Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp tự tứ của Tăng

04 Tháng Tư 201400:00(Xem: 34761)
Pháp tự tứ của Tăng

PHÁP TỰ TỨ CỦA TĂNG


Thích Thái Hòa

I -Ý nghĩa và duyên khởi

blankTự tứ tiếng Pàli Pavàranà; Phạn là pravàranà, Hán phiên âm là bát-hòa-la, bát lợi ba thích noa và dịch là tự tứ, thỉnh thỉnh, tùy ý, tùy ý sự, mãn túc, hỷ duyệt,…

Pravàranà, Phật đà thậpTrúc đạo sinh dịch là Tự tứ ( Ngũ phần luật 19, Đại chính 22, tr 130c). Tự là tự mình, tứ là buông ra. Nghĩa là vị tỷ kheo sau khi hạ an cư đủ ba tháng, tự mình buông ra lời nói thỉnh cầu một vị tỷ kheo khác đầy đủ năm đức, chỉ điểm những lỗi lầm cho mình qua ba mặt thấy, nghe và nghi, giúp cho mình biết và tự mình cầu xin sám hối để được thanh tịnh.

Ý nghĩa tự tứ là vậy, nên ở Trung A Hàm, Tăng già đề bà dịch là thỉnh thỉnh (Trung A Hàm 29, Thỉnh Thỉnh kinh, Đại Chính 1, tr 610); ở Căn bản nhất thiết hữu bộ tỳ nại da, Nghĩa Tịnh dịch là Tùy ý sự (Đại Chính 23, tr 1044). Nghĩa là pháp tự tứ là tỷ kheo sau khi hạ đủ, tùy ý thỉnh tỷ kheo khác đủ năm đức chỉ bày cho ba sự gồm: Thấy việc sai lầm chỉ bày cho mình; nghe việc sai lầm chỉ bày cho mình và nghi ngờ việc sai lầm chỉ bày cho mình, để tự mình thấy có tội thì như pháp sám hối, khiến thân tâm trở lại thanh tịnh. Do sau khi mãn hạ, sám hối đúng pháp đối với ba sự: kiến, văn và nghi, nên gọi là mãn túc và tự mình sinh tâm vui mừng, sau khi đã sám hối ba sự đúng pháp và được thanh tịnh, để nhận thêm tuổi hạ, nên gọi là hỷ duyệt. Và ở Luật Tứ Phần 37, Phật đà da xáTrúc phật niệm dịch là cầu thính. (Đại chính 22, tr 836b).

Pháp Tự tứ, một năm chỉ xẩy ra cho tỷ kheo Tăng một lần, sau khi hạ đủ. Nghĩa là tác pháp kết giới an cư vào ngày mười sáu tháng tư, thì thời điểm tự tứ thích hợp đối với Tăng là ngày rằm tháng bảy. Và nếu tác pháp kết giới hậu an cư, tức là vào ngày mười bảy tháng tư, thì thời điểm thích hợp cho Tăng tác pháp tự tứ là ngày mười sáu tháng bảy,…

Tuy vậy, nhật kỳ tự tứ, Tăng có thể thay đổi để thích ứng những nhu cầu tu học thực tế, nhưng Tăng phải tác pháp yết ma. (Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 840b).

Nói tóm lại, thời gian thích hợp để Tăng tác pháp tự tứthời gian sau khi hạ đủ. Và tự tứ của Tăng tỷ kheo một năm chỉ xảy ra một lần sau khi hạ đủ mà thôi.

Mục đích của Tăng tự tứ là ngoài việc biểu hiện cụ thể bản thể hòa hợpthanh tịnh của Tăng, còn xác định cụ thể sự tăng trưởng lớn mạnh về Giới- định- tuệ của một vị tỷ kheo, sau khi hạ mãnchấm dứt kỳ hạn an cư, và các tỷ kheo lại tiếp lên đường hoằng pháp.

Theo kinh Thỉnh Thỉnh, bấy giờ tại Tu viện Trúc lâm, vườn Già lan đà, ở Thành Vương- xá, cùng với chúng đại tỷ kheo năm trăm vị đều có mặt cùng ngồi thọ hạ. Bấy giờ ngày trăng thứ 15, từ tâm giải thoát, Đức Thế Tôn nói về hình thức Thỉnh thỉnh.

Ngài dạy các tỷ kheo rằng: Quý vị là đệ tử chân thực của ta, từ nơi miệng mà pháp sanh ra, được chuyển hóa bởi pháp, quý vị hãy dạy cho nhau, tuần tự dạy nhau thỉnh cầu chỉ điểm.

Bấy giờ Tôn giả Xá lợi phất theo đúng phép tắc cầu thỉnh, đã đến trước Đức Thế Tôn chấp tay cung kính xin thỉnh Ngài chỉ giáo về các hành vi của thân, ngữ và ý. Đức Thế Tôn nói, Ngài không có phiền trách gì đến các hành vi thân, ngữ và ý của Tôn giả. Ngài khen Tôn giả là bậc thông tuệ, đại tuệ, tốc tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ, quảng tuệ, thâm tuệ, xuất yếu tuệ, minh đạt tuệ và thành tựu thực tuệ,…

Tôn giả Xá Lợi Phất, bạch Thế Tôn rằng, đối với các hành vi thân, ngữ, ý của năm trăm tỷ kheo, Ngài có phiền trách gì không? Thế Tôn dạy, đối với các hành vi của năm trăm tỷ kheo nầy, Ngài cũng không có gì phiền trách cả. Vì sao? Vì các vị nầy đã đạt đến chỗ không còn mắc kẹt, các lậu hoặc đã đoạn tận, phạm hạnh đã thiết lập, điều đáng làm đã làm, đã xả bỏ sự tái sinh đời sau,…

Vì vậy, tôi không có gì phiền trách, các hành vi thuộc về thân, ngữ và ý của năm trăm vị tỷ kheo nầy.

Như vậy, duyên khởi của pháp tự tứ, sau khi mãn hạ đã được ghi lại ở kinh Thỉnh Thỉnh nầy. (Trung A hàm 29, Đại chính 1, tr 610a).

Lại theo Luật Tứ Phần 37, duyên khởi pháp tự tứ là pháp cầu thính. Bấy giờ nhóm sáu tỷ kheo nói với nhau như vậy: “Đức Phật dạy: Các Tỷ kheo phải cùng dạy bảo nhau, cùng nhau trao đổi, giác ngộ cho nhau”. Họ liền cử tội tỷ kheo thanh tịnh. Các Tỷ kheo đến bạch đức Thế Tôn, Ngài dạy: “Không được vô cớ cử tội người vô tội. Nếu muốn cử tội tỷ kheo hữu sự, trước hết phải nói cho vị ấy biết, để vị ấy cầu thính, sau đó mới được cử”. (Đại chính 37, tr 836a).

Cầu thính là cầu nghe vị tỷ kheo khác cử tội. Người được thỉnh cầu nghe cử tội, người ấy phải có đủ năm pháp gồm: - Tri thời, nghĩa là biết đúng lúc cử tội và không đúng lúc cử tội. - Như thực, nghĩa là phải biết đúng pháp mà cử tội, chứ không phải không biết mà cử tội. - Hữu lợi ích, nghĩa là biết cử tội đem lại lợi ích cho người thỉnh cầu, chứ không phải không có lợi ích. - Nhu nhuyến, nghĩa là dùng lời nói dịu dàng để cử tội chứ không thô lỗ, sân hận - Từ tâm, nghĩa là cử tội với từ tâm mà không sân hận (Đại chính 22, tr 836b).

Đức Phật dạy, một tỷ kheo phải đầy đủ năm pháp ấy, mới được phép nhận sự cầu thính của các tỷ kheo khác. Và tỷ kheo đã nhận sự cầu thính cử tội, thì không được tự ý bỏ đi nơi khác.

Cũng theo luật Tứ Phần 37, nhóm tỷ kheo sáu người đã hứa khả cầu thính cho tỷ kheo khác, rồi tự ý bỏ đi. Các tỷ kheo thanh tịnh đem việc nầy trình lên Đức Phật, Ngài dạy: “Không được hứa với người rồi tự ý bỏ đi; không được nhận lời hứa của người, rồi tự ý bỏ đi. Từ nay cho phép an cư rồi tự tứ. Cho phép tự tứ khỏi phải cầu thính. Tại sao? Vì tự tứ chính là thính” (Đại chính 22, tr 836b).

Nhưng, duyên khởi Tự tứ, theo Luật ngũ phần: Do các tỷ kheo nói với nhau rằng, chỉ có A la hán mới xứng đáng chỉ bảo cầu thính. Nhân đây, đức Phật dạy pháp Tự tứ ( Ngũ Phần Luật, Đại chính 22, tr 131b).

II -Tăng Số Và Tác Pháp

Túc số Tăng để tiến hành tác pháp yết ma tự tứ tối thiểu là năm vị tỷ kheo. Vì trong đó, một vị được Tăng bạch nhị yết ma cử làm tự tứ nhân. Và sau khi Tăng đã cử tự tứ nhân xong, thì từ vị Thượng tọa xuống đến vị tân tỷ kheo đều lần lược từng vị đối diện với vị tự tứ nhân nói lời yêu cầu chỉ điểm về tam sự gồm kiến tội, văn tội và nghi tội, để cho đương sự nếu thấy có tội, thì đúng như phápsám hối. Và nếu Tăng chỉ có bốn vị, thì không thể tiến hành tác pháp yết ma cử tự tứ nhân chỉ điểm tam sự, mà chỉ thực hành pháp đối thủ tự tứ. Nghĩa là một vị tỷ kheo đối diện với một tỷ kheo khác hoặc quỳ, hoặc đứng để nói lời tự tứ. Và nếu một tỷ kheo thì chỉ có tâm niệm tự tứ.

Trong pháp tự tứ có những trường hợp được dự dục, nếu tỷ kheo có những duyên sự như pháp. Và tỷ kheo gởi dự dục với một tỷ kheo và nhờ vị ấy bạch lại với Tăng thì chỉ nói hòa hợp mà không cần phải nói thanh tịnh. Vì sao? Vì tự tứ là đương sự tự nguyện, tự giác yêu cầu trực tiếp tự tứ nhân chỉ điểm cho ba sự để sám hối cho được thanh tịnh. Nên, dự dục đối với tự tứ chỉ nói hòa hợp mà không nói thanh tịnh là vậy. Một tỷ kheo có thể nhận gởi dục tự tứ từ nhiều người. (Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 838b).

III -Tăng Pháp Tự Tứ

Tăng pháp tự tứ có hai giai đoạn tiến hành:

*- Giai đoạn tiến hành tiền phương tiện:

Sau khi khi nghe Pháp hiệu tập Tăng, các tỷ kheo như pháp tuần tự vào giới trường, sau khi mỗi vị đã an trú tĩnh tọa đúng vị trí. Thượng tọa bỉnh pháp pháp hỏi:

- Tăng đã họp chưa?

Duy na đáp:

- Tăng đã họp.

Thượng tọa hỏi:

- Hòa hiệp không?

Duy na đáp:

- Hòa hiệp.

Thượng tọa hỏi:

- Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?

Duy na đáp:

- Đã ra.

Thượng tọa hỏi:

- Các tỷ kheo không đến có thuyết dục tự tứ không?

Nếu có, duy na đáp: Dạ có. Có tỷ kheo,… có “gởi dục tự tứ”, xin bạch như vậy. Nếu không có, duy na đáp: Dạ không.

Thượng tọa hỏi:

- Có ai sai tỷ-kheo-ni đến thỉnh giáo giới tự tứ không?

Nếu không, duy na đáp không. Nếu có, duy na đáp có. Và gọi tỷ-kheo-ni thọ sai vào giới trường, vị ấy đảnh lễ đại Tăng, quỳ xuống và bạch:

“Bạch Đại đức Tăng! Đệ tử chúng con, tỷ-kheo-ni Tăng, trú xứ,… hạ an cư đã xong. Ni Tăng sai chúng con tỷ-kheo-ni đến đại Tăng, vì tỷ-kheo-ni Tăng cầu nói ba sự tự tứ, là các tội được thấy, được nghe và được nghi. Ngưỡng mong Đại đức Tăng rũ lòng thương tưởng chỉ giáo. Nếu chúng con thấy có tội sẽ như pháp sám hối. (nói ba lần).

Bấy giờ trong Tăng, tỷ kheo nào thấy có điều gì cần chỉ giáo ba việc kiến, văn và nghi đối với Ni chúng thì nói, nếu không thì tất cả đều im lặng. Và sau đó Thượng tọa có lời giáo giới đối với Ni chúng rằng:

“Trong đại Tăng, từ trên xuống dưới thảy đều im lặng như vậy, thật do Ni chúng bên trong chuyên cần ba nghiệp, bên ngoài vô sự, cho nên không có điều gì trái phạm. Tuy nhiên như vậy, các vị hãy nói lại với Ni chúng, đại Tănggiáo sắc rằng: Ni chúng như pháptự tứ, cẩn thận chớ buông lung”.

Tỷ-kheo-ni thọ sai đáp:

“Y giáo phụng hành”. Rồi đảnh lễ Tăng và lui ra.

Thượng tọa hỏi:

- Tăng nay hòa hợp để làm gì?

Duy na đáp:

- Yết ma tự tứ.

*- Giai đoạn Tăng tác pháp tiến hành chính thức tự tứ:

Giai đoạn nầy có ba phần như sau:

1 - Tăng Yết Ma Sai Tự Tứ Nhân:

Tự tứ nhân hay còn gọi là Ngũ đức sư. Ấy là người Tăng tác pháp Bạch nhị yết ma cử làm người tự tứ. Một lần Tăng yết ma chỉ đựợc phép cử từ một đến ba vị. Không được phép cử bốn, vì bốn vị trở lên thành túc số của Tăng. Tăng không thể cử Tăng. Tăng cử Tăng là phi pháp.

Theo Luật Tứ Phần, vị được Tăng cử làm người tự tứ phải hội đủ năm đức tính:

a -Bất ái: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội tỷ kheo khác, sau khi hạ mãn qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không có tâm thiên ái.

b -Bất sân: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội cho vị tỷ kheo khác, sau khi hạ mãn, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm sân hận, thù ghét.

c -Bất bố: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội cho vị tỷ kheo khác, sau khi hạ mãn, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm sợ hãi.

d -Bất si: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội vị tỷ kheo khác, sau khi mãn hạ, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm mù quáng.

e -Tri tự tứ vị tự tứ: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội vị tỷ kheo khác, sau khi mãn hạ, phải biết rõ các tỷ kheo cùng trong trú xứ, vị nào đã được chỉ tội theo pháp tự tứ và vị nào chưa được chỉ tội theo pháp tự tứ. (Đại chính 22, tr 836b).

Đối với đức tính thứ 5 nầy, theo Ngũ phần luật 19, là “Tri thời, tri phi thời”). Biết tự tứ đúng thời và biết tự tứ không đúng thời (Đại chính 22, tr131a).

Sau hỏi tiền phương xong, Thượng tọa bỉnh pháp tiếp tục hỏi:

- Trong chúng có vị nhân giả nào kham năng làm người nhận tự tứ nhân không?

Vị tỷ kheo hội đủ năm đức tính cần thiết để làm người nhận tự tứ tự đáp:

- “Tôi tỷ kheo,… kham năng”.

- Thượng tọa bỉnh pháp Bạch nhị yết ma Tăng sai tự tứ nhân:

Văn Yết ma như sau:

“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận sai tỷ kheo có tên,…làm người thọ tự tứ. Đây là lời tác bạch!”.

“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng sai tỷ kheo có tên,… làm người thọ tự tứ. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng sai tỷ kheo có tên,…làm người thọ tự tứ thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói”.

“Tăng đã chấp thuận sai tỷ kheo có tên,… làm người thọ tự tứ nhân rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc nầy tôi ghi nhận như vậy”.( Đại chính 22, tr836bc).

2- Đơn Bạch Tự Tứ:

Các tỷ kheo thọ sai, từ chỗ ngồi đứng dậy bước ra đảnh lễ Tăng. Một trong ba vị được thọ sai bạch Tăng chính thức tác pháp tự tứ.

Văn bạch:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay hòa hợp tự tứ. Đây là lời tác bạch”.(Đại chính 22, tr 837a).

3- Chính Thức Tự Tứ:

Thượng tọa bỉnh pháp nói tự tứ trước. Tiếp theo các vị tự tứ nhân nói tự tứ với nhau. Sau đó lần lược các tỷ kheo từ một đến ba vị nói tự tứ. Nếu tự tứ nhân đến, mà đứng, thì người nói tự tứ

có thể đứng hoặc quỳ; nếu vị tự tứ nhân quỳ, thì người nói tự tứ phải quỳ.

Văn nói tự tứ như sau:

Đại đức nhất tâm niệm. Hôm nay chúng Tăng tự tứ. Tôi tỷ kheo,… cũng tự tứ. Nếu có tội được thấy , được nghe và được nghi, nguyện Đại đức thương tưởng chỉ giáo cho tôi. Nếu tôi thấy có tội, sẽ như pháp sám hối”. (nói ba lần). (Đại chính 22, tr 837a).

Người nhận tự tứ đáp: Thiện. Người tự tứ đáp: Nhĩ.

Sau khi các tỷ kheo tuần tự tự tứ xong. Vị tự tứ nhân bước ra giữa Tăng bạch: “Tăng nhất tâm tự tứ đã xong”.

Sau khi vị tự tứ nhân bạch Tăng xong. Phần còn lại là hồi hướng.

VI - Các Pháp Tự Tứ Khác:

1- Tự tứ vắn tắt:

Nếu vì nạn duyên không đủ thời gian để Tăng tiến hành đúng Tăng pháp tự tứ, thì phải tự tứ vắn tắt. Nhưng muốn tự tứ vắn tắt thì phải yết ma.

Văn bạch: “Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay mỗi mỗi đồng loạt nói tự tứ ba lần. Đây là lới tác bạch”.( Đại chính 22, tr839a).

Do gặp một trong tám nạn duyên, thì mới tiến hành tự tứ vắn tắt. Tám nạn duyên gồm: - Nạn vua. - Nạn giặc. - Nạn lửa. - Nạn nước. - Nạn bệnh. - Nạn người. - Nạn phi nhân. - Nạn độc trùng. (Đại chính 22, tr 838c).

Hoặc do bị chướng sự, nên tiến hành tự tứ vắn tắt. Các chướng sự gồm: - Chúng đông mà giới trường lại hẹp. – Trong Tăng có quá nhiều tỷ kheo bệnh, không thể ngồi hoặc quỳ lâu. - Trời mưa lớn. - Gặp đại thí hội mà đêm đi qua đã lâu. - Chướng ngại do đấu tranh. - Hoặc bàn luận A tỳ đàm, đoán sự tỳ ni, thuyết pháp,… mà đêm đi qua đã lâu, chúng Tăng chưa đứng dậy, nên tự tứ vắn tắt. Đại chính 22, tr 838c).

Nếu không có nạn duyên và chướng sự mà tự tứ vắn tắt là phạm tác. Phạm tác là phạm vào những học xứ quy định làm mà không làm, hoặc làm sai.

2- Tự tứ đối thủ:

Nếu Tăng không đủ túc số năm người, không thể tiến hành theo Tăng pháp tự tự, thì thực hành theo tự tứ đối thủ. Nghĩa là nếu bốn người, thì một người quỳ xuống bạch với ba người; nếu ba người, thì một người quỳ xuống bạch với hai người và nếu hai người, thì hai người quỳ đối diện với nhautác bạch để tự tứ.

Văn nói tự tứ đối thủ:

Ngày nay chúng Tăng tự tứ. Tôi tỷ kheo ,… cũng tự tứ thanh tịnh”. (Đại chính 22, tr 837c).

3- Tự tứ tâm niệm:

Nếu một mình tỷ kheo, thì y hậu tề chỉnh, tâm niệm vào giới trường hay quỳ trước bàn Phật, nghĩ đến ngày tự tứ Tăng, miệng nói: “Hôm nay ngày chúng Tăng tự tứ, tôi tỷ kheo,… thanh tịnh”. (nói ba lâần ). (Đại chính 22, tr 837c- 838a1).

V -Triển Hạn Nhật Kỳ Tự Tứ:

Tăng triển hạn nhật kỳ tự tứ có hai trường hợp:

1- Do tu tập:

Do thời gian an cư, các tỷ kheo Tăng tu tập về giới, định, tuệ một cách tinh cần, nên có nhiều an lạc. Vì vậy muốn kéo dài thêm thời gian an cư để thuận lợi cho sự đoạn trừ các lậu hoặcchứng đắc các Thánh quả Niết bàn. Trường hợp nầy, Tăng có thể tác pháp yết ma triển hạn nhật kỳ tự tứ tối đa là một tháng.

Tăng trong trú xứ tập hợp tại giới trường, Thượng tọa bỉnh pháp bạch Tăng:

“Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng. Tăng ngày hôm nay không tự tứ. Đợi đủ bốn tháng an cư xong sẽ tự tứ. Đây là lời tác bạch”. (Đại chính 22, tr 840b).

2- Do Tăng chưa được thanh tịnhhòa hợp:

Do các tỷ kheo ở trong cùng một trú xứ có tránh sự mà chưa như pháp dập tắc, hoặc do có các tỷ kheo từ trú xứ khác đến, Tăng tại trú xứ an cư chưa sắp xếp yên ổn, nên triển hạn nhật kỳ tự tứ. Văn bạch Tăng:

“Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Ngày hôm nay Tăng không tự tứ. Đợi đến ngày 15 (hoặc 16) tháng đến sẽ tự tứ. Đây là lời tác bạch”.( Đại chính 22, tr 840c).

Nếu đã hết kỳ triển hạn mà sự tranh chấp giữa các tỷ kheo chưa được dập tắt như pháp, Tăng có thể triển hạn thêm 15 ngày nữa. Hết thời kỳ triển hạn mà Tăng trong trú xứ chưa hòa hợp, hay các tỷ kheo khách cũng chưa rời khỏi trú xứ, thì phải y luật cưỡng bức các tỷ kheo tránh sự phải hòa hợp để tự tứ, nếu không được, các tỷ theo thanh tịnh đồng ra khỏi cương giới của trú xứ kết tiểu giới để tự tứ. Tự tứ xong, giải tiểu giới.

VI - Các Trường Hợp Ngăn Tự Tứ:

1- Phạm Tăng tàn:

Trong trú xứ có tỷ kheo phạm Tăng tàn, tùy theo mức độ phạm tội mà Tăng yết ma cho vị ấy hành pháp đúng theo mức độ phạm tội rồi, mới tự tứ.

2- Phạm Ba dật đề:

Trong trú xứ có tỷ kheo phạm học giới, có người bảo rằng, đó là phạm Ba dật đề, hoặc có người bảo rằng, đó là phạm Ba la đề đề xá ni, Tăng cử một tỷ kheo thanh tịnh, đến dẫn vị tỷ kheo phạm Ba dật đề ấy, hoặc Ba la đề đề xá ni ấy, ra khỏi vị trí giới trường mà mắt thấy Tăng tác pháp, nhưng tai không nghe được lời tác pháp của Tăng, khuyên bảo vị tỷ kheo phạm Ba dật đề ấy sám hối. Sau đó vị tỷ kheo thanh tịnh dẫn vị tỷ kheo phạm giới ấy đến trước Tăng thưa rằng: “ Tỷ kheo phạm tội, tôi đã bảo sám hối rồi”. Phải phương tiện tác pháp như vậy rồi mới tự tứ.

3- Phạm Thâu lan giá:

Trong một trú xứ, có tỷ kheo phạm Thâu lan giá, có người bảo rằng đó là phạm Thâu lan giá, hoặc có người bảo rằng, đó là phạm Ba la di, khiến có thể dẫn đến sự tranh cãi, không hòa hợp. Nếu sợ bản thể của Tăng bị vỡ, thì việc tự tứ của Tăng phải dời qua một thời gian thích hợp khác.

4- Ngăn Tự tứ vô căn cứ:

Ngăn cản tỷ kheo không có căn cứ, không đưa ra được nguyên nhân, việc ngăn cản như vậy không thành. Tỷ kheo không thanh tịnh không được ngăn cản tỷ kheo thanh tịnh tự tứ.

5- Ngăn tự tứ có căn cứ:

Ngăn cản tỷ kheo tự tứ có căn cứ, có tác nhân, gọi là ngăn tự tứ có căn cứ.

6- Ngăn tự tứ khi đang nói:

Ngăn tự tứ khi đang nói một lần hoặc hai lần, gọi là ngăn tự tứ khi đang nói. Khi chưa nói hoặc đã nói xong, không thể gọi là ngăn tự tứ.

7- Ngăn tự tứ bởi người không thanh tịnh:

Người không thanh tịnh về thân, về ngữ, về ý, không có trí, không biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với những người như vậy không thể ngăn tự tứ, nên Tăng vẫn tiến hành tự tứ.

8- Ngăn tự tứ bởi thân nghiệp thanh tịnh:

Người thân nghiệp thanh tịnh, nhưng ngữ nghiệp không thanh tịnh, ý nghiệp không thanh tịnh, không có trí, không có nhận biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với người như vậy, không thể ngăn tự tứ, nên Tăng vẫn tiến hành tự tứ.

9- Ngăn tự tứ với thân nghiệpkhẩu nghiệp thanh tịnh:

Đối với người thân nghiệp, khẩu nghiệp thanh tịnh, nhưng ý nghiệp không thanh tịnh, không có trí, không nhận biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với người như vậy, không thể ngăn tự tứ, nên Tăng vẫn tiến hành tự tứ.

10- Ngăn tự tứ với ba nghiệp thanh tịnh, có trí, có phân minh, có biết hỏi và biết đáp:

Nếu vị tỷ kheo nầy ngăn vị tỷ kheo khác không cho tự tứ, các tỷ kheo khác, nên hỏi vị tỷ kheo ngăn ấy rằng: Vì sao Thầy ngăn tỷ kheo nầy tự tứ? Vì do phạm giới, phá kiến, hay phá oai nghi?

Vì ấy trả lời, vì phạm giới. Các tỷ kheo, nên hỏi là phạm giới nào? Nếu nói phá kiến, thì hỏi phá kiến nào? Nếu nói phá oai nghi, thì hỏi phá oai nghi nào? Nếu vị ấy trả lời là do có một trong ba mà ngăn. Nếu hỏi cặn kẽ một trong ba ấy, không trả lời được cụ thể, Nên, đối với giới, họ nói phạm Ba la di, thì Tăng chỉ xử lý ngang mức tội Tăng tàn, rồi Tăng mới tự tứ. Nếu họ nói tội Tăng tàn, thì Tăng chỉ xử lý ngang mức tội Ba dật đề, rồi sau đó tự tứ,… Nghĩa là vị ấy chỉ đưa ra tội danh mà không đưa ra đầy đủ các yếu tố phạm tội, thì Tăng sẽ xử trị dưới mức tội của người ấy đã đưa ra để ngăn người phạm tội trước khi tự tứ. Và nếu người ngăn tự tứ có trí trả lời rõ ràng, chứng cứ cụ thể về tội Ba la di của người phạm giới để ngăn tự tứ, thì Tăng phải làm phép diệt tẫn người phạm tội ấy, trước khi tự tứ.

11- Ngăn tự tứ từ ba sự:

Ngăn tự tứ từ ba sự gồm: Kiến, văn và nghi. Nếu do từ ba sự nầy mà ngăn tự tứ? Các tỷ kheo hỏi tỷ kheo ngăn tự tứ rằng: Trong ba sự, Thầy do sự nào mà ngăn tự tứ? Nếu vị ấy trả lời từ một trong ba sự một cách cụ thể hay không cụ thể, thì phải tùy theo những chứng cứ trong sự trả lời của vị ấy, sau đó đúng như phápxử trị, rồi tự tứ. (Tham khảo Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 839a -840b).

VII -Tự Tứ Liên Hệ Giữa Cựu và Khách:

Theo Luật Tứ Phần 38, tự tứ liên hệ giữa cựu trú tỷ kheo và khách tỷ kheo như sau:

1- Trú xứ có khách tỷ kheo đến với số lượng nhiều:

Ngày tự tứ, trú xứ nào có khách tỷ kheo đến, các khách tỷ kheo biết những cựu trú tỷ kheo chưa vào giới trường, nhưng họ nói rằng,: “Chúng ta có năm người hay hơn năm người, có thể tác pháp yết ma tự tứ”. Và họ liền tác pháp yết ma tự tứ. Trong khi họ tác pháp yết ma tự tứ, các cựu trú tỷ kheo đến giới trường với số ít, nếu là hàng Thượng tọa, thì theo thứ tự của hàng Thượng tọatự tứ. Nếu là hàng Hạ tọa, thì theo thứ tự của hàng Hạ tọatự tứ.

Nếu những cựu trú tỷ kheo đến giới trường với số lượng ít, các khách tỷ kheo đã tự tứ xong, cả chúng chưa đứng dậy, hay hầu hết chưa đứng dậy, hoặc đều đã đứng dậy, thì các cựu trú tỷ kheo phải nói: “Thanh tịnh tự tứ”. Nếu không nói như vậy, là sai luật sẽ bị xử trị như pháp.

2- Trú xứ có tỷ kheo khách đến với số lượng bằng:

Nội dung như điều 1, nhưng số lượng cựu trú tỷ kheo đến giới trường bằng số lượng của khách tỷ kheo, thì các khách tỷ kheo, nên tác pháp cùng tự tứ lại, nếu không là sai luật, sẽ bị xử trị như pháp.

3- Trú xứ có tỷ kheo khách đến với số lượng ít:

Nội dung như điều 1 và 2, nhưng số lượng cựu trú tỷ kheo đến giới trường nhiều, số lượng tỷ kheo khách ít, dù tỷ kheo khách tự tứ rồi, cũng nên cùng với các tỷ kheo cựu trú tự tứ lại, nếu không là sai luật, sẽ bị xử trị như pháp.

4- Trú xứ có cựu trú tỷ kheo nhiều, khách tỷ kheo ít:

Ngày tự tứ, trú xứ nào, có các cựu trú tỷ kheo nhiều, họ đến giới trường và họ biết rằng, các tỷ kheo khách chưa đến, nhưng họ nói: “Chúng ta có năm người hay hơn năm người có thể tác pháp yết ma tự tứ”. Trong khi họ tác pháp yết ma tự tứ, các tỷ kheo khách đến với số lượng ít, nếu là hàng Thượng tọa, thì theo thứ tự của hàng Thượng tọatự tứ; nếu là hàng Hạ tọa, thì cứ thứ tự theo hàng Hạ tọatự tứ.

Nếu khi tỷ kheo khách đến tự tứ rồi, nhưng cả chúng chưa đứng dậy, hoặc số đông chưa đứng dậy, hoặc đều đã đứng dậy, thì các tỷ kheo khách đến với số lượng ít phải nói: “Thanh tịnh tự tứ”. Nếu không nói như vậy là sai luật, nên sẽ bị xử trị như pháp.

5- Trú xứ có số cựu tỷ kheo bằng số lượng tỷ kheo khách:

Nội dung như điều 4, nhưng số lượng cựu tỷ kheotỷ kheo khách bằng nhau, thì các tỷ kheo cựu với các tỷ kheo khách

nên cùng với các tỷ kheo khách tác pháp tự tứ lại, dù đã đứng dậy hay chưa đứng dậy. Nếu các tỷ kheo cựu không tác pháp tự tứ lại là sai luật sẽ như pháp xử trị.

6- Trú xứ số cựu tỷ kheo ít, số lượng tỷ kheo khách nhiều:

Nội dung như điều 4 và 5, nhưng số lượng cựu tỷ kheo ít, số lượng tỷ kheo khách nhiều, số cựu tỷ kheotác pháp tự tứ rồi, cũng nên cùng với tỷ kheo khách tác pháp tự tứ lại. Nếu không là sai luật, sẽ như pháp xử trị.

7- Trú xứ cựu tỷ kheo có treo dấu hiệu:

Nếu ngày tự tứ, tỷ kheo khách đến nơi một trú xứ nào đó, thấy các tỷ kheo cựu trú có treo những dấu hiệu đã tự tứ, mà không tìm hỏi, liền tác pháp yết ma tự tứ. Tác pháp yết ma tự tứ như vậy là bất thành mà lại bị tội.

Nếu thấy rồi, liền tìm. Tìm được các tỷ kheo cựu trú rồi, cùng nhau hòa hợp tác pháp yết ma tự tứ. Tác pháp yết ma như vậy là thành tựu,...

8- Tỷ kheo ni, thức xoa ma na, Sa di ni đều không được phép ngăn tác pháp yết ma tự tứ của tỷ kheo. Các tỷ kheo không được trước tỷ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di ni, tác pháp yết ma tự tứ hoặc ngăn tự tứ.

9- Các cư sĩ không được ngăn tác pháp tự tứ của các tỷ kheo và các tỷ kheo không được tác pháp yết ma tự tứ và ngăn tự tứ trước mặt các cư sĩ.

Bấy giờ vua Ba tư nặc sai quân lính đến hộ vệ chúng Tăng. Các tỷ kheo nói với binh lính rằng: “Quý vị nên đi ra ngoài một chút, chúng tôi muốn tác pháp yết ma tự tứ”.

Quân lính nói: “ Nhà vua sai chúng tôi đến đây để hộ vệ chúng Tăng, nên chúng tôi không dám rời đi chỗ khác”.

Các tỷ kheo liền thưa đức Phật việc ấy, Ngài dạy: “Các Thầy nên yêu cầu họ tránh một lần nữa. Nếu họ tránh thì tốt, nếu họ không tránh, thì các tỷ kheo nên đến chỗ mà họ không thấy không nghe để tác pháp yết ma tự tứ, chứ không được ở trước người chưa thọ đại giớitác pháp yết ma tự tứ”. (Tham khảo Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 841a – 843b).

VIII - Tránh Những Sai Lầm Khi Thực Hành Pháp Tự Tứ

Theo Luật Tứ Phần 37, 38, những sai lầm trong khi tự tứ cần phải tránh như sau:

1- Tránh đồng loạt tự tứ gây nên ồn ào. Tự tứ từng người một.

2- Tự tứ theo Tăng Pháp, tỷ kheo phải tự tứ từ tự tứ nhân, không được tùy ý tự tứ.

3- Không được ngồi tại chỗ để tự tứ, phải rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ.

4- Thượng tọa rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ, tăng tỷ kheo cũng phải rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ.

5- Không được có ý nghĩ lén nói tự tứ, sợ tỷ kheo khác, vì mình tác yết ma hoặc ngăn mình tự tứ. Phải nói tự tứ một cách rõ ràng, đầy đủ, khiến cho người khác nghe được.

6- Không được có ý nghĩ, ta nên tự tứ nhanh; nếu không, tỷ kheo khác vì ta tác yết ma ngăn tự tứ. Đức Phật cho phép an cư rồi thong thả tự tứ.

7- Không được nói tự tứ một lần, phải nói tự tứ ba lần.

8- Không được lật ngược y, quấn y nơi cổ, trùm trên đầu hoặc phủ cả hai vai để tụ tứ; không được mang dép hoặc ngồi trên giường hoặc trên đất để tự tứ. Phải trạc y bên phải, quỳ chắp tay nói lời tự tứ. Tỷ kheo bệnh, thì tùy duyên thích hợp để tự tứ.

9- Tự tứ không được ngồi ở ngoài thuyết giới đường. Tự tứ nhân phải bạch Tăng, trước khi nói tự tứ.

10- Không được tự tứ phi pháp biệt chúng. Không được tự tứ phi pháp hòa hợp chúng. Không được tự tứ như pháp biệt chúng. Phải tự tứ như pháp hòa hợp chúng.

11- Trong trú xứ có vị tiền an cư, có vị hậu an cư thì nhật kỳ tự tứ phải thuận theo số đông để tự tứ.

12- Tự tứ vào ngày mười bốn hoặc rằm, sau giờ Đại thực hay tiểu thực.

13- Vì hoàn cảnh, nếu nơi không có giới trường, Thượng tọa phải tập Tăng, bạch nhị yết ma kết tiểu giới với không gian vừa đủ cho các tỷ kheo tự tứ ngồi kín vòng, để tác pháp tự tứ và sau khi tự tứ xong, phải bạch nhị yết ma giải tiểu giới trước khi đi.

14- Tăng năm vị, trong đó có một người thọ dục, thì không được tác pháp bạch nhị yết ma cử tự tứ nhân. Vì không đủ túc số Tăng như pháp.

15- Tăng chỉ có bốn vị hiện diện, không được nhận dục của người thứ năm, tức là người vắng mặt. Nếu chỉ có ba người, không được nhận gởi dục của người thứ tư. Phần còn lại cũng nên hiểu như vậy.

16- Tâm niệm tự tứ không có dự dục.

17- Khi tự tứ không biết tội, không biết người, nhưng sau khi tự tứ xong lại biết tội, biết người. Tuy vậy, nhưng không được đem những việc đã qua để cử tội lại.

Khi tự tứ không biết tội, nhưng biết người. Tự tứ rồi biết tội, biết người, nhưng không được đem việc cũ của người mà cử tội lại.

Khi tự tứ biết tội, nhưng không biết người. Nhưng, nếu tự tứ rồi không được đem việc cũ của người mà cử tội lại. (Tham khảo Tứ Phần Luật 37, 38, Đại chính 22, từ tr 836c – 840).

IX - Sau Tự Tứ:

Sau tự tứ, các tỷ kheo có thể rời khỏi trú xứ an cư để đi hoằng đạo, nhưng trước khi các tỷ kheo rời khỏi trú xứ, Tăng phải tác pháp yết ma giải đại giới an cư và kết lại đại giới của trú xứ. Vì khi an cư Tỷ kheo Tăng các nơi về tập trung đông tại trú xứ, do đó phải yết ma mở rộng đại giới, nay xuất hạ các tỷ kheo tùy duyên hoằng hóa, nên phải kết lại đại giới của trú xứ cho thích hợp.

Tăng có thể tác pháp thọ ca thi na y, để tiện việc cho các tỷ kheo cất giữ vải trong vòng ba mươi ngày đủ để may y mới, không bị phạm vào các học xứ quy định liên hệ đến việc chứa vải và rời y để nghỉ qua đêm.

Và sau khi an cư xong, thì Tăng phân chia bình đẳng các lợi dưỡng đến các tỷ kheo, do tín đồ cúng dường suốt ba tháng, sau khi đã sử dụng cho việc an cư của Tăng còn dư lại.

X - Chánh Pháp Tồn Tại

Chánh pháp tồn tại đúng ý nghĩa và có lợi ích thiết thực cho thế gian hay không là vai trò của Tăng đoàn. Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh. Hòa hợpthanh tịnhbản thể của Tăng đoàn và là pháp lý tồn tại của tổ chức giáo đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn trên thế gian này.

Sự tồn tại và phát triển của Tăng đoàn dựa trên bản thể hòa hợpthanh tịnh, đó là sự tồn tại chuyển tải đúng nội dung của chánh pháp. Chánh pháp tồn tại và được chuyển vận từ ý nghĩa này mà lan rộng từ một trú xứ đến nhiều trú xứ, từ một quốc gia đến toàn thể thế giới.

Tuy rằng, các tỷ kheo sinh hoạt nhiều trú xứ và nhiều quốc gia khác nhau, có những dị biệt về phong tục tập quán, nhưng họ thống nhất với nhau về một bậc Thầy giác ngộ, đó là Đức Thế Tôn. Họ thống nhất với nhau về Pháp là Pháp Bát Chánh đạo. Họ thống nhất với nhau về bản thể tỷ kheo thành tựu từ pháp bạch Tứ yết ma. Họ thống nhất với nhau về Tăng là bốn tỷ kheo trở lên cùng sinh hoạt với nhau trong bản thể hòa hợpthanh tịnh. Họ sống hòa hợpthanh tịnh với nhau trong các Tăng sự thuyết giới, an cư, tự tứ và các pháp sự khác.

Thống nhất của Tăng đoàn như vậy, không phải đơn thuần là thống nhất về mặt tổ chức và hành chánh mà thống nhất ngay nơi nguồn gốc và bản thể. Bất cứ pháp gì có cùng một nguồn gốc và bản thể, tự nó là thống nhất.

Ở trú xứ nào, không có các tỷ kheo cùng nhau hòa hợp, thanh tịnh, không cùng nhau thuyết giới, an cưtự tứ đúng pháp, thì trú xứ ấy xem như không có Tăng bảo trú trì và ở xứ sở đó Chánh pháp chưa được chuyển vận, mặt trời Chánh pháp chưa được sáng lên, ruộng đồng Chánh pháp chưa được cày xới, quần chúng trú xứ ấy lấy ruộng ở đâu mà gieo trồng hạt giống phước đức?

Do đó, Pháp an cư của Tăng từ Đức Thế Tôn chế định; Pháp tự tứ của Tăng cũng từ Đức Thế Tôn chế định. Pháp ấy phù hợp với an tịnh của Niết bàn. Và Tăng chỉ đúng nghĩa là Tăng, khi mọi sinh hoạt của Tăng đều được biểu hiện từ nơi Phật và Pháp. Pháp an cư của Tăng là một trong những biểu hiện cụ thể ấy. Và do sự biểu hiện ấy mà Chánh pháp trường tồn, làm cho thế gian bớt tăm tối và là phước điền cho thế giới chư thiênloài người gieo trồng phước đức vậy.

Thích Thái Hòa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14147)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39715)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15315)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13881)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13931)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37335)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40064)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14641)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14312)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12657)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14831)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19218)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13797)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42627)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13832)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37265)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12675)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11764)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22546)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12511)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12572)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13066)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13112)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33249)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14835)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12456)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11962)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11936)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13136)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51267)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12382)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6615)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30414)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13128)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13333)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30683)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19365)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12479)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11845)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14763)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13195)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13197)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30687)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12042)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12728)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31902)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29414)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11784)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11751)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10430)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11565)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9642)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9664)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9991)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35403)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10150)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10099)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10048)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9662)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27805)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15499)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9854)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13686)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9846)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9694)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18324)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12045)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9573)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9695)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8718)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8916)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8417)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11482)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31734)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12336)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13319)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8829)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9444)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11940)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9229)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9074)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29361)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9078)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9106)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33252)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8434)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30607)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31230)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37129)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32257)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9935)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27101)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8451)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19238)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13014)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9786)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant