Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vu Lan - Nghĩ lan man về "tội treo ngược"

30 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7871)
Vu Lan - Nghĩ lan man về "tội treo ngược"

VU LAN - NGHĨ LAN MAN VỀ "TỘI TREO NGƯỢC"
Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất. Tôi bần thần. Chiều nay không viết được trang sách nào cả. Ngồi uống trà và ngắm nhìn mây trời lang thang. Ôi! Thu! 

Điện thoại reo. À, con hả, gì vậy con? Thầy đã hứa mấy lần mà chưa giải thích cho con nghe nghĩa của ba chữ Vu Lan Bồn? Thế hả? Thầy có hứa à? Thầy lại lẩm cẩm rồi! Ừa, thầy lẩm cẩm lâu rồi! Có tiếng cười vui. Thầy đánh trống lãng hả? Tôi im lặng vài giây. Nếu con muốn tìm hiểu nghĩa Vu Lan Bồn - thì con hãy lấy bút và giấy ra! Chi vậy thầy? Để thầy đọc và con chép. Con sẽ chép tên một số sách, báo, tạp chí, một số từ điển - người ta đã giảng giải về ba chữ ấy. Đọc rồi hiểu ngay liền à! Không! Đọc mệt lắm! Con không có thì giờ đâu. Thầy hãy viết một bài để đưa lên mạng hay đăng các tập san, các tạp chí Phật giáo.

Thế là tôi có hứa viết. Nhưng viết làm sao đây? Từ điển Phật học nào cũng có giảng giải cả. Các sách, báo, tạp chí rải rác mấy chục năm nay cũng đã làm việc ấy rất nhiều rồi. Có điều, chẳng có ở đâu nói đúng. Khi cái hiểu sai đã trở thành phổ thông, dẫu mình có nói đúng sự thật thì biết còn ai nghe, ai tin?

Tôi thở dài. Ôi! Tôi lại nhớ mẹ tôi quá! Mái tóc bà bạc trắng. Có cái lưng còng hình chữ U. Suốt một đời ăn ở hiền lành, tốt bụng; nắng mưa tần tảo, lụm cụm lo cho chồng, cho con, cả cho cháu nữa; đêm nào cũng lần tràng hạt, niệm kinh! Mẹ ơi! Bây giờ mẹ ở đâu? 

Ôi! Nếu hiểu Vu Lan Bồn - phát xuất từ chữ Sanskrit là Ullambana, nghĩa là “đảo huyền” (treo ngược), cứu cái tội treo ngược, thì hóa ra, có thể là mẹ mình, mẹ của ai đó, cụ thể là mẹ của ngài Mục-kiền-liên (Moggallāna) đã bị tội treo ngược sao? Và tất cả hương hồn, vong linh “bảy đời cha mẹ” lang thang cô lữ, phiêu dạt nhiều đời - đều chỉ chịu chung một hình phạt - là tội treo ngược cả hay sao? [1]

Nghĩ mà buồn. Lại càng buồn hơn khi không biết viết như thế nào để khỏi mất lòng người nầy, người khác; viết như thế nào để phủ chính một quan niệm sai lầm, khi cái quan niệm sai lầm ấy đã lan tràn khắp Trung QuốcViệt Nam ? Hay là cứ liệt kê ra đây tất cả, những ngữ nghĩa, những giải thích nơi này và nơi kia - rồi cái đúng, cái sai - hãy để mọi người tự khảo sát và chiêm nghiệm lấy? Ừ, cứ làm vậy đi!

Thế rồi, đầu tiên là tôi tra từ điển.

* Từ điển Phật học của Đoàn Trung Còn - nơi chữ Vu Lan Bồn, [2] ông viết:

- Uilambana (sic) [3]: Còn gọi là Ô-lam-bà-noa (sic), dịch là đảo huyền, chỉ nỗi đau khổ cùng cực. Huyền ứng âm nghĩa, q.13: “ Vu-lan-bồn, là nói sai. Nói đúng là Ô-lam-bà-noa, dịch là đảo huyền. Theo phép nước Tây Trúc, vào ngày tự tứ của các tăng, đặt cỗ bàn linh đình, dâng cúng Phật tăng để cứu cái khổ treo ngược (đảo huyền) của người đã mất. Xưa nói là cái chậu đựng thức ăn, đó là nói sai. Vu-lan-bồn kinh sớ của Tông Mật nói: “ Vu-lan là từ ngữ của Tây vực, nghĩa là đảo huyền, bồn là âm của Đông Hạ vẫn là đồ dùng cứu chữa. Nếu theo cách nói của địa phương thì phải nói là Cứu đảo huyền bồn”. Vu-lan-bồn tâm ký của Nguyên Chiếu (q.thượng), bác lại: “ Theo Ứng pháp sư kinh âm nghĩa thì: Tiếng Phạn Ô-lam-bà-noa dịch là Đảo huyền, nay xét Ô-lan tức là Vu-lan, bà-noa là cái chậu. Thế là ba chữ đều là tiếng Phạn. Nhưng âm thì có sự xê xích sai lầm.”

Còn nữa,

- Vu-lan-bồn hội: Tôn giả Mục Liên đệ tử của đức Phật, thấy mẹ rơi vào đường quỷ đói, chịu nỗi khổ bị treo ngược (đảo huyền), hỏi đức Phật cách cứu gỡ. Đức Phật dạy rằng vào ngày Rằm tháng bảy (sic) hằng năm, đem trăm thức phẩm vật dâng cúng Tam Bảo, nhờ vào uy của Tam Bảo thì sẽ cứu được cha mẹ của bảy đời. Do đó mà có pháp hội này...

- Vu-lan-bồn kinh: Tức kinh Phật thuyết Vu-lan-bồn - Trúc Pháp Hộ dịch (01 q.). Kinh này do đức Phật thuyết nhằm khuyên người ta cầu siêu cho ông bà cha mẹ còn sống (sic). Kinh này nên tụng trong tuần tháng bảy vào ngày rằm (sic). Vu-lan-bồn tức là bữa tiệc (sic) cúng Phậtchư tăng để cầu phúc cho ông bà cha mẹ, cầu cho hồn người thác ở nơi âm cảnh khỏi bị treo ngược. Vu-lan-bồn kinh nói về ngài Mục Kiền Liênđệ tử của đức Phật vừa đắc đạo (sic) liền nhớ tới công ơn cha mẹ. Ngài ngó xuống cõi âm thấy cha mẹ (sic) mình đang bị treo ngược vô cùng khổ cực. Ngài đem cơm xuống cho mẹ nhưng bà chẳng ăn được. Đức Phật dạy ngài muốn cứu vớt mẹ phải chờ đến ngày Rằm tháng bảy (sic), khi có đủ chư tăng đại đức hội về làm tiệc (sic) mà cúng Phật và khoản đãi (sic)chư tăng. Dựa vào sức lành của các ngài mà siêu độ được vong linh, làm cho cha mẹ bà con hiện còn sống (sic) được thêm phúc đức. Nhờ vậy mà ngài Mục Kiền Liên đã cứu giải được mẹ...

Theo Phật học từ điển của Đạo Uyển:

- Vu-lan-bồn hội: S. Ullambana; là cách dịch theo âm, dịch nghĩa là Cứu đảo huyền, tức là “ Cứu nạn treo ngược” cứu “ những oan hồn bị treo ngược dưới địa ngục”.

Rồi ông giải thích: Một lễ hội cúng các cô hồn, nhằm ngày Rằm tháng bảy. Trong ngày này, các quỷ đói dưới địa ngục (sic) được cúng dường thức ăn, bánh trái, giấy tiền vàng bạc (sic), quần áo... để họ được giảm khổ đau. Lễ này được tổ chức lần đầu tiên năm 538 tại Trung Quốc và vẫn được tổ chức hằng năm tại các nước Đông Á như Trung Quốc, Việt Nam. Nguồn gốc của lễ này xuất phát từ Mục Kiền Liên. Tôn giả nhờ thiên nhãn thông thấy được mẹ mình tái sinh làm ngạ quỷ dưới địa ngục (sic) và đau xót muốn cứu bà. Đức Phật bảo là chỉ có sự hỗ trợ của toàn thể tỉ-khâu trong Tăng-già mới giảm đau cho họ được...

Theo An Chi [4] thì giải thích rất dài; ông đã chịu khó dẫn chứng nhiều nơi, nhiều nguồn rồi phân tích sự sai lầm của các nhà nghiên cứu khác. Tôi chỉ có thể chép lại tóm tắt những ý chính.

- Huệ Thiên đã viết [5]: “ Vu lan là dạng tắt của Vu lan bồn, phiên âm danh từ S. Ullambhana. Ban đầu là Ô lam bà na. Về sau, vu thay thế cho ô, lan cho lam và bồn cho bà n(a). Vậy, Vu lan bồn chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm, nên từng tiếng một (vu, lan, bồn) không có nghĩa gì cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành “cái chậu đựng thức ăn” như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm [6] là hoàn toàn không đúng[7].

Huệ Thiên viết tiếp:

- Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ S. này có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul do quy tắc biến âm sandhi khi d đứng trước l), căn tố LAMBH và hậu tố ana (...) Tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập (...) Căn tố LAMBH là hình thái luân phiên với LABH, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt. Vậy ul - LAMBH có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến nghĩa mà tiền tố và căn tố diễn đạt. Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng đọc theo âm Hán Việt là Vu lan bồn, được nói tắt là Vu lan. Vậy Vu lan là sự giải thoát.

Trích dẫn đến ngang đây, ông An Chi than: Tiếc rằng, cho đến nay, vẫn còn nhiều tác giả giảng sai về xuất xứ và nghĩa gốc của hai tiếng vu lan; rồi ông viết:

- Trong Văn tế thập loại chúng sanh của Nguyễn Du (bản in lần thứ hai, An Tiêm, Paris, 1995), Hoàng Xuân Hãn đã viết như sau: “Phạn ngữ Ullambana nghĩa là cực khổ tột bực. Nghĩa lại chuyển thành cứu khỏi cực khổ. Phiên âm Hán ngữ đã có nhiều cách; một cách là Vu-lan-bồn, nói tắt: Vu-lan”. (Sđd, tr.14).

Đọc đến ngang đây, chưa nói cái đúng, cái sai của mỗi nhà, mà chúng ta nên để ý: Huệ Thiên, ở trên, giải thích danh từ S. Ullambhana; Hoàng Xuân Hãn, ở dưới lại giải thích danh từ S. Ullambana. Một bên là căn tố LAMBH, một bên là căn tố LAMB ( BH và B).

An Chi viết tiếp:

- Không biết Hoàng Xuân Hãn đã căn cứ vào nguồn thư tịch nào về Phật học và về tiếng Sanskrit mà lại khẳng định rằng “ Ullambana” là “cực khổ tột bực”, rồi “ nghĩa lại chuyển thành cứu khỏi cực khổ”. Để cho rõ vấn đề, trước nhất, xin nhấn mạnh rằng trong tiếng S. thì Ullambhana và Ullambana là hai từ khác hẳn nhau về nghĩa gốc của căn tố.

Căn tố của từ trước là LABH/ LAMBH, như đã phân tích, còn căn tố của từ sau thì lại là LAMB. Cũng như từ trước, ullambana có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nêu), căn tố LAMB và hậu tố ana. Ngoài nghĩa nêu trong đoạn đã dẫn của Huệ Thiên, ud ( -> ul) còn chỉ hướng chuyển động từ dưới lên. LAMB là treo (vậy ul - LAMB là treo lên) còn ana là hậu tố diễn đạt, như đã thấy. Vậy ullambana là sự treo lên và chỉ có thế. Từ này hoàn toàn chẳng có liên quan gì đến ý “ cực khổ tột cùng”, càng không phải “ cứu khỏi cực khổ”. Chúng tôi mạo muội đoán mò rằng chẳng qua Hoàng Xuân Hãn chỉ căn cứ vào những lời giảng sai về mấy tiếng “vu lan (bồn)” trong thư tịch của Trung Hoa rồi lấy cái nghĩa đó mà gán cho danh từ S. ullambana, tự nó vốn cũng chẳng có liên quan gì đến mấy tiếng “ vu lan (bồn)”.

Đến chỗ này, dường như ông An Chi bắt đầu kết luận:

- Mathews’Chinese - English Dictionnary đã chú một cách ngắn gọn và chính xác về xuất xứ của ba tiếng “ vu lan bồn” như sau: From the Sanskrit ullambhana, deliverance”. (Do tiếng Sanskrit ullambhana, (có nghĩa là ) sự giải thoát).

Vậy cái nghĩa “cứu khỏi cực khổ” mà Hoàng Xuân Hãn cho là nghĩa phái sinh (“chuyển”) của ullambana chính là cái nghĩa đích thực của ullambhana (sự giải thoát, sự cứu nạn...) còn “ cực khổ tột bực” chẳng những không phải là nghĩa gốc của từ này mà cũng chẳng phải của từ ullambana do Hoàng Xuân Hãn nêu ra.

Đến ngang đây, ta thấy rõ An Chi đã đồng ý với Huệ Thiên (Huệ Thiên cũng là bút danh khác của An Chi), danh từ S. Ullambana là sự treo ngược, còn danh từ S. Ulambhana là sự giải thoát. Vậy, Vu-lan-bồn là sự giải thoát thật chăng? 

Tôi cảm thấy ngờ ngợ, nghi nghi! Ullambana, tội treo ngược là trật rồi; nhưng Ullambhana, là sự giải thoát thì cũng không phải! Dường như tôi chưa đọc được ở đâu “thuật ngữ Ullambhana” lại chỉ cho sự giải thoát cả. Sanskrit hoặc Pāḷi, đều tương tợ nhau. Tôi có thể nêu ra một số:

- Vimutti (p.) - vimukti (s.): Giải thoát.

- Vimokkha (p.) - vimoksa (s.): Giải thoát.

- Vimokkha-magga (p.) - Vimoksa-mārga: Giải thoát đạo.

- Vimutti-kāya (p.) - Vimukti-kāya (s.): Giải thoát thân.

- Pàtimokkha (p.) - Prātimoksa (s.): Biệt giải thoát.

... Điểm sơ như vậy để chúng ta hiểu rằng, khi muốn nói đến giải thoát, dù giải thoát thân, giải thoát tâm, giải thoát trí, giải thoát đạo, giải thoát chướng, giải thoát nghĩa, giải thoát môn, giải thoát tưởng, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến... trong kinh điển chỉ sử dụng hai thuật ngữ chính là vimutti, vimokkha (nếu là Pàli), là vimukti, vimoksa (nếu là Sanskrit) - chứ chưa hề thấy xuất hiện bóng dáng của danh từ Ullambhana!

Để cho điều vừa trình bày được thuyết phục, tôi muốn trích dẫn thêm một số nơi nữa.

Ngay như từ Ullambhana mà Mathews’ Chinese - Enghish Dictionnary dịch là Deliverance, rồi sau đó An Chi dịch là “sự giải thoát” - chúng ta cũng nên bàn một chút để rộng đường nghiên cứu, suy nghĩ

- Danh từ Deliverance phát xuất từ động từ Deliver (ngđt) có rất nhiều nghĩa: Phân phối; đọc, phát biểu, bày tỏ; đỡ đẻ; giao, giao trả, nộp... cho đến nghĩa phụ cuối cùng mới là cứu, cứu khỏi, cứu thoát... Đây là từ tiếng Anh cổ, vì ngại lệch nghĩa nên ngày nay người ta (Đức, Anh, Mỹ...) không dùng nữa.

- Còn một từ tiếng Anh cổ thứ hai, đấy là danh từ Emancipation - phát xuất từ động từ Emancipate (ngđt) có nghĩa là giải phóng, phóng thích, giải thoát ... nó gần với từ S. Ullambhana hơn - nhưng bây giờ cũng rất ít dùng.

- Từ tiếng Anh hiện đại - khi nói đến “giải thoát” hoặc dịch thuật ngữ P.Vimutti, vimokkha - S. Vimukti, vimokṣa - thì người ta dùng từ Liberation, phát xuất từ động từ Liberate (ngđt) có nghĩa là tha, thả, giải phóng, phóng thích, cho tự do... Động từ ấy lại tương tợ từ tiếng Pháp - Libre, liberté, libérer, libéralité, libération... đều cũng một trường nghĩa - chỉ cho sự tự do, cho tự do, sự giải thoát, cho giải thoát... Tiếng Đức cũng vậy: Libe’ral (Adj) - ưa tự do, tự do; Liberali’ sieren (Vt) - sự làm cho được tự do, tự do hóa...

Vậy xin các nhà nghiên cứu khi dịch những “thuật ngữ” Phật học - thì hãy lưu ý đấy là “thuật ngữ” - không thể tùy tiện tìm nghĩa tương tợ, khái lược thế nào cũng được; vì giả dụ như khi dịch ngược trở lại hoặc dịch sang một ngôn ngữ khác nữa - thì yếu tính giáo pháp sẽ phai loãng đi hoặc lệch nghĩa một cách đáng tội! (Trường hợp này tôi không dám ám chỉ ông An Chi).

Trở lại câu chuyện của ngài Moggallāna (Mục-kiền-liên). Quả thật, do mẹ ngài hủy báng Tam Bảo nên bị quả báo đau khổ làm Ngạ quỷ đói thì có thật [8]. Ngài sử dụng thiên nhãn thông nên thấy được sự đọa đày, thống khổ của mẹ là có thật. Chúng ta cũng nên để ý nữa rằng, Moggallāna là Đại đệ tử của đức Phật, đắc lục thông - chẳng lẽ nào ngài không biết là cái “thân sống” của Ngạ quỷ là chỉ để trả quả ác nghiệp - chứ không thể ăn uống gì được, vật thực của cõi người lại càng không thể. Dẫu có soạn mâm cao, cỗ đầy cũng không ăn được. Còn tiền giấy đô-la, vàng mã, áo quần gì gì đó... thì thuộc loại mê tín nhân gian rồi, không phải chánh tín của Phật đâu! Cõi Ngạ quỷ (chính xácNgạ quỷ đói, lạnh) chỉ có thể ăn, uống, mặc... no ấm là do phước hồi hướng của quyến thuộc; rồi chính phước ấy hóa thành tứ sự đủ đầy cho Ngạ quỷ đói, lạnh. Như tích truyện đức vua Bimbisāra, đặt bát cúng dường đức Phậttăng chúng để hồi hướng cho Ngạ quỷ đói vốn là quyến thuộc nhiều đời của ông được sanh thiên với đầy đủ oai sang phước tướng. Vậy chẳng lẽ nào ngài Moggallāna không biết sự thật ấy, lại bi ai, thảm thương mang bát vật thực xuống cho mẹ ăn rồi thấy mẹ không ăn được, do cơm hóa than! 

Truy nguyên, hóa ra là từ đoạn kinh Vu Lan mà Trúc Pháp Hộ đã dịch sang chữ Hán:“ Đại Mục Kiền Liên thủy đắc lục thông, dục độ phụ mẫu báo nhũ bộ chi ân. Tức dĩ đạo nhãn quán thị thế gian. Kiến kỳ vong mẫu sanh ngạ quỷ trung, bất kiến ẩm thực, bì cốt liên lập. Mục Liên bi ai, tức dĩ bát thịnh phạn vãng hướng kỳ mẫu. Mẫu đắc bát phạn, tiện dĩ tả thủ chướng bát, hữu thủ sủy thực. Thực vị nhập khẩu, hóa thành hỏa thán, toại bất đắc thực”[9]

Ta thấy rằng, chuyện ngài đắc lục thông, vì muốn cứu cha mẹ để đền đáp ân sinh thành dưỡng dục nên dùng thiên nhãn thông nhìn khắp thế gian, thấy mẹ sinh làm ngạ quỷ đói, không có gì để ăn uống, da liền với xương... là chuyện có thật, đúng như câu chữ Hán, đoạn trên. Nhưng đoạn sau, có hai chỗ mà chúng ta đã đề cập ở trên. Đó là “Mục Liên bi ai, tức dĩ bát thịnh phạn” và “ hóa thành hỏa thán”. Bi ai là xót thương, là thảm thương (thống thiết cảm thương) lấy bát đựng cơm đem xuống cho mẹ... rồi cơm hóa than...!

Hóa ra, sự hiểu lầm, lệch lạc là bởi từ kinh chữ Hán; vậy người học Phật hãy xem chừng [10]. 

Còn nữa, đoạn kinh chữ Hán không hề thấy chữ “ đảo huyền, treo ngược” và Ngạ quỷ đói lạnh cũng không thấy “ tội bị treo ngược”.

Đây có lẽ chỉ là sự hư cấu của người đi sau, có thể là với dụng ý tốt nhằm giáo hóa thế gian, nêu bật tâm Đại Hiếu của ngài Mục Kiền Liên! Nhưng tiếc thay, khi làm như vậy - người ta lại bỏ quên, không nhớ rằng, ngài là vị thượng thủ A-la-hán đầy đủ tâm, tuệ giải thoát, đệ nhất năng lực thắng trí - vốn biết tất cả mọi chuyện, nếu có hướng tâm - và tuyệt không còn những tình cảm dung thường nữa! 

Đức Phật dạy Moggallāna với đại ý rằng: “ Mẹ ông bị thống khổ đọa đày do ác nghiệp hủy báng Tam Bảo. Như Lai không cứu được. Mà sức một mình ông cũng không cứu được dù ông là Đệ nhất thần thông. Chỉ có một cách duy nhất, là sau ngày mãn hạ [11] của chư tăng, ông làm phước cúng dường đến quý ngài - mong nhờ cộng hưởng năng lực thanh tịnh của thập phương tăng chú nguyện, mẹ ông sẽ thoát khỏi khổ!”

Thực hành theo lời dạy bảo của đức Phật, mẹ ngài thoát kiếp Ngạ quỷ và sau đó, được sanh thiên.

Tóm tắt câu chuyện ấy, lộ ra tính chất: Do nhờ năng lực chú nguyện của thập phương tăng nên mẹ ngài Moggallāna được nâng lên, được giúp đỡ, được cứu, được vớt khỏi cảnh giới đau khổ. Đến ngang đây, cái từ Ullambhana hiện ra; chính xác nó phải mang ngữ nghĩa như trên chứ không thể mang nghĩa giải thoát được! Và như thế, từ Sanskrit- Ullambhana sẽ tương đương với từ Pāḷi-Ullumpana (danh từ trung tính) có cùng một nghĩa là sự nổi lên, mọc lên, cứu vớt - phát xuất từ động từ Ullumpati có nghĩa là nâng lên, giúp đỡ... Vậy, tôi dè dặt đề nghị nên dịch từ S.Ullambhana là sự cứu vớt, cứu khỏi, chính xác hơn là dùng cụm từ “sự giải thoát” Hy vọng rằng, S. Ullambhana và P. Ullumpana - từ nay sẽ không còn ai hiểu lầm nữa về cái tội treo ngược; và hãy trả lại chân dung xứng đáng cho ngài Moggallāna - một vị thánh xuất trần, ly cấu sao lại tầm thường và lại thiếu trí tuệ như bấy lâu nay - theo cách hiểu lầm đáng tiếc nêu trên! 

Mô Phật! Bài thầy nhờ gởi qua email ở chùa ngoài con đã nhận được chưa? Dạ, được rồi! Đã đọc chưa? Dạ đọc một lần rồi! Con sẽ đọc lại lần thứ hai. Hóa ra nó phức tạp đến vậy! Cảm ơn thầy đã giải thoát khỏi trí óc con cái tội bị treo ngược của thất thế phụ mẫu. Cả cái chậu đựng thức ăn tội nghiệp kia nữa chứ! Phải rồi! Cảm ơn thầy! Đừng cảm ơn thầy! Tại sao? Hãy cảm ơn các nhà học giả, nghiên cứu - còn thầy chỉ là người đọc sách, rồi làm cái việc của người thư ký để chép ra vậy thôi! Thầy khiêm tốn quá đấy! Cái bản ngã khiêm tốn nó cũng lớn lắm đấy! Thầy không dại thế đâu! Có tiếng cười rúc rích. Rồi im lặng một lát. Mà quả thật có cứu, có vớt được không hả thầy? Con nói cứu ai, vớt ai? Ai nữa! Cha mẹ bảy đời đó! Ờ, à... Nếu họ là Ngạ quỷ đói - thì cứu được, vớt được [12]- nhưng cũng còn tùy thuộc, còn cần nhiều điều kiện... Thầy hãy hoan hỷ giải thích một lần xem nào... Thế là tôi lại phải giải thích thêm một tí nữa, đại lược thôi. 

Vào thời đức Phật, phải an cư mùa mưa là vì chư tăng không đi hành hóa nơi này và nơi kia được nên tìm những chỗ ngụ thích hợp để tu tập. Nhờ vậy, pháp học, pháp hành của các ngài đều được tiến bộ, thành tựu - nhất là giới đức, định đức và tuệ đức - nói cách khác, cả thân, tâm, trí của các ngài đa phần đều thanh tịnh. Mãn hạ, nhằm ngày tự tứ, nếu ai bố thí, cúng dường tứ sự (vật thực, y áo, chỗ ngụ, thuốc men) đến tập thể Tăng-già (Saṅgha) thanh tịnh nầy rồi hồi hướng phước báu ấy đến cho ông bà, cha mẹ, thân bằng, quyến thuộc nhiều đời... thì họ sẽ thoát khỏi cảnh khổ. 

Có rất nhiều loại khổ - vậy cụ thể là khổ gì hả thầy?

Đúng vậy, khổ ở đây chỉ giới hạn nơi khổ đói và khổ lạnh. Chỉ có Ngạ quỷ đói, lạnh mới hưởng được phước nầy - còn các loại Ngạ quỷ khác hoặc đang ở cảnh giới khác - ví dụ địa ngục, bàng sanh, a-tu-la - thì không thể thọ nhận được. Đức Phật có dạy như vậy - cho nên bên Nam tông có một bài kinh thường được tụng đọc lúc cầu siêu, hồi hướng - chỉ để dành riêng cho loại Ngạ quỷ ấy [13].

Thầy giải thích thêm nơi chỗ Tăng-già thanh tịnh?

Thứ nhất, vị sư, thầy ấy là tỳ-khưu có thọ trì 227 giới (Nam tông), 250 giới (Bắc tông) và ở trong tập thể tỳ-khưu 4 vị trở lên - cũng thanh tịnh như vậy - mới được gọi là Tăng-già thanh tịnh. Thứ hai, chính tập thể Saṅgha ấy thọ nhận phẩm vật cúng dường rồi tụng kinh siêu độ mới cứu vớt, cứu khỏi cái khổ đói, khổ lạnh cho Ngạ quỷ quyến thuộc được. Còn 1, 2, 3 vị tỳ-khưu hoặc tập thể cư sĩ, tập thể tăng không thanh tịnh - thì năng lực rất yếu, đôi lúc lại không thể tựu thành phước báu do một ái đó bất tịnh!

Vậy, khi ấy, phước báu bố thí cúng dường ấy, thuộc phần của ai?

Chính người bố thí, cúng dường (năng thí) được hưởng.

Bây giờ con mới hiểu điều này!

Thế mà vẫn chưa đủ đâu con. Người thọ nhận (sở thí) là Tăng thanh tịnh, nhưng còn phải có thêm hai điều kiện nữa là phẩm vật cúng dường (vật thí) phải thanh tịnh; và người cúng dường (năng thí) cũng phải thanh tịnh. Đầy đủ Ba thanh tịnh (năng thí, vật thí và sở thí) thì phước báu mới cụ túc, viên mãn.

Trí con đã được mở ra rồi. Nhưng thầy phải giải thích thêm cho về hai cái thanh tịnh đi sau?

Ừ! Người bố thí, cúng dường phải có thân, khẩu ý trọn lành tức là ba nghiệp thanh tịnh - đấy được gọi là năng thí thanh tịnh. Phẩm vật cúng dường không phải là thứ dư thừa, thô xấu mà phải trân quý trong khả năng mình, đồng thời, tài vật ấy có được bằng chánh mạng, tức là bằng chính bàn tay, mồ hôi, lao tâm và lao lực của mình làm ra - đấy được gọi là vật thí thanh tịnh.

Có tiếng cười nhỏ.

Dường như thầy giải thích theo kinh điển “ tiểu thừa” rồi!

Ừa, vì thầy vốn là “tiểu thừa” mà!

Cứ cho vậy đi! Nhưng thầy có biết cách giảng của các nhà đại thừa không?

Biết chút chút...

Vậy thì bên “ phát triển” giải thích ra sao hở thầy?

Ba cái ấy cũng thanh tịnh, con à! Thuật ngữ là “ Tam luân thanh tịnh”. Có đôi nơi lại gọi là “tam không”,“ tam luân thể không” hoặc “ tam luân không tịch”.

Nghe đã khiếp vía chưa. Con không biết chữ Hán. Nghĩa là sao hả thầy?

Nghĩa nó rất cao siêu. Đồng ý ba cái đó là thanh tịnh rồi, nhưng người bố thí đừng khởi hữu tâm, đừng dính mắc, phải rỗng rang, không trụ tướng - vì tất thảy chúng đều là “không tánh” (Suññatā)!

Thế thì khó quá ha? 

Có lẽ là vậy!

Tại sao lại “có lẽ”?

Vì có lẽ tu tập “chợt óc” mới vớ được cái tánh không ấy? Mà khi vớ được rồi thì nó đã trở thành tánh hữu mất!

Có tiếng cười.

Hóa ra bên “tiểu thừa” cũng có “tánh không” à?

Có lạc đề không đó?

Cứ cho nó lạc đi!

Ừa, thế thì, có chứ con! Nó nằm ở nơi kinh Tiểu không [14], kinh Đại không [15] và kinh Đại duyên [16] - trong đó là những ngữ nghĩa gần với nguyên thủy nhất, đức Phật đề cập đến những tư tưởng nền tảng mà sau này các nhà đại thừa lập cước triển khai tư tưởng Tánh không trong Kim cương Bát-nhã hoặc Trung quán luận của Long Thọ đấy!

Ồ, tốt, vậy là tốt! Hóa ra thầy cũng “đại” như ai!

Thầy ý à, tiểu hay đại đều là không cả! Thầy dại gì! Con chưa thuộc tánh không à? Mà thôi, thầy không nói nữa. Tốn tiền điện thoại quá trời quá đất. Chúc con một mùa Vu Lan (S. Ullambhana. P.Ullumpana) mát mẻ, an vui - cố gắng làm phước cúng dường để hồi hướng đến cho ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc nhiều đời nhé!

Con cũng chúc thầy một mùa Vu Lan tốt đẹp!

Ừa, ước gì bên Nam Tông cũng có một mùa lễ hội Vu Lan tương tợ như vậy!

Am Mây Tía, Thu Kỷ Sửu, 2009

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

1 - Ai có thì giờ xem “Ngạ quỷ sự” - thì thấy rõ cả hàng trăm, hằng ngàn tội kinh khủng; và “ Địa ngục sự” thì lại càng kinh khiếp hơn nữa - tại sao lại chỉ lấy một “tội treo ngược” mà đặt tên cho Đại lễ thiêng liêng như thế?! 
2- Hầu hết các chữ nghiêng là của người viết, muốn nhấn mạnh
3- “Sic”(tiếng Pháp) thuật ngữ nghiên cứu - Chữ này có nghĩa là trích đúng nguyên văn - thường thì hàm nghĩa, chữ đó, câu đó là của chính tác giả, có thể nên bàn lại hoặc chữ ấy, câu ấy là sai hoặc có thể sai! 
4 - Trong KTNN 399, ngày 10-9-2001. 
5 - Trong bài “ Sự tích Rằm tháng bảy và xuất xứ của hai tiếng Vu Lan” (KTNN 89, 1-8-1992, tr.41-44) 
6 - Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991. 
7 - Tôi nghi là không có Hòa Thượng Minh Châu - vì thầy để tâm suốt đời dịch thuật Nikāya thuộc hệ Theravāda - và, nói chung, Tam Tạng Pāli không hề có lễ Vu Lan theo cách hiểu bấy lâu nay (ý riêng của người viết). 
8 - Ngạ quỷđịa ngục là hai cảnh giới khác nhau - chứ không phải là “ngạ quỷ ở dưới địa ngục” như PHTĐ của Đạo Uyển. 
9 - Xin mượn đoạn An Chi đã trích, Sđd. 
10 - Có một nhà nghiên cứu Phật học uy tín, thông hiểu nhiều cổ ngữ, ngoại ngữ, có thẩm quyền về Hán tạng, có nói rằng: “ Người Việt ta, học Đại Tạng kinh chữ Hán mà không truy cứu Sanskrit thì coi chừng sẽ biến thành Phật Tàu hết!” (Vị ấy không muốn nêu tên). 
11 - Hạ, không phải là mùa hạ - mà phát xuất từ Vassa (P.) chỉ ba tháng an cư mùa mưa. Vậy ngày ra hạ không nhất thiết phải là ngày Rằm tháng bảy - mà tùy thuộc thời tiết của mỗi quốc độ. Ở Trung QuốcViệt Nam đã hình thành được truyền thống Vu Lan tốt đẹp. Bên Nam Tông, nếu có, phải là sau Rằm tháng 9 ÂL hằng năm - 16/9 ÂL đến ngày 16/10 ÂL. 
12 - Tôi vẫn chưa rõ có trường hợp đặc biệt nào nữa hay không! 
13 - Đại ý là: “ Khi (thí chủ) tưởng đến ân nghĩa của ân nhân (cha mẹ bảy đời) đã làm cho họ từ nhiều đời kiếp trước - nên đã bố thí, cúng dường vật thực (hoặc tứ sự) đến cho chúng ta (tức là Tăng). Các người ấy (Petā-ngạ quỷ) đều là quyến thuộc của thí chủ - nên phước báu của sự cúng dường này đều dành cho các ngạ quỷ ấy.(Xét rằng), thí chủ đã làm việc bố thí, cúng dường này một cách chơn chánh, hợp theo giáo pháp (năng thí, vật thí, sở thí đêu thanh tịnh) nên sẽ thành tựu lợi ích lâu dài đến cho các ngạ quỷ...” 
14 - Trung bộ kinh 121; Trung A-hàm 190. 
15 - Trung bộ 122; Trung A-hàm 191. 
16 - Trường bộ kinh 15; Trường A-hàm 13.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15640)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23128)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14119)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13029)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55220)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9251)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14508)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14237)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14256)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13945)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36407)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19958)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18230)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19294)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19217)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20399)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17714)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31620)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15996)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15090)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14762)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46281)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 36032)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21095)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21707)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23481)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34515)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19555)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 19003)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 23001)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20247)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18437)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19924)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19604)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33516)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34663)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54620)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37865)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21215)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17958)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17456)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49780)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27586)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20370)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23109)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18942)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16384)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 18000)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 21024)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17441)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14527)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16927)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16459)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16081)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17563)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22086)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15170)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13550)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14405)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15442)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15061)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12776)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13422)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27471)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12580)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13261)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14528)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16288)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12452)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15481)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12920)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12242)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13251)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21743)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11316)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22816)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15153)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14989)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46272)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22555)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14651)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12685)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18968)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14820)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43961)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57121)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13901)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47596)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13703)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14655)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29089)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33392)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38456)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15450)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31304)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12567)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40517)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43519)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46743)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant