Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Ân Quốc vương

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10300)
10. Ân Quốc vương

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ÂN QUỐC VƯƠNG

Này thiện nam tử! Ân quốc vương là, phúc đức tối thắng, dù sinh ở nhân gian mà được tự tại. Các thiên tử v.v… ở cõi trời Tam Thập Tam thường dùng lực của mình để hộ trì. Trong giới hạn của nước đó, tất cả sơn hà đại địa cho đến đại hải đều thuộc quốc vương. Phúc đức của một người hơn hẳn phúc đức của tất cả chúng sinh

Đây là nói về phúc đức mà vua của một nước đã có. Nhờ cái phúc đó, mới làm vua làm chúa được. Thời đức Phật, chỉ có vua nên đức Phật chỉ nói đến vua. Đây là y vào cái duyên như tiền bạc, đất đai, quyền hành v.v… nhà vua có được so với toàn dân, mà nói lên phúc đức của các vị. Song, không phải chỉ có vua trong một nước, mà ngay cả trong một tập thể nhỏ hơn, từ vị trí của một vị trụ trì cho đến chủ của một gia đình, ai được như thế thì phúc đức của vị ấy so với những người còn lại trong tập thể đó cũng tương tự

Đại thánh vương này dùng chánh pháp giáo hóa, khiến cho chúng sanh đều được an lạc. Thí như ở thế gian, tất cả cung điện nhà cửa đều lấy cột trụ làm nền tảng. Nhân dân thịnh vượng an lạc thì quốc vương là nền tảng, phải nương quốc vương mới có. Cũng như Phạm vương hay sinh vạn vật, quốc vương hay sinh pháp trị quốc làm lợi ích chúng sanh. Như thiên tử mặt trời hay chiếu thế gian, Thánh vương cũng hay quán xét người trong thiên hạ an lạc. Vua nếu không dùng chánh pháp trị nước thì nhân dân không có chỗ nương tựa.

Đây, Phật nói về vai trò quan trọng của một vị minh quân, không phải là một bạo chúa. CHÁNH PHÁP nói đây, vừa chỉ cho những pháp an dân trị quốc, vừa chỉ cho Phật pháp. Vì Phật pháp không phải chỉ có ở mặt xuất thế mà còn có mặt thế gian, là loại giáo pháp giúp con người có được đời sống hạnh phúcthế gian. Như dạy 5 giới cho người tại gia, dạy mở lòng bố thí, giúp đỡ mọi người v.v… chỉ cần người dân trong nước giữ đúng những điều mình đã qui y hay đọc học trong kinh luận, thì xã hội sẽ yên ổn, gia đình sẽ tốt đẹp. Một nghiệp nhân tốt sẽ có một hoàn cảnh y báo hoàn chỉnh.

PHẠM VƯƠNG HAY SINH VẠN VẬT, theo truyền thuyết cổ của Ấn Độ, vào thuở kiếp sơ, Phạm vương từ Quang Âm Thiên[10] hạ sinh, tạo tác ra vạn vật. Phật mượn điển tích này để người thời đó hình dung ra việc quốc vương đặt ra phép nước trị dân, không phải là Phạm vương thực sự là đấng tối thượngquyền năng tạo tác ra muôn loài. Bởi Phạm vương còn từ Quang Âm Thiên sinh ra v.v… Tất cả không lìa nguồn tâm chân thật của chính mình. 

Vua nếu dùng chánh pháp giáo hóa nhân dân thì trong nước không có 8 thứ khủng bố

1. Nước khác xâm chiếm. 
2. Nội loạn.

3. Ma quỉ tật bệnh.

4. Đói khát mất mùa

5. Gió mưa không đúng thời.

6. Gió mưa quá thời. 

7. Nguyệt thực, nhật thực.

8. Tinh tú biến quái.

Nếu quốc vương dùng chánh pháp trị dân thì đất nước không có 8 nạn đó ... 

Đây là cái quả mà một vị Quốc vương biết dùng CHÁNH PHÁP cai trị đất nước. Trong nước nếu có 8 việc đó xảy ra, là do Quốc vương nước đó không biết dùng CHÁNH PHÁP trị nước. Đây là lý do vì sao, ngày xưa, mỗi lần có thiên tai hoạn nạn xảy ra, vua chúa phải ăn chay nằm đất giữ mình thanh tịnh, mở kho bố thí làm phúc v.v… để mưa thuận gió hòa, tai ương giảm bớt. Vì hoàn cảnh bên ngoài biểu hiện cho cái nhân bên trong. Vạn pháp không ngoài nhất tâm. Tam giới chỉ do thức biến. Làm phúc, làm thiện, tu nhân, tích đức chính là dùng cái duyên hiện đời, làm giảm bớt cái nhân không tốt đã gieo trong quá khứ. Như mầm lúa gieo xuống không được tốt, giờ phải dùng thêm phân bón, nước, công chăm sóc v.v… để nó đỡ xấu hơn.

Kinh Đại Tập nói “Trong một quốc gia nếu vua chúa biết kính phụng Tam bảo, thì trong nước đó có ba loại tinh khí tăng trưởng : Một, địa khí tăng trưởng, nên ngũ cốc được mùa. Hai, nhân khí tăng trưởng, nên dân trong nước đó ít có phiền não, dung mạo tươi nhuận. Ba, thiện căn khí tăng trưởng, nên trong nước thường hay chuyển bánh xe pháp, Tam bảo tăng thịnh”. Quốc vương biết cung phụng Tam bảo sẽ được ba quả phúc. Tam bảo nói đây không phải chỉ có chùa chiền, tượng Phật, Tăng Ni v.v… là đủ, mà phải là Tăng Ni tu theo chánh pháp. Trong phần Ân Tam bảo, Phật phân tích rõ về 4 loại tăng được gọi là Tăng bảo

Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Đã có tâm kính phụng Tam bảo, tức tâm của quốc vương đã sẵn có mầm thiện trong quá khứ. Mầm thiện đó không phải chỉ xuất phát từ những điều thiện bình thường trong cuộc sống mà có liên quan đến Tam bảo, do sự cung kính trong hiện tại trợ duyên mà trổ quả tươi tốt.

1. Địa khí tăng trưởng : Cái phúc đầu tiên là được mùa. Không phải chỉ được mùa, mà với tất cả mọi công việc có liên quan đến thiên nhiên, thứ gì cũng dễ sung mãn thành tựu khi quốc vương là một bậc minh quân. Đây là cái lợi rất lớn đối với một quốc gia. Như hiện nay, mỗi lần thiên tai dịch bệnh xảy ra như cúm gà, lụt lội, thiên tai v.v… Ngân khố quốc gia hao hụt tổn thất không phải ít. Thay vì có thể thu thuế trên phần lợi nhuận đó, giờ lại phải mở kho cứu trợ v.v… Tức không chỉ mất đi cái lợi trong hiện tại mà còn phải chịu nhiều thiệt hại. Người dân nếu đồng lòng, tương thân tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, là quả phúc của quốc gia

2. Nhân khí tăng trưởng : Vua phúc đức, tức biết dùng chánh pháp cai trị đất nước, lại thêm mùa màng được mùa, thành nhân dân trong nước an cư lạc nghiệp, no ấm, tinh thần thoải mái, đương nhiên dung mạo phải tươi tắn, phiền não giảm thiểu

Tuy phúc đức của một vị vua lớn hơn cả toàn dân, nhưng mọi việc xảy ra trong đất nước đều có nhân duyên liên hệ. Vua có phúc đức của vua, dân cũng có phúc đức của dân. Nạn tai cũng vậy. Nếu trong một đất nước, mà người dân không gặp được minh quân, một phần là do chính phước nghiệp của người dân. Cái nhân mình gieo trong quá khứ không tốt, nên mới gặp phải sự cố như vậy. Thành có khi trong một nước, cùng một bộ máy chính quyền, mà người thì đụng đâu cũng gặp phiền não, người thì không sao. Đó là ngoài nghiệp báo chung còn có nghiệp riêng. Như việc qui hoạch đất đai trước đây, luật lệ khiến người dân bị thiệt thòi, đủ thứ tệ nạn xảy ra … người dân không khỏi bức xúc. Nhưng bây giờ mọi thứ đổi khác, luật lệ rõ ràng, mọi thứ phân xử công minh, dân tình yên lòng với chính sách mới. Những việc như thế không hẳn chỉ nằm ở bộ máy chính quyền, mà nó bị chi phối một phần do nghiệp báo của người dân. 

3. Thiện căn khí tăng trưởng : Được biểu hiện qua việc Tam bảo tăng thịnh. Tam bảo tăng thịnh là một trong các điềm báo cho thấy thiện căn ở đất nước đó đang phát triển. Thiện căn là cái nhân cho ra một hoàn cảnh tốt. Đất nước không bị khủng bố, không có thiên tai v.v… Nói Tam bảo, thì hơi hạn cuộc cục bộ, nhưng thật là nói đến bất cứ những hình thức nào có khuynh hướng thiện. Vì nếu đúng là Phật Pháp Tăng bảo, thì mục đích của nó cũng là giúp mọi người phát triển thiện nhân của chính mình. CHUYỂN BÁNH XE PHÁP là muốn nói đến những hình thức giúp mọi người phát triển mầm thiện mình đang có, như thuyết pháp v.v… 

Như vậy, đại vương khiến mọi người tu thập thiện gọi là ông vua phúc đức. Không khiến mọi người tu thập thiện gọi là vua không phúc đức. Vì sao? Vì trong nước của vua đó, một người tu thiện, thì việc phúc đó chia làm 7 phần. Người tạo thiện được 5 phần. Quốc vương được 2 phần. Nếu tạo ác nghiệp cũng lại như vậy. Tất cả điền địa vườn rừng cho đến các vật sinh sôi nẩy nở trong đó, đều chia thành 7 phần như thế. 

Đây là nói lên mối liên hệ giữa vị quốc vương và thần dân. Trách nhiệm của vị lãnh đạo quốc gia rất lớn, vì ông nắm vận mạng của đất nước và thần dân trong nước ông. Mọi quyết định của ông đa phần người dân phải tuân theo, thành phước cũng như họa, trong 7 phần của người dân, ông có 2 phần trong đó.

THẬP THIỆN có 10 việc, trong đó có 5 giới của người tại gia. Giới KHÔNG NÓI DỐI được khai triển thành 4, thêm không THAM DỤC, không SÂN NHUẾ và không TÀ KIẾN. Không có giới uống rượu. Tuy giới uống rượu không được nhắc đến, nhưng nó là giới tối thiểu mà một Phật tử tại gia đã phải giữ. Rượu chính là cái nhân để có cái quả là tà kiến. Vì thế tuy không nói, nhưng vẫn phải giữ.

TÀ KIẾN là chỉ cho những cái thấy thiên lệch, không đúng với qui luật đang chi phối thế gian này. Không tin có nhân quả, gọi là tà kiến. Không biết về nhân duyên gọi là tà kiến. Thấy cuộc đời này hoàn toàn thật, là tà kiến. Thấy cuộc đời này hoàn toàn không, cũng tà kiến. Thấy cuộc đời này thứ gì cũng có thể thay đổi là tà kiến. Thấy cuộc đời này như một định mệnh đã được định sẵn không thể thay đổi, cũng là tà kiến v.v… 

Tổ Trúc Lâm khi còn tại ngôi luôn được ca tụng là một vị vua anh minh, quyết đoán. “Tư tưởng triết học của ông là tinh thần thực tiễn chiến đấu và táo bạo… Thể hiện đầy đủ trí tuệ và bản lĩnh của người Việt Nam”.[11] Chẳng qua vì Tổ vận dụng được mặt tùy duyên của vạn pháp – là cốt lõi thâm sâu của Phật pháp – vào đời sống nhân sinh. Không có mặt xuất thế ấy, phần thế gian khó mà hoàn chỉnh. 

Sau ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng. Được 6 năm, ngài sắp đặt việc xuất gia, chuyên cần tu tập hạnh đầu đà, cất chùa độ tăng, dạo khắp dân gian khuyên dân dẹp bỏ những nơi thờ tự không chánh đáng và dạy họ tu Thập thiện

Vua Anh Tông thường hay uống rượu. Một hôm, uống say đến nổi Nhân Tông từ Thiên Trường về mà không hay biết. Các quan đều ra đón, chỉ Anh Tông là còn xỉn. Thượng Hoàng liền truyền xa giá trở lại Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đó hội nghị. Anh Tông tỉnh rượu nghe tin, sợ quá, tức tốc lên ngựa chạy về. Ra khỏi cung thì gặp người học trò tên Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo một bài biểu để tạ tội, rồi cùng xuống thuyền đi suốt đêm đến Thiên Trường, tạ tội cùng Nhân Tôn. Nhân Tôn xem biểu, quở mắng một hồi rồi tha thứ. Từ đó, Anh Tôn không bao giờ uống rượu.

Cha không những có trí mà còn có cái uy của cha. Con không những có hiếu mà còn biết cái lỗi của mình. Là cái gương để người đời kính phục, là cái nhân để nước vững, dân an. Chỉ một việc uống rượu, đã bị ngăn cấm triệt để, huống là những chuyện hại nước hại dân, làm sao có điều kiện phát triển? Chủ một đất nước như thế, chủ một gia đình cũng như thế, thì thế giới này vô sự bình an. Thành triều đại nhà Trần được xem là triều đại vàng son nhất trong các triều đại, từ việc giữ nước cho đến việc xây dựng đất nước. 

Nếu có nhân vương thành tựu chánh kiến, như phápgiáo hóa thế gian, thì gọi là Thiên chủ, vì dùng thiện pháp của chư thiên giáo hóa thế gian... Chư Thiên, thiện thần và kẻ hộ niệm thế vương thường đến gia hộ để giữ vương cung. Dù ở nhân gian mà tu thiên nghiệp, tâm thưởng phạt không thiên lệch bè phái. Tất cả pháp của thánh vương đều như thế. Thánh chủ như thế gọi là chánh pháp vương. Đây là phần âm đức mà một vị minh quân có được. Tâm thiên lệch bè phái là cái họa rất lớn cho đất nước.

Do các nhân duyên đó, thành tựu 10 đức : 

1. Dùng mắt trí tuệ soi chiếu thế gian

2. Dùng đại phúc trí trang nghiêm đất nước.chánh kiến là TRÍ, thì nhìn pháp nào đúng pháp đó, tiến thoái đúng lúc, việc làm nhất định thành công. Có phúc đức thì họa hoạn tai ương giảm thiểu, may mắn thêm nhiều, là trợ duyên tốt cho việc điều hành đất nước thêm mỹ mãn.

3. Dùng đại an lạc ban cho nhân dân

4. Tất cả oán địch tự nhiên hàng phục. Phúc đức có được là từ cái nhân không hại ai. Không gieo nhân thì không gặt quả. Tự dưng người gặp liền sinh tâm kính phục, người gặp liền sinh tâm giúp đỡ. 

5. Lìa sợ hãi, vì không có khủng bố và 8 nạn.
6. Chiêu tập người hiền bình quốc sự.

7. Làm chỗ an tựa cho bá tánh 

8. Dùng pháp thiên vương gìn giữ thế gian

9. Chủ nghiệp thiện ác. Hình thức thưởng phát, luật lệ v.v… của Quốc vương ban hành, có liên quan đến hành động thiện ác của người dân, nên nói vua là chủ các nghiệp thiện ác. Như việc cúng kiến nhớ ơn những người đi trước. Nếu vua ban hành cấm, thì người dân muốn làm cũng chỉ vài người hay vài chục người lén lút, không thể thành một phong trào, ảnh hưởng lớn đến tinh thần của mọi người trong cả nước. Nhưng nếu việc đó được khuyến khích, trở thành nghi lễ hàng năm v.v… là tạo cho người dân gieo cái nhân báo ân, sẽ có cái quả tốt đẹp trong tương lai. 

Nghiệp thiện như vậy, thì nghiệp ác cũng như vậy. Vấn đề mại dâm, dù là việc không thể hết sạch trong một quốc gia, nhưng nếu nhà nước cấm, thì nó không thể phát triển rộng rãi, người dân cũng không thể thoải mái xem nó như việc hiển nhiên mà gây ác nhân thoải mái... 

Vấn đề tôn giáo cũng vậy, nếu quốc vương giúp phát triển chánh pháp, hạn chế tà pháp chính là hạn chế nghiệp ác, củng cố nghiệp thiện cho người dân. Quả báo tương lai sẽ tốt đẹp. Ngược lại, để cho tà pháp ngự trị thế gian thì hiện đời ngoài việc làm tổn hại sự tiến lên của đất nước, phần âm đức của quốc vương cũng bị tổn hại. Việc này đòi hỏi quốc vương phải có trí tuệ sáng suốt, nắm vững nhân quả, phân định rõ ràng thứ gì chánh thứ gì tà. Thành, những vị quốc vương có phần âm đức lớn, trong việc dựng nước và giữ nước thường được các vị thiền sư hộ trì, như Lý Công Uẩn có thiền sư Vạn Hạnh v.v… 

10. Chủ của tất cả nhân dân. Quốc vương là kẻ đứng đầu, nắm vận mệnh đất nước, là chỗ y tựa của muôn dân, nên nói CHỦ. 

Tất cả các quốc độ đều do phúc đời trước mà thành tựu 10 loại thắng đức như vậy. Đại Phạm Thiên Vương cùng với Đao Lợi Thiên thường trợ cho nhân vương hưởng được các thứ vui thú vi diệu. Các La sát vương cùng với các thần v.v… tuy không hiện thân, vẫn ngầm hộ vệ quốc vươngquyến thuộc. Vua thấy nhân dân tạo các ác nghiệp mà không chế chỉ thì chư thiên, thần v.v… thảy đều xa lìa. Nếu thấy vua làm phước tu thiện, các vị hoan hỉ tán thán, thảy đều xướng lên “Thánh vương của ta. Trời rồng vui thích. Rưới mưa cam lộ. Ngũ cốc được mùa. Nhân dân thịnh lạc”. Những việc Phật nêu trên là cái quả của một cái nhân đã có từ trước. Nhân quả tồn tại trong ba đời, không dứt khoát chính xác một thời điểm nào, nhưng hễ có NHÂN, đủ DUYÊN là có QUẢ. Có những việc trong hiện đời mình thấy như nhân quả sai lệch, nhưng chẳng qua vì nhân quả xảy ra đến ba thời, không phải sai lệch. Song cứ thấy quả xấu, là biết cái nhân mình gieo trong quá khứ không tốt. Quá khứ nói đây có thể là đời này cũng có thể là từ nhiều đời trước, không cố định. Nhưng đã có quả tức phải có nhân. Vì với nghiệp thức của chúng sanh hiện nay thì nhân không thể có sau quả. 

Nếu không thân gần người ác, lợi ích khắp cả thế gian đều từ chánh hóa, thì bảo châu như ý nhất định sẽ hiện trong vương quốc. Các vua lận cận đều đến qui phục. Nhân cùng phi nhân thảy đều xưng tán. BẢO CHÂU NHƯ Ý nói đây là chỉ cho những thứ khiến đất nước thịnh vượng như tài nguyên thiên nhiên v.v… Đủ phúc đức thì mọi thứ sung mãn. Thiếu phúc đức thì mọi thứ cạn kiệt suy yếu. Đủ phúc đức thì các nước chung quanh qui phục. Thiếu phúc đức thì “bảo châu như ý” là cái mầm của họa hoạn. Cho nên, quả của cái phúc ở quá khứ, phải luôn được bảo tồn bằng cái nhân đức thiện trong hiện đời, thì đời sống mới luôn tốt đẹp

Nếu có người ác, ở nơi vương quốc đó, mà sanh nghịch tâm, thì chỉ trong khoảng tích tắc, phúc tự hủy diệt. Mệnh chung thường đọa địa ngục, trải qua súc sanh thọ đủ các khổ. Vì sao? Do không biết ân đối với thánh vương, khởi các ác nghịch phải chịu quả báo như vậy. Nếu là người dân hay hành thiện tâm, cung kính ủng hộ nhân vương, tôn trọng như Phật, người ấy hiện đời sẽ được an ổn, thịnh vượng, vui vẻ, tất cả nguyện cầu đều được ưng ý.

Đây là cái quả của việc không biết ân đối với một vị minh quân

Hoàn cảnh của con người là do nhân thiện ác mình đã gây ra trong quá khứ mà ra, nên có khi đúng là một vị minh quân, mà tới duyên của mình, mọi thứ lại thành xấu. Chẳng qua là do duyên nghiệp của mình, không hẳn vị quốc vương đó đã xấu. Nếu ông ta xấu thì không thể khiến đất nước phồn vinh. Thành dù với mình, có những thứ không được thuận chiều, nhưng nhìn chung, đất nước phát triển, người dân ấm no, xã hội yên bình, thì Phật khuyên nên biết báo ân, đừng sanh nghịch tâm. Nghịch tâm như thế là mình đang tự hủy diệt chính mình. Vì sao? Vì hiện tại, ngoài việc tự rước phiền não vào thân, có khi chỉ vì một chút không tỉnh, nghe chúng đốc vô đốc ra phù hợp với cái tâm bất mãn của mình, nhúng tay vào những việc không đâu, rồi sinh tù tội, tử hình. Chỉ thiệt cho bản thân chứ không ích gì. 

Duyên hiện tại đã xấu mà tương lai, Phật nói còn phải thọ 3 đường khổ. Đó là do cái phúc của mình không đối đầu nổi cái phúc của người. Cái phúc của người là cái phúc lo cho toàn dân. Chịu đủ mọi thứ phiền não lo lắng mới khiến người dân được no ấm. Phải đối đầu với các nước chung quanh để nước nhà được yên ổn không bị khủng bố. Biết bao sự lao tâm khổ trí chỉ vì sự no ấm của muôn người. Mình không có được cái phúc đó, mà còn sinh tâm nghịch thuận thì quả khổ không thể tránh khỏi

Cái phúc của người trong hiện đời đó, đủ để mình đọa địa ngục, chưa kể phần âm đức mà ông ta đã gieo trong quá khứ. Phật nói : Tất cả quốc vương, vào thời quá khứ, từng thọ cấm giới thanh tịnh của Như Lai, thường làm nhân vương an ổn khoái lạc. Do nhân duyên đó, quả báo nghịch thuận đều theo hưởng ứng. Ân đức thánh vương rộng lớn như thế. Cho nên, chỉ nên sinh tâm biết ân, không nên sinh tâm nghịch thuận. Nhà thiền dạy thiền sinh những câu rất hay “Phản quan tự kỷ bổn phận sự”. Chiếu soi lại mình là bổn phận chính. Nhờ đó không hướng ra ngoài phê phán nên không tổn âm đức. Chỉ là “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ”. Có gì không vừa lòng thì phải biết một phần là do duyên nghiệp của mình. Thôi thì yên lòng với những gì không vừa lòng cho nghiệp cũ tiêu đi. Chú tâm tu tâm dưỡng tánh của mình, lo hành phúc thiện thì nghiệp cũ sẽ tiêu, quả tốt sẽ có. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11387)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11550)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13542)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14123)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10307)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10771)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11325)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11276)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11437)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10169)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9968)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10705)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11316)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42200)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10484)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11862)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10008)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10452)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10617)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45756)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32109)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11322)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10701)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11319)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10630)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13457)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12373)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11019)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10617)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12310)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11167)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11844)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29272)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9215)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10539)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10235)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10582)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10910)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10804)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32132)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27389)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17783)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11868)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12286)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10442)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11697)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10427)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10784)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10149)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10282)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10647)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10767)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11221)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10401)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11473)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18250)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10521)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12846)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11751)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29181)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28585)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28298)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13317)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22773)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13431)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11577)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13813)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25717)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26078)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22307)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14480)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11803)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11689)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11485)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33183)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12029)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22481)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11956)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14227)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13346)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12070)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10393)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11229)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13307)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12620)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12226)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13529)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12620)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12979)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16298)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11744)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27389)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28428)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant