Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Ân Quốc vương

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10275)
10. Ân Quốc vương

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ÂN QUỐC VƯƠNG

Này thiện nam tử! Ân quốc vương là, phúc đức tối thắng, dù sinh ở nhân gian mà được tự tại. Các thiên tử v.v… ở cõi trời Tam Thập Tam thường dùng lực của mình để hộ trì. Trong giới hạn của nước đó, tất cả sơn hà đại địa cho đến đại hải đều thuộc quốc vương. Phúc đức của một người hơn hẳn phúc đức của tất cả chúng sinh

Đây là nói về phúc đức mà vua của một nước đã có. Nhờ cái phúc đó, mới làm vua làm chúa được. Thời đức Phật, chỉ có vua nên đức Phật chỉ nói đến vua. Đây là y vào cái duyên như tiền bạc, đất đai, quyền hành v.v… nhà vua có được so với toàn dân, mà nói lên phúc đức của các vị. Song, không phải chỉ có vua trong một nước, mà ngay cả trong một tập thể nhỏ hơn, từ vị trí của một vị trụ trì cho đến chủ của một gia đình, ai được như thế thì phúc đức của vị ấy so với những người còn lại trong tập thể đó cũng tương tự

Đại thánh vương này dùng chánh pháp giáo hóa, khiến cho chúng sanh đều được an lạc. Thí như ở thế gian, tất cả cung điện nhà cửa đều lấy cột trụ làm nền tảng. Nhân dân thịnh vượng an lạc thì quốc vương là nền tảng, phải nương quốc vương mới có. Cũng như Phạm vương hay sinh vạn vật, quốc vương hay sinh pháp trị quốc làm lợi ích chúng sanh. Như thiên tử mặt trời hay chiếu thế gian, Thánh vương cũng hay quán xét người trong thiên hạ an lạc. Vua nếu không dùng chánh pháp trị nước thì nhân dân không có chỗ nương tựa.

Đây, Phật nói về vai trò quan trọng của một vị minh quân, không phải là một bạo chúa. CHÁNH PHÁP nói đây, vừa chỉ cho những pháp an dân trị quốc, vừa chỉ cho Phật pháp. Vì Phật pháp không phải chỉ có ở mặt xuất thế mà còn có mặt thế gian, là loại giáo pháp giúp con người có được đời sống hạnh phúcthế gian. Như dạy 5 giới cho người tại gia, dạy mở lòng bố thí, giúp đỡ mọi người v.v… chỉ cần người dân trong nước giữ đúng những điều mình đã qui y hay đọc học trong kinh luận, thì xã hội sẽ yên ổn, gia đình sẽ tốt đẹp. Một nghiệp nhân tốt sẽ có một hoàn cảnh y báo hoàn chỉnh.

PHẠM VƯƠNG HAY SINH VẠN VẬT, theo truyền thuyết cổ của Ấn Độ, vào thuở kiếp sơ, Phạm vương từ Quang Âm Thiên[10] hạ sinh, tạo tác ra vạn vật. Phật mượn điển tích này để người thời đó hình dung ra việc quốc vương đặt ra phép nước trị dân, không phải là Phạm vương thực sự là đấng tối thượngquyền năng tạo tác ra muôn loài. Bởi Phạm vương còn từ Quang Âm Thiên sinh ra v.v… Tất cả không lìa nguồn tâm chân thật của chính mình. 

Vua nếu dùng chánh pháp giáo hóa nhân dân thì trong nước không có 8 thứ khủng bố

1. Nước khác xâm chiếm. 
2. Nội loạn.

3. Ma quỉ tật bệnh.

4. Đói khát mất mùa

5. Gió mưa không đúng thời.

6. Gió mưa quá thời. 

7. Nguyệt thực, nhật thực.

8. Tinh tú biến quái.

Nếu quốc vương dùng chánh pháp trị dân thì đất nước không có 8 nạn đó ... 

Đây là cái quả mà một vị Quốc vương biết dùng CHÁNH PHÁP cai trị đất nước. Trong nước nếu có 8 việc đó xảy ra, là do Quốc vương nước đó không biết dùng CHÁNH PHÁP trị nước. Đây là lý do vì sao, ngày xưa, mỗi lần có thiên tai hoạn nạn xảy ra, vua chúa phải ăn chay nằm đất giữ mình thanh tịnh, mở kho bố thí làm phúc v.v… để mưa thuận gió hòa, tai ương giảm bớt. Vì hoàn cảnh bên ngoài biểu hiện cho cái nhân bên trong. Vạn pháp không ngoài nhất tâm. Tam giới chỉ do thức biến. Làm phúc, làm thiện, tu nhân, tích đức chính là dùng cái duyên hiện đời, làm giảm bớt cái nhân không tốt đã gieo trong quá khứ. Như mầm lúa gieo xuống không được tốt, giờ phải dùng thêm phân bón, nước, công chăm sóc v.v… để nó đỡ xấu hơn.

Kinh Đại Tập nói “Trong một quốc gia nếu vua chúa biết kính phụng Tam bảo, thì trong nước đó có ba loại tinh khí tăng trưởng : Một, địa khí tăng trưởng, nên ngũ cốc được mùa. Hai, nhân khí tăng trưởng, nên dân trong nước đó ít có phiền não, dung mạo tươi nhuận. Ba, thiện căn khí tăng trưởng, nên trong nước thường hay chuyển bánh xe pháp, Tam bảo tăng thịnh”. Quốc vương biết cung phụng Tam bảo sẽ được ba quả phúc. Tam bảo nói đây không phải chỉ có chùa chiền, tượng Phật, Tăng Ni v.v… là đủ, mà phải là Tăng Ni tu theo chánh pháp. Trong phần Ân Tam bảo, Phật phân tích rõ về 4 loại tăng được gọi là Tăng bảo

Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Đã có tâm kính phụng Tam bảo, tức tâm của quốc vương đã sẵn có mầm thiện trong quá khứ. Mầm thiện đó không phải chỉ xuất phát từ những điều thiện bình thường trong cuộc sống mà có liên quan đến Tam bảo, do sự cung kính trong hiện tại trợ duyên mà trổ quả tươi tốt.

1. Địa khí tăng trưởng : Cái phúc đầu tiên là được mùa. Không phải chỉ được mùa, mà với tất cả mọi công việc có liên quan đến thiên nhiên, thứ gì cũng dễ sung mãn thành tựu khi quốc vương là một bậc minh quân. Đây là cái lợi rất lớn đối với một quốc gia. Như hiện nay, mỗi lần thiên tai dịch bệnh xảy ra như cúm gà, lụt lội, thiên tai v.v… Ngân khố quốc gia hao hụt tổn thất không phải ít. Thay vì có thể thu thuế trên phần lợi nhuận đó, giờ lại phải mở kho cứu trợ v.v… Tức không chỉ mất đi cái lợi trong hiện tại mà còn phải chịu nhiều thiệt hại. Người dân nếu đồng lòng, tương thân tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, là quả phúc của quốc gia

2. Nhân khí tăng trưởng : Vua phúc đức, tức biết dùng chánh pháp cai trị đất nước, lại thêm mùa màng được mùa, thành nhân dân trong nước an cư lạc nghiệp, no ấm, tinh thần thoải mái, đương nhiên dung mạo phải tươi tắn, phiền não giảm thiểu

Tuy phúc đức của một vị vua lớn hơn cả toàn dân, nhưng mọi việc xảy ra trong đất nước đều có nhân duyên liên hệ. Vua có phúc đức của vua, dân cũng có phúc đức của dân. Nạn tai cũng vậy. Nếu trong một đất nước, mà người dân không gặp được minh quân, một phần là do chính phước nghiệp của người dân. Cái nhân mình gieo trong quá khứ không tốt, nên mới gặp phải sự cố như vậy. Thành có khi trong một nước, cùng một bộ máy chính quyền, mà người thì đụng đâu cũng gặp phiền não, người thì không sao. Đó là ngoài nghiệp báo chung còn có nghiệp riêng. Như việc qui hoạch đất đai trước đây, luật lệ khiến người dân bị thiệt thòi, đủ thứ tệ nạn xảy ra … người dân không khỏi bức xúc. Nhưng bây giờ mọi thứ đổi khác, luật lệ rõ ràng, mọi thứ phân xử công minh, dân tình yên lòng với chính sách mới. Những việc như thế không hẳn chỉ nằm ở bộ máy chính quyền, mà nó bị chi phối một phần do nghiệp báo của người dân. 

3. Thiện căn khí tăng trưởng : Được biểu hiện qua việc Tam bảo tăng thịnh. Tam bảo tăng thịnh là một trong các điềm báo cho thấy thiện căn ở đất nước đó đang phát triển. Thiện căn là cái nhân cho ra một hoàn cảnh tốt. Đất nước không bị khủng bố, không có thiên tai v.v… Nói Tam bảo, thì hơi hạn cuộc cục bộ, nhưng thật là nói đến bất cứ những hình thức nào có khuynh hướng thiện. Vì nếu đúng là Phật Pháp Tăng bảo, thì mục đích của nó cũng là giúp mọi người phát triển thiện nhân của chính mình. CHUYỂN BÁNH XE PHÁP là muốn nói đến những hình thức giúp mọi người phát triển mầm thiện mình đang có, như thuyết pháp v.v… 

Như vậy, đại vương khiến mọi người tu thập thiện gọi là ông vua phúc đức. Không khiến mọi người tu thập thiện gọi là vua không phúc đức. Vì sao? Vì trong nước của vua đó, một người tu thiện, thì việc phúc đó chia làm 7 phần. Người tạo thiện được 5 phần. Quốc vương được 2 phần. Nếu tạo ác nghiệp cũng lại như vậy. Tất cả điền địa vườn rừng cho đến các vật sinh sôi nẩy nở trong đó, đều chia thành 7 phần như thế. 

Đây là nói lên mối liên hệ giữa vị quốc vương và thần dân. Trách nhiệm của vị lãnh đạo quốc gia rất lớn, vì ông nắm vận mạng của đất nước và thần dân trong nước ông. Mọi quyết định của ông đa phần người dân phải tuân theo, thành phước cũng như họa, trong 7 phần của người dân, ông có 2 phần trong đó.

THẬP THIỆN có 10 việc, trong đó có 5 giới của người tại gia. Giới KHÔNG NÓI DỐI được khai triển thành 4, thêm không THAM DỤC, không SÂN NHUẾ và không TÀ KIẾN. Không có giới uống rượu. Tuy giới uống rượu không được nhắc đến, nhưng nó là giới tối thiểu mà một Phật tử tại gia đã phải giữ. Rượu chính là cái nhân để có cái quả là tà kiến. Vì thế tuy không nói, nhưng vẫn phải giữ.

TÀ KIẾN là chỉ cho những cái thấy thiên lệch, không đúng với qui luật đang chi phối thế gian này. Không tin có nhân quả, gọi là tà kiến. Không biết về nhân duyên gọi là tà kiến. Thấy cuộc đời này hoàn toàn thật, là tà kiến. Thấy cuộc đời này hoàn toàn không, cũng tà kiến. Thấy cuộc đời này thứ gì cũng có thể thay đổi là tà kiến. Thấy cuộc đời này như một định mệnh đã được định sẵn không thể thay đổi, cũng là tà kiến v.v… 

Tổ Trúc Lâm khi còn tại ngôi luôn được ca tụng là một vị vua anh minh, quyết đoán. “Tư tưởng triết học của ông là tinh thần thực tiễn chiến đấu và táo bạo… Thể hiện đầy đủ trí tuệ và bản lĩnh của người Việt Nam”.[11] Chẳng qua vì Tổ vận dụng được mặt tùy duyên của vạn pháp – là cốt lõi thâm sâu của Phật pháp – vào đời sống nhân sinh. Không có mặt xuất thế ấy, phần thế gian khó mà hoàn chỉnh. 

Sau ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng. Được 6 năm, ngài sắp đặt việc xuất gia, chuyên cần tu tập hạnh đầu đà, cất chùa độ tăng, dạo khắp dân gian khuyên dân dẹp bỏ những nơi thờ tự không chánh đáng và dạy họ tu Thập thiện

Vua Anh Tông thường hay uống rượu. Một hôm, uống say đến nổi Nhân Tông từ Thiên Trường về mà không hay biết. Các quan đều ra đón, chỉ Anh Tông là còn xỉn. Thượng Hoàng liền truyền xa giá trở lại Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đó hội nghị. Anh Tông tỉnh rượu nghe tin, sợ quá, tức tốc lên ngựa chạy về. Ra khỏi cung thì gặp người học trò tên Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo một bài biểu để tạ tội, rồi cùng xuống thuyền đi suốt đêm đến Thiên Trường, tạ tội cùng Nhân Tôn. Nhân Tôn xem biểu, quở mắng một hồi rồi tha thứ. Từ đó, Anh Tôn không bao giờ uống rượu.

Cha không những có trí mà còn có cái uy của cha. Con không những có hiếu mà còn biết cái lỗi của mình. Là cái gương để người đời kính phục, là cái nhân để nước vững, dân an. Chỉ một việc uống rượu, đã bị ngăn cấm triệt để, huống là những chuyện hại nước hại dân, làm sao có điều kiện phát triển? Chủ một đất nước như thế, chủ một gia đình cũng như thế, thì thế giới này vô sự bình an. Thành triều đại nhà Trần được xem là triều đại vàng son nhất trong các triều đại, từ việc giữ nước cho đến việc xây dựng đất nước. 

Nếu có nhân vương thành tựu chánh kiến, như phápgiáo hóa thế gian, thì gọi là Thiên chủ, vì dùng thiện pháp của chư thiên giáo hóa thế gian... Chư Thiên, thiện thần và kẻ hộ niệm thế vương thường đến gia hộ để giữ vương cung. Dù ở nhân gian mà tu thiên nghiệp, tâm thưởng phạt không thiên lệch bè phái. Tất cả pháp của thánh vương đều như thế. Thánh chủ như thế gọi là chánh pháp vương. Đây là phần âm đức mà một vị minh quân có được. Tâm thiên lệch bè phái là cái họa rất lớn cho đất nước.

Do các nhân duyên đó, thành tựu 10 đức : 

1. Dùng mắt trí tuệ soi chiếu thế gian

2. Dùng đại phúc trí trang nghiêm đất nước.chánh kiến là TRÍ, thì nhìn pháp nào đúng pháp đó, tiến thoái đúng lúc, việc làm nhất định thành công. Có phúc đức thì họa hoạn tai ương giảm thiểu, may mắn thêm nhiều, là trợ duyên tốt cho việc điều hành đất nước thêm mỹ mãn.

3. Dùng đại an lạc ban cho nhân dân

4. Tất cả oán địch tự nhiên hàng phục. Phúc đức có được là từ cái nhân không hại ai. Không gieo nhân thì không gặt quả. Tự dưng người gặp liền sinh tâm kính phục, người gặp liền sinh tâm giúp đỡ. 

5. Lìa sợ hãi, vì không có khủng bố và 8 nạn.
6. Chiêu tập người hiền bình quốc sự.

7. Làm chỗ an tựa cho bá tánh 

8. Dùng pháp thiên vương gìn giữ thế gian

9. Chủ nghiệp thiện ác. Hình thức thưởng phát, luật lệ v.v… của Quốc vương ban hành, có liên quan đến hành động thiện ác của người dân, nên nói vua là chủ các nghiệp thiện ác. Như việc cúng kiến nhớ ơn những người đi trước. Nếu vua ban hành cấm, thì người dân muốn làm cũng chỉ vài người hay vài chục người lén lút, không thể thành một phong trào, ảnh hưởng lớn đến tinh thần của mọi người trong cả nước. Nhưng nếu việc đó được khuyến khích, trở thành nghi lễ hàng năm v.v… là tạo cho người dân gieo cái nhân báo ân, sẽ có cái quả tốt đẹp trong tương lai. 

Nghiệp thiện như vậy, thì nghiệp ác cũng như vậy. Vấn đề mại dâm, dù là việc không thể hết sạch trong một quốc gia, nhưng nếu nhà nước cấm, thì nó không thể phát triển rộng rãi, người dân cũng không thể thoải mái xem nó như việc hiển nhiên mà gây ác nhân thoải mái... 

Vấn đề tôn giáo cũng vậy, nếu quốc vương giúp phát triển chánh pháp, hạn chế tà pháp chính là hạn chế nghiệp ác, củng cố nghiệp thiện cho người dân. Quả báo tương lai sẽ tốt đẹp. Ngược lại, để cho tà pháp ngự trị thế gian thì hiện đời ngoài việc làm tổn hại sự tiến lên của đất nước, phần âm đức của quốc vương cũng bị tổn hại. Việc này đòi hỏi quốc vương phải có trí tuệ sáng suốt, nắm vững nhân quả, phân định rõ ràng thứ gì chánh thứ gì tà. Thành, những vị quốc vương có phần âm đức lớn, trong việc dựng nước và giữ nước thường được các vị thiền sư hộ trì, như Lý Công Uẩn có thiền sư Vạn Hạnh v.v… 

10. Chủ của tất cả nhân dân. Quốc vương là kẻ đứng đầu, nắm vận mệnh đất nước, là chỗ y tựa của muôn dân, nên nói CHỦ. 

Tất cả các quốc độ đều do phúc đời trước mà thành tựu 10 loại thắng đức như vậy. Đại Phạm Thiên Vương cùng với Đao Lợi Thiên thường trợ cho nhân vương hưởng được các thứ vui thú vi diệu. Các La sát vương cùng với các thần v.v… tuy không hiện thân, vẫn ngầm hộ vệ quốc vươngquyến thuộc. Vua thấy nhân dân tạo các ác nghiệp mà không chế chỉ thì chư thiên, thần v.v… thảy đều xa lìa. Nếu thấy vua làm phước tu thiện, các vị hoan hỉ tán thán, thảy đều xướng lên “Thánh vương của ta. Trời rồng vui thích. Rưới mưa cam lộ. Ngũ cốc được mùa. Nhân dân thịnh lạc”. Những việc Phật nêu trên là cái quả của một cái nhân đã có từ trước. Nhân quả tồn tại trong ba đời, không dứt khoát chính xác một thời điểm nào, nhưng hễ có NHÂN, đủ DUYÊN là có QUẢ. Có những việc trong hiện đời mình thấy như nhân quả sai lệch, nhưng chẳng qua vì nhân quả xảy ra đến ba thời, không phải sai lệch. Song cứ thấy quả xấu, là biết cái nhân mình gieo trong quá khứ không tốt. Quá khứ nói đây có thể là đời này cũng có thể là từ nhiều đời trước, không cố định. Nhưng đã có quả tức phải có nhân. Vì với nghiệp thức của chúng sanh hiện nay thì nhân không thể có sau quả. 

Nếu không thân gần người ác, lợi ích khắp cả thế gian đều từ chánh hóa, thì bảo châu như ý nhất định sẽ hiện trong vương quốc. Các vua lận cận đều đến qui phục. Nhân cùng phi nhân thảy đều xưng tán. BẢO CHÂU NHƯ Ý nói đây là chỉ cho những thứ khiến đất nước thịnh vượng như tài nguyên thiên nhiên v.v… Đủ phúc đức thì mọi thứ sung mãn. Thiếu phúc đức thì mọi thứ cạn kiệt suy yếu. Đủ phúc đức thì các nước chung quanh qui phục. Thiếu phúc đức thì “bảo châu như ý” là cái mầm của họa hoạn. Cho nên, quả của cái phúc ở quá khứ, phải luôn được bảo tồn bằng cái nhân đức thiện trong hiện đời, thì đời sống mới luôn tốt đẹp

Nếu có người ác, ở nơi vương quốc đó, mà sanh nghịch tâm, thì chỉ trong khoảng tích tắc, phúc tự hủy diệt. Mệnh chung thường đọa địa ngục, trải qua súc sanh thọ đủ các khổ. Vì sao? Do không biết ân đối với thánh vương, khởi các ác nghịch phải chịu quả báo như vậy. Nếu là người dân hay hành thiện tâm, cung kính ủng hộ nhân vương, tôn trọng như Phật, người ấy hiện đời sẽ được an ổn, thịnh vượng, vui vẻ, tất cả nguyện cầu đều được ưng ý.

Đây là cái quả của việc không biết ân đối với một vị minh quân

Hoàn cảnh của con người là do nhân thiện ác mình đã gây ra trong quá khứ mà ra, nên có khi đúng là một vị minh quân, mà tới duyên của mình, mọi thứ lại thành xấu. Chẳng qua là do duyên nghiệp của mình, không hẳn vị quốc vương đó đã xấu. Nếu ông ta xấu thì không thể khiến đất nước phồn vinh. Thành dù với mình, có những thứ không được thuận chiều, nhưng nhìn chung, đất nước phát triển, người dân ấm no, xã hội yên bình, thì Phật khuyên nên biết báo ân, đừng sanh nghịch tâm. Nghịch tâm như thế là mình đang tự hủy diệt chính mình. Vì sao? Vì hiện tại, ngoài việc tự rước phiền não vào thân, có khi chỉ vì một chút không tỉnh, nghe chúng đốc vô đốc ra phù hợp với cái tâm bất mãn của mình, nhúng tay vào những việc không đâu, rồi sinh tù tội, tử hình. Chỉ thiệt cho bản thân chứ không ích gì. 

Duyên hiện tại đã xấu mà tương lai, Phật nói còn phải thọ 3 đường khổ. Đó là do cái phúc của mình không đối đầu nổi cái phúc của người. Cái phúc của người là cái phúc lo cho toàn dân. Chịu đủ mọi thứ phiền não lo lắng mới khiến người dân được no ấm. Phải đối đầu với các nước chung quanh để nước nhà được yên ổn không bị khủng bố. Biết bao sự lao tâm khổ trí chỉ vì sự no ấm của muôn người. Mình không có được cái phúc đó, mà còn sinh tâm nghịch thuận thì quả khổ không thể tránh khỏi

Cái phúc của người trong hiện đời đó, đủ để mình đọa địa ngục, chưa kể phần âm đức mà ông ta đã gieo trong quá khứ. Phật nói : Tất cả quốc vương, vào thời quá khứ, từng thọ cấm giới thanh tịnh của Như Lai, thường làm nhân vương an ổn khoái lạc. Do nhân duyên đó, quả báo nghịch thuận đều theo hưởng ứng. Ân đức thánh vương rộng lớn như thế. Cho nên, chỉ nên sinh tâm biết ân, không nên sinh tâm nghịch thuận. Nhà thiền dạy thiền sinh những câu rất hay “Phản quan tự kỷ bổn phận sự”. Chiếu soi lại mình là bổn phận chính. Nhờ đó không hướng ra ngoài phê phán nên không tổn âm đức. Chỉ là “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ”. Có gì không vừa lòng thì phải biết một phần là do duyên nghiệp của mình. Thôi thì yên lòng với những gì không vừa lòng cho nghiệp cũ tiêu đi. Chú tâm tu tâm dưỡng tánh của mình, lo hành phúc thiện thì nghiệp cũ sẽ tiêu, quả tốt sẽ có. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10123)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10525)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10145)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20426)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11661)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13808)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19157)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46727)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12103)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11680)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23104)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17867)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10165)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17780)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13942)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14060)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15116)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20316)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18310)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17431)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18190)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12734)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12876)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13441)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17050)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11490)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18302)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18611)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21410)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22187)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16898)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12571)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15339)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24642)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14246)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11656)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19764)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13438)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22826)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19018)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18474)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21636)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20537)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20047)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14091)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15029)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13805)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15123)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17255)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15304)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12828)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15897)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13017)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13150)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15040)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22670)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7171)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19377)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37731)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9184)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8691)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17914)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14880)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27070)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19963)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15282)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15498)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26807)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14578)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19727)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14648)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18668)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15945)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16367)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19383)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19745)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19913)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18623)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29852)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14588)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17773)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32450)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15280)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17319)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29783)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31561)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64731)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32832)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20250)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18542)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30835)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19939)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45928)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32609)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39372)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40474)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50163)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19113)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18577)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20707)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant