Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Minh sư xuất cao đồ

31 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8627)
Minh sư xuất cao đồ

MINH SƯ XUẤT CAO ÐỒ 

Thích Thông Huệ 

Ngày xưa, có một người thợ mài ngọc tài hoa vào bậc nhất thiên hạ. Ông từng cầm trong tay biết bao trân bảo, nhưng chưa có viên ngọc nào khiến ông thấy toàn vẹn. Hôm nọ, tình cờ ông bắt gặp một viên đá dị thường nằm chơ vơ trong bụi cỏ. Viên đá rất to, lấm lem bùn đất, thô nhám sù sì, nhưng đôi mắt lão luyện của người thợ bậc thầy đã phát hiện ra một báu vật vô giá. Ông vui mừng đem về, trổ hết tài nghệ dũa mài viên đá. Và kết quả vượt ngoài mong đợi, viên đá thô nhám dơ bẩn đã trở thành viên kim cương tuyệt trần, thế gian hiếm thấy. 

Người thợ tài hoa có đôi mắt tinh tường ấy là Ðiều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Viên kim cương là chàng trai trẻ Ðồng Kiên Cương, tức Nhị Tổ Pháp Loa - Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Chuyện bắt đầu từ làng quê Cửu La, gần con sông Nam Sách hiền hòa. Người mẹ có 8 đứa con gái, một đêm nằm mộng thấy dị nhân trao cho cây kiếm thần, từ đó hoài thai. Nhà nghèo lại đông con, nếu chẳng may lại sanh thêm đứa con gái nữa, hóa ra cả nhà là một “bầy vịt giời” như lời nhiếc móc của gia đình chồng ư? Thế nên, người mẹ đành lòng uống thuốc phá thai, không chỉ một lần mà những bốn lần. 

Thuốc không hiệu nghiệm, cậu bé trai - người con thứ 9 sinh ra giữa vòng tay yêu thương của gia đình nội ngoại. Một mùi hương lạ phảng phất khắp nhà khiến ai nấy nhớ lại giấc mộng ngày nào của người mẹ. Vui mừng được “người trời” giáng hạ làm con, xen lẫn nỗi ân hậnmê muội suýt phá vỡ hạnh phúc ngọt ngào, người mẹ siết chặt con vào lòng, tự hứa sẽ cố hết sức mình cho con được sung sướng và nên người hữu dụng. Tên Ðồng Kiên Cương được mẹ âu yếm đặt cho cậu bé. 

Tố chất đặc biệt khác người của cậu bé Kiên Cương bắt dầu lộ ra khi cậu đến tuổi ăn dặm. Ðể con chóng lớn, người mẹ hàng ngày vớt tép, bắt cá về nấu cháo cho con. Lạ lùng làm sao, cậu bé chỉ mới ăn vào vài muỗng cháo là nôn ra kỳ hết. Lần nào cũng thế, khiến mẹ lo lắng hỏi han khắp chỗ. Nghe lời mách bảo, mẹ bắt mấy con cóc về làm thịt, nấu nướng thật ngon. Cháo cóc múc ra, cả nhà xúm lại dỗ dành cậu bé. Muỗng cháo thơm lừng vừa đưa đến gần, cậu bé đã quay mặt đi, khóc thét lên, dỗ thế nào cũng không nín. Mẹ đành gạt nước mắt, đưa con đến thầy lang nổi tiếng trong vùng.

Vị thầy thuốc già chăm chú nghe người mẹ kể lể, xem mạch cậu bé hồi lâu. Ông nhíu mày suy nghĩ, vẻ mặt băn khoăn. Cuối cùng ông phán: 

- Tôi chẳng thấy cháu mắc bệnh gì, nhưng không rõ vì sao cháu không chịu ăn cá thịt, có lẽ cái tạng nó như thế. Thôi thì bà cứ nuôi cháu bằng rau quả xem sao

Thế là, cậu bé ngay từ thời thơ ấu đã có khuynh hướng trường chay. Không những không dùng thịt cá, cậu còn từ chối các gia vị cay nồng, nhất là hành tỏi. Càng lớn lên, cậu càng khôi ngô đỉnh đạc, luôn dùng lời từ ái nói chuyện với bạn bè thân quyến. Trong nhà ngoài xóm đều yêu mến nể nang cậu bé khác người. 

Thời gian thấm thoát trôi qua. Cậu bé Kiên Cương giờ đã trưởng thành. Nhiều nhà ngấm nghé muốn chọn chàng làm rễ quý, nhưng dường như trong mắt chàng chưa có ý trung nhân. Lẽ nào người thanh niên tuấn tú, tràn trề sức sống kia không lúc nào thấy lòng rung động trước hình bóng mỹ nhân? Chàng còn chờ đợi ai, còn kén chọn gì mà 21 tuổi đời vẫn chưa cho dòng họ một mụn con nối dõi? Không có con trai nối dõi tông đường là tội lớn nhất trong ba tội bất hiếu, chàng có biết hay không, mà ngày ngày cứ mãi trầm tư như có điều gì lo nghĩ? 

Cũng trong thời gian ấy, Thượng Hoàng Trần Nhân Tông xuất gia, ở trên non Yên Tử. Ngài thường du hành khắp các miền quê, nhưng không cho quan dân bày nghi lễ đón tiếp, sợ tốn kém sức người sức của. Tuy vậy, vì kính trọngbiết ơn Bậc minh quân đem lại thái bình thịnh trị cho đất nước, nên Ðiều Ngự đến đâu, dân làng tụ họp đông đảo chào mừng đến đó. Ðiều Ngự dạy dân chúng quy y Tam Bảo, giữ ngũ giới tu thập thiện. Những nơi thờ tà thần hay các sinh thực khí đều bị phá bỏ. 

Một ngày đẹp trời, Ðiều Ngự cùng đoàn tùy tùng đến làng Cửu La, quê hương của Kiên Cương. Chàng trai trẻ đang đi xa, tự nhiên thấy nôn nao lạ. Không hiểu có gì hối thúc khiến chàng phải mau bước quay về. Từ xa, chàng đã thấy đoàn người đông đảo bên bờ Nam Sách, đi đầu là các vị hương chức bô lão, vẻ mặt cung kính như lúc làm lễ rước Thành Hoàng. Kế đến, một đoàn tu sĩ áo nâu, từng bước chân thảnh thơi vững chãi. Dẫn đầu nhóm tu sĩ là một vị đầu đà, dung nghi thoát tục, phong thái siêu phàm. Vừa thoạt trông, Kiên Cương bỗng nhiên chấn động, nước mắt tuôn trào. Dường như lần đầu gặp mặt Ðiều Ngự lại là lần tái ngộ sau nhiều năm tháng vắng mặt, là sự kết nối duyên Thầy trò nhiều đời. Hai mươi năm qua, vì đời chàng như con thuyền lênh đênh trên sóng nước, không biết đi về đâu. Hôm nay, con thuyền chàng đã tìm được bến đỗ bình yên, một nơi an trú tuyệt vời. Chàng đến trước mặt Ðiều Ngự, năm vóc gieo xuống đất, tha thiết được xuất gia

Một khoảnh khắc kinh ngạc khiến ai nấy bất động, nhưng sau đó nhiều người tiến đến, định lôi chàng đứng dậy tránh đường. Ðiều Ngự ngăn lại, nói với thị giả

- Ðứa bé nầy có đạo nhãn, ngày sau ắt sẽ thành bậc pháp khí

Ngài ân cần hỏi han tên họ quê quán, rồi cho phép chàng đứng dậy. Tấm lòng Bậc Minh Sư hân hoan vì gặp được đồ đệ vừa ý - một viên ngọc còn trong quặng, nhưng hứa hẹn trở thành trân bảo nếu gặp tay thợ tài hoa. Và chính Ðiều Ngự sẽ là người thợ có bàn tay vàng ấy. Ngài đặt tên chàng là Thiện Lai, cho thọ giới Sa di và gửi chàng đến Quỳnh Quán học đạo cùng Hòa thượng Tánh Giác. 

Sa di Thiện Lai hàng ngày kinh kệ và chấp tác cùng chúng Tăng, nhưng lòng chú không an vì có nhiều thắc mắc chưa giải đáp được. Hòa thượng Tánh Giác đã tận tình chỉ bày cho chú, ân cần trả lời nhiều câu hỏi của chú, nhưng dường như chú còn điều gì đó chưa thông. Một hôm, chú đọc kinh Lăng Nghiêm đến chỗ Thất xứ trưng tâm, hậu khách trần dụ (Bảy lần trình bày tâm, sau cùng đến ví dụ về khách trần), thấy quá lý thú. Xem đi xem lại nhiều lần, chú có chỗ vào nên vội từ giã Hòa thượng Tánh Giác, về tham yết cùng Ðiều Ngự. 

Ðến nơi, gặp lúc Ðiều Ngự đang thăng đường, giảng về bài tụng Ô kê (gà đen) của Thái Dương. Chú ngồi yên, lắng sâu tâm thức. Từng lời của Ðiều Ngự như dòng nước mát rót vào lòng, rửa sạch mọi cấu uế phiền não từ vô thủy kiếp. Chú tỉnh ngộ, đôi mắt sáng ngời nhìn vị Thầy khả kính. Ðiều Ngự trên pháp tòa trông thấy, biết người học trò yêu đã có phần tương ưng, đến lúc cần sử dụng phương tiện thiện xảo

Ngài cho phép Thiện Lai được làm thị giả, sớm hôm hầu hạ, nhưng không chỉ dạy thêm điều gì. Lòng thôi thúc muốn trình kiến giải, chú làm bài tụng Tâm Yếu dâng lên Ðiều Ngự. Tưởng Sư phụ nếu khônglời khen thì ít nhất cũng gật đầu hứa khả, nào ngờ Ngài không nói một lời, cầm bút sổ toẹt vào bài tụng. Ðau khổ, thất vọng chú bước ra khỏi phương trượng, tìm nơi vắng vẻ ngồi suy nghĩ miên man. Vẫn biết mình sở học non nớt, sở ngộ cạn cợt, nhiều nghi vấn chưa giải tỏa tận căn để; Nhưng sao Sư phụ không chỉ đường đi, lại bắt mình mò mẫn trong đêm tối mịt mùng? Vẫn biết Ðiều Ngự làm gì cũng có dụng ý, Ngài đôi khi cũng lộ ra tình cảm khá đặc biệt đối với mình, nhưng sao bây giờ Ngài lại nghiêm khắc lạnh lùng đến thế? 

Ðắm mình trong suy tư rồi tự mình an ủi, có lẽ Sư phụ muốn mình tiến tu hơn nữa. Chú lại hăm hở viết thêm bài tụng thứ hai, tin rằng Ngài sẽ hài lòng, vì bài nầy có kiến giải sâu sắc hơn bài trước. Nhưng buồn thay, Ðiều Ngự chỉ nhìn qua một lượt, rồi lại cầm bút sổ toẹt từ trên xuống dưới. Ngài cũng chẳng có lời nào an ủi, mắt nhìn cũng nghiêm nghị xa xăm. Lần thứ hai, rồi lần thứ ba... không có kết quả gì hơn. Chẳng hiểu thiền sinh Nghĩa Huyền ngày xưa bị Tổ Hoàng Bá đập ba gậy khi hỏi Tổ về Ðại ý Phật pháp, có kinh ngạc đau khổ nhiều bằng Sa di Thiện Lai ngày nay không? Vệt bút đen màu mực sổ thẳng trên bài kệ, như nhát kiếm Thái A cắt nát tâm can chú. Trong đầu chú chỉ còn mỗi câu hỏi “Các bài kệ ấy sai ở chỗ nào?” 

Ðánh liều một lần cuối, chú đắp y chỉnh tề lên đảnh lễ Ðiều Ngự, xin Ngài vì thương mà dạy bảo. Thưa thỉnh ba lần, Ðiều Ngự vẫn một mực lặng thinh. Ðến lần thứ tư, thấy rõ tâm đồ đệ đã quá thiết tha, Ngài mới buông một câu: 

- Của báu nhà mình không từ bên ngoài mà được, hãy tự tham khảo lấy! 

Lê chân trở về liêu phòng, lòng nặng trĩu, chú không còn biết làm gì, nghĩ gì. Mọi kiến thức gom góp từ kinh sách, những lần tỉnh ngộ tưởng đã trực nhận bản tâm... tất cả đều chẳng còn mảy may vương vấn. Một mình đối diện với ngọn đèn dầu lạc hắt hiu, chú không biết thời gian trôi qua bao lâu - một phút giây hay một đời người?... 

Ðã quá nửa đêm, tất cả im ắng, chẳng nghe tiếng côn trùng rả rích, chẳng có tiếng chó sủa đêm. Cơn gió thoảng đầu hè thổi xào xạc, cả ánh sao đêm cũng thôi nhấp nháy. Mọi vật như nín thở đợi chờ giây phút trọng đại. Bỗng dưng, bông đèn tàn rụng xuống tắt ngấm. Bông đèn vụt tắt nhưng tâm vị Sa di trẻ chợt bùng lên ánh sáng nhiệm mầu! Chú hoát nhiên đại ngộ, vội xốc lại y áo, hướng về phương trượng đảnh lễ tạ ơn

Sáng sớm, Sa di Thiện Lai ra mắt Ðiều Ngự vấn an rồi trình chỗ sở ngộ của mình. Ðiều Ngự thầm ấn chứng cho. Lần này, chú được Sư phụ hứa khả vì khi bặt dứt mọi vọng niệm, trí tuệ tự soi chiếu, trí tuệ ấy mới là của báu nhà mình. Từ đó, chú phát nguyện tu hạnh Ðầu đà theo gương Thầy. Thế là, chỉ sau một năm xuất gia, chú Sa di đã nhận ra mặt thật xưa nay. Thời gian về sau, vừa tự lợi vừa lợi tha, đúng là Bậc Pháp khí như lời Ðiều Ngự tiên đoán, trong lần đầu gặp gỡ. 

Năm Thiện Lai được 22 tuổi, Ðiều Ngự cho phép chú thọ giới Tỳ kheoBồ tát giới, ban hiệu là Pháp Loa - Loa lớn tuyên thuyết chánh pháp. Và chỉ ba năm sau, Tỳ kheo Pháp Loa đã được Ðiều Ngự trao truyền Tổ vị. Buổi lễ chính thức truyền y bát, công nhận Tỳ kheo Pháp Loa làm Ðệ nhị Tổ Thiền Tông Trúc Lâm Yên Tử, được tổ chức trọng thể tại chùa Siêu Loại. Vua Anh Tông cùng đông đủ triều thần đến tham dự. Từ đây, vị Tỳ kheo 25 tuổi vừa trưởng dưỡng Thánh thai, vừa gánh vác trọng trách kế thừa tông môn, xiển dương đạo pháp

Trong 22 năm trên ngôi Tổ vị, Thiền sư Pháp Loa đã làm tròn nhiệm vụ một cách xuất sắc. Ngài là người đầu tiên tổ chức Giáo hội Phật giáo một cách có hệ thống, lập sổ bộ Tăng niTự viện trong cả nước. Khả năng của Ngài gồm nhiều lĩnh vực, vừa là một vị Thiền giả có nội chứng, một pháp sư biện tài vô ngại, một bậc giáo phẩm uy nghi; vừa là một học giả trước tác dịch thuật kinh sách; lại vừa là một nhà hoạt động xã hội, nhà kiến trúc xây chùa tạc tượng... Công việc nào cũng được Ngài hoàn thành viên mãn. Bên cạnh đó, Ngài cũng không quên việc lễ Phật, tọa thiền, dù công việc bận rộn đến đâu. Lời phát nguyện chí thành của Ngài thể hiện sự tinh tấn tu hànhlòng từ bi vô hạn đối với chúng sanh: “Chư Phật và chư Bồ tát có những hạnh nguyện gì, con đều tha thiết học hỏi và làm theo. Dù chúng sanh có khen ngợi hay khinh chê, dù bố thí hay xâm đoạt, thì khi gặp mặt hay nghe tên đều xin cứu độ cho tất cả được lên bờ giác”. 

Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ, từ trí thức đến bình dân, từ Tăng ni đến Phật tử. Ngài đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng và phát triển ngôi nhà Phật giáo Ðại Việt nói chung và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng, dù chỉ hiện diện trên cõi đời vỏn vẹn 47 năm. Những gì Ðiều Ngự phó chúc, Nhị Tổ đều thực hiện chu toàn, quả xứng đáng với sự đãi ngộ và tin cậy của Ðiều Ngự. 

* * 

Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, 
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi. 

Viên ngọc thô Ðồng Kiên Cương nhờ tay nghề tài hoa của người thợ bậc thầy Ðiều Ngự dũa mài nhiều phen, mới trở thành viên minh châu hiếm thấy. Nếu không có Minh Sư Ðiều Ngự, làm sao Phật giáo đời Trần có được bậc Cao Ðồ Pháp Loa? Cho nên có thể nói, Nhị Tổ gặp Ðiều Ngự là một phước duyên hãn hữu; ngược lại, Ðiều Ngự có được đồ đệ như Nhị Tổ là một điều đắc ý vào bậc nhất của Ngài. 

Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ 
Phan Rang - Ninh Thuận

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25653)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37867)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19585)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18663)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14257)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20097)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9501)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14369)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35565)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10654)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19702)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23199)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10746)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20215)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10601)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9964)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14877)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17654)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17596)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13186)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31161)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25756)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13980)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17506)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10973)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12289)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10468)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12269)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9614)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12353)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9196)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8492)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9958)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9757)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12030)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14416)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9900)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11206)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8295)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14082)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9906)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15205)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13036)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23076)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23986)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12569)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15425)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17786)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15048)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16550)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16089)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17636)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11590)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11617)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17824)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10780)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10519)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11322)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12078)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11048)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36415)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8960)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9678)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34709)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17261)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10242)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10468)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12197)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13633)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14664)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9149)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24804)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11636)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10315)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15939)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15568)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13003)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14578)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18354)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9570)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18518)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18584)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19016)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13341)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47986)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11065)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13548)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13037)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12552)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31772)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11667)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant