tĩnh Lặng Tuyệt Ðối

 a). Giác Trí Tuệ

Giác Trí tuệ, tuệ giác, tuệ minh, hay chơn trí là động tác nắm bắt thực tướng vạn hữu.

Nhắc lại sự hình thành tâm thức (giác thức), tâm trí (giác trí), và giác trí tuệ (tuệ giác) như sau:

* Cảm Giác - Khi nhận diện hình ảnh đối tượng ta có cảm giác (sensation);

* Giác Thức - Kế nhận thức cảm giác ấy với tên gọi (perceive its name) mới có giác thức (consciousness or perception) hay tâm thức;

* Giác Trí - Rồi tri nhận (cognize) giác thức mới có giác trí hay tri thức hay tâm trí (cognition);

* Giác trí tuệ (Wisdom, discernment) hay tri thức nguyên thủy (pure cognition) là khi giác trí không có thời không, là cái biết sat-na hiện tiền, tức là tuệ giác hay tánh giác phải dùng thắng tri, tuệ tri, tuệ quán, biết vô trụ, hay liểu tri đối tượng mới đạt được. Biết nầy là cái biết của trí nó bao trùm cả năm căn (do ý trí tác năng) vô giới hạn, còn cái biết của từng căn (do ý trí tác động) giới hạn ở mỗi căn như tai chỉ nghe biết mà tai không thấy biết. Do đó Giác Trí Tuệ là cái Biết Sát-Na hiện tiền là cái Ðịnh của trí vậy, tức là sự tĩnh giác hay tĩnh lặng triệt để hơn hết.

Theo TÐPHVATP, Trí Tuệ: Jnana and Prajna (skt).

 Nghĩa của Trí Tuệ—The meanings of wisdom:

- Sự hiểu biết về vạn hữuthực chứng chân lý—Knowledge of things and realization of truth.

1) Trí: Jnana (skt)—Sự hiểu biết về vạn hữu—Knowledge of things.

2) Tuệ: Prajna (skt)—Thực chứng chân lý—The realization of truth—Trí tuệ dựa vào chánh kiếnchánh tư duy: Wisdom is based on right understanding and right thought.

 b). Pháp Chánh Ðẳng Giác của đức Phật

Trong pháp tu chứng chánh đẳng chánh giác của đức Phật, Ngài đã dùng hơi thở, một đối tượng tự nhiên tự động trong thân để tri nhận (thắng tri, biết ngay) trong từng hơi thở một, biết sat-na hiện tiền (tĩnh giác) và vô trụ (không lập lại) nên không có một quan niệm hay tư tưởng nào khởi động được, vắng lặng mọi tư duy.

Ngài đã dùng Ðịnh Niệm Hơi Thở để đạt sự giác ngộ giải thoát như trong phẩm Tương Ưng Hơi ThởHơi Thở Ra-54 (kinh Tương Ưng Bộ):

…..14) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng các niệm, các tư duy của ta được đoạn tận", thời định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này phải được khéo tác ý.

Ðịnh niệmbiếtchánh niệm, tức Biết + Chơn Tướng, Biết + Chơn ThứcBiết + Chơn Trí.

Thí dụ trong kinh Tương Ưng Bộ Phật dùng hơi thở để định niệm.

Biết tôi thở vô ra bằng lời (tướng), tức biết đọc tôi thở vô và thở ra cũng đọc như vậy.

Biết tôi thở vô ra bằng thức, tức biết ý thức tôi thở vô (thầm hội) và thở ra cũng vậy.

Biết tôi thở vô ra bằng trí, tức tuệ tri tôi biết thở vô và tuệ tri tôi biết thở ra. Tuệ tri (Biết) trước là định, biết sau là dùng trí để niệm hơi thở.

Khi chứng Thiền thứ nhứt, lời nói được khinh an;
Khi chứng Thiền thứ hai, tầm tứ được khinh an;
Khi chứng Thiền thứ ba, hỷ được khinh an;

(Kinh Sống Một Mình - Rahogata Sutta)

(SN 36.11)

 Ba trong bốn pháp Thiền đầu tiên đều dùng định niệm hơi thở nghĩa là Biết (Tuệ Tri)Chánh niệm như hơi thở, ly duc, ly pháp bất thiện, tịnh chỉ tầm tứ, hỷ lạc sanh, ly hỷ trú xả theo thứ tự các thời thiền từ định niệm tướng đối tượng (ngôn hành); định niệm Thức đối tương (ý hành hay tĩnh thức); định niệm Tánh (trí) đối tượng (trí hành, tĩnh giác).

 Một nhận định chính xác là khi Ðịnh (Tuệ Tri) thì nó đã xóa hết năng tri (Trí của căn) sở tri (Thức) rồi. Tuy vậy cũng còn dính dấp đến Trí (Tâm), nên năng sở song vong vẫn ở trên bình diện tâm thức. (tương đối)

Năng Sở Song vong trên bình diện Tâm Trí (Tuyệt Ðối)

 Trên tiến trình đi đến năng sở song vong vượt khỏi tâm trí là một nổ lực nắm bắt thực tướng của vạn hữu bằng sự miên mật thể nhập đối tượng một cách tuyệt đối không còn dùng trí. Thật ra, thực hiện định niệm đối tượng bằng thân hành, trong tứ oai nghi, đi đứng nằm ngồi, mọi cử động, mọi hoat động đều phải chánh niệm như trong Phẩm Thân Hành Niệm-119 (Kinh Trung Bộ), chỉ trích phần thân hành niệm ở đoạn ngồi thiền:

….. Và này các Tỷ-kheo, thân hành niệm tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, có quả lớn, có công đức lớn ?

 Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô. Chánh niệm, vị ấy thở ra. Hay thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài vị ấy biết: " Tôi thở ra dài" . Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra". An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vi ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm

 Bồ Tát phải sống một mình lúc đó thân tâm mới được yên tịnhtu hành, như trong phẩm Sống Một Mình-36.11 (kinh Tương Ưng Bộ):

…..5) Nhưng này Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự đoạn diệt các hành là tuần tự: khi chứng được Thiền thứ nhứt, lời nói được đoạn diệt; khi chứng Thiền thứ hai, tầm tứ được đoạn diệt; khi chứng Thiền thứ ba, hỷ được đoạn diệt; khi chứng Thiền thứ tư, hơi thở vô, hơi thở ra được đoạn diệt; ..

 Thể Nhập Cảm giác Vô Ra (Thân Hành: Vô Niệm: không niệm tướng niệm thức cả niệm trí): Pháp bổn như vô pháp: Như là không thở: Thể Nhập chốn tịch tĩnh như nhiên, biết cảm nhận luồng hơi thầm lặng Vô Ra. Chỉ dùng cảm giác của đối tượngthể nhập, không dùng trí. Tâm khôngtrạng thái không còn dính dấp gì đến tri thức, tức là giác thức hay giác trí ngay cả tri giác nguyên thủy đi nữa, cũng phải dùng trí tuệ, thì tâm trí sẽ hao mòn, dòng trí tuệ không còn 100%. Cho nên chỉ sử dụng cảm giác, lúc đó trần cảnh hay vạn hữutrạng thái y nhiên; nó-là-nó không bị dòng tâm trí biến đổi. Có tâm trí xen vào dù gì đi nữa cũng dễ bị ái thủ hữu lôi kéo hơn

 “Cảm giác vô,

 Cảm giác ra.” (Chỉ cảm nhận luồng hơi vô ra, chưa nhận thức tên “hơi thở”)”

 

 Cảm giác Vô Ra, vì khi nhận dạng cảm giác (bóng dáng) của một đối tượng mà chưa được nhận thức (chưa được đặt tên hay đọc tên) tên đối tượng là chỉ thể nhập nơi tịch tĩnh y nhiên, tức là cảm giác chỗ đối tượng chưa thành hình, chưa có tên (giả danh), đó cũng gọi là tri thức nguyên thủy hay tuệ giác của chân trí. Cảm nhận luồng hơi vô luồng hơi ra mà thôi. Khi chưa có tên đối tượng thì làm gì có hỷ lạc trong tâm.

Khi xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, vị ấy chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

 

 23) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng đoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh", thời định niệm...

 

 Tĩnh lặng một cách tuyệt đối không dùng trí mà dùng thân cảm nhận (cảm giác) đối tượng mà thôi. Ðó là Chánh Giác (Vô niệm: buông xả}.

 

IV. Kết Luận

Tóm lại thiền là đi tìm về bản tánh vắng lặng tự nhiên trong sáng của tâm, nó hư không hóa mọi hữu tồn kể cả tâm hay vật. Tự tínhthực tại tuyệt đối, cùng với thực tại giả lập hay tùy thuộc đều có tánh không, có điều là thực tại tuyệt đốitánh không (tánh hư không bao la của tuệ giác), còn thực tại giả lậptướng không (tướng hư không của trần cảnh) cũng bị hư không hóa, có điều thực tại giả lập vì còn thời gian chú tâm về đề mục, còn thực tại tuyệt đối thì triệt để hơn vì vô thời gian như cái biết sát-na hiện tiền. Thật vậy, nếu lục căn thanh tịnh, là Nhãn Nhĩ Tỷ Thiệt Thân Ý được thấy biết như thật như chơn (chơn trí, tánh giác), hay đưa lục thức giả lập (tướng hư không) nầy vào tánh giác (tánh hư không), cái biết sáng suốt, trong sát na hiện tiền vô thời không, thì làm gì có chỗ nào mà an trú. Nói rõ hơn là lục căn an trú vào tuệ tri, cái biết sáng suốt, cái hư không, thì an trú vào cái không an trú (trong hư không). Vậy khi lục căn thanh tịnh hay biết sắc thọ tưởng hành thức sáng suốt (ngũ uẩn giai không) ắt hẳn tâm vắng lặng, hành giả mới được an tịnh. Người mà sống ung dung tự tại thì thân tâm thường an lạc. Đó là an trú nơi không tánh. Như thế thiền là cái tuệ giác, cái thường biết rõ ràng (tĩnh), vô thời gian nên nó yên lặng (lặng), không dính mắc mọi vọng tưởng. Vậy thiền là tìm về cõi tĩnh lặng của tâm. 

 

Tham khảo

Khẳng Ðịnh Tính, 2003. Phổ Nguyệt. Trích trong website Tạng Thư Phật Học

Kinh Pháp Môn Căn Bản (Mùlapariyàya sutta). Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya). Thích Minh Châu Việt dịch. (Chữ nghiên) đăng trong website Quảng Đúc (Kinh Điển): http://www.quangduc.com

Năng Sở Song Vong. Phổ Nguyệt trích trong website Tạng Thư Phật Học

Pháp Tu Chứng Chánh Ðẳng Giác của đức Phật, 2008. Phổ Nguyệt trích trong websites Quảng Ðức, Tạng Thư Phật Học…; http://www.tangthuphathoc.net/tacgia/phonguyet

TĐPHVATP: Tự Ðiển Phật Học Việt Anh. Thiện Phúc trích trong trang nhà Diệu Pháp: http://www.dieuphap.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19427)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18531)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16062)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29873)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25465)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21609)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17812)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20825)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26340)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33332)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52156)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22877)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23412)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39651)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21794)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22386)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6839)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22732)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69810)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44013)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23073)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35040)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44098)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42918)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44424)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24917)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24358)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39210)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39238)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17255)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18043)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19260)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24219)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19588)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20405)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18313)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19002)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18942)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17476)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19322)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30834)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19193)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20529)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19561)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19768)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29826)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17837)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19412)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19881)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58771)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24405)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23520)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39765)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26721)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40764)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22870)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22923)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21598)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18620)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22595)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21088)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19217)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20933)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20333)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30556)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20183)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17466)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16600)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16851)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14961)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14838)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22868)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16047)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16210)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15258)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26111)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17194)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15796)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19772)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17673)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14685)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14733)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19129)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15121)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33058)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17491)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19129)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21822)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23009)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16624)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16470)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16513)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22994)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26393)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12749)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29516)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27721)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25914)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18463)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant