Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Phật Báo Ân Cha Mẹ

22 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 12598)
Đức Phật Báo Ân Cha Mẹ

ĐỨC PHẬT
BÁO ÂN CHA MẸ

Toàn Không

(Lược Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)

tuong_nho_cha_me 

1)- NHÂN DUYÊN:

 Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật. Lại có vô số Thiên Long Bát Bộ. Tất cả đều vây quanh Phật từ trên không trung cho đến dưới đất, cung kính cúng dàng, tôn trọng khen ngợi đức Như Lai.

 Khi ấy, vào nửa buổi sáng, Tôn Giả A Nan Đà, Thị Giả của đức Thế Tôn vào thành Vương Xá theo thứ lớp đi khất thực. Đang khi khất thực, Tôn Giả thấy có hai mẹ con Bà La Môngia cảnh suy sút gia tài chánh kiệt nên phải đi ăn xin và cũng theo thứ lớp đi từng nhà xin bố thí thức ăn. Tôn giả để ý thấy mỗi khi nhận được món ăn ngon hay trái cây tươi người con dâng cho người mẹ, còn khi nhận được thức ăn không ngon hay quả héo thì người con ăn. Tôn Giả A Nan Đà thấy thế lòng sinh vui mừngtán thán khen ngợi rằng:

- Quý hóa thay! Quý hóa thay: Thiện nam tử cúng dàng cha mẹ, người con có hiếu với cha mẹ như thế rất là hiếm có, thực khó có người sánh kịp.

 Lúc đó, có một Phạm Chí nghe lời nói ấy, người này thuộc ngoại đạotà kiến khi có cơ hội thường hay ghen tỵ hủy báng Phật Pháp Tỳ Kheo Tăng, nên khi nghe những lời khen ngợi của Tôn Giả, người ấy liền nói với Tôn Giả rằng:

- Thầy của anh là Cù Đàm và những người trong dòng họ Thích tự cho là hay là giỏi, có những công đức lớn lao, chẳng qua cũng chỉ là có danh mà không có thực (hữu danh vô thực); Thầy Cù Đàm của anh mới là người bạc phước nếu không như vậy, tại sao người mẹ vừa mới sinh ra ông ta được có bảy ngày thì chết để ông ta phải côi cút, như thế chẳng phải là người bạc phúc là gì? v.v...

 Tôn Giả A Nan Đà nghe mấy lời như thế, im lặng không trả lời. Khi khất thực xong trở về chỗ Phật, sau khi lễ, Tôn Giả chắp tay bạch Phật:

- Thưa đức Thế Tôn, trong Phật pháp có sự hiếu dưỡng cha mẹ không? Kính xin Thế Tôn cho con được biết.

 Đức Phật hỏi:

- A Nan! Ai nói: khiến ông hỏi Ta điều ấy, hay ông tự đem trí lực của mình để hỏi Như Lai?

- Thưa Thế Tôn, đó là vừa rồi lúc đi khất thực ở giữa đường, con gặp ngoại đạo Tát Gia Ni Kiền Tử đem lời chê bai nhục mạ.

 Rồi Tôn Giả thuật hết những gì Tát Gia Ni Kiền Tử đã nói, khi nghe xong, đức Thế Tôn mỉm cười; từ giữa trán Ngài phóng ra hào quang năm màu (ngũ sắc) chiếu qua vô lượng cõi Phật (vô số giải Ngân Hà) về phương Đông tới thế giới Thắng Thượng có đức Phật hiệu Hỷ Vương tại nước Nghiêm Tịnh. Khi ấy có vô số Bồ Tát vây quanh thấy hào quang lạ chiếu soi đến làm cho tâm ý mọi người đều an lạc, nên đều đồng thanh bạch với Phật Hỷ Vương:

- Kính xin đức Thế Tôn chỉ dạy vì nhân duyên gì có hào quang chiếu soi này? 

 Đức Hỷ Vương nói:

- Ở về phương Tây cách đây vô lượng nghìn muôn cõi Phật, có một thế giới gọi là Sa Bà (có sách ghi là Ta Bà), có đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, hiện đang có vô số Bồ Tát, Nhân, Thiên Long Bát Bộ vây quanh. Nay Phật Thích Ca muốn vì đại chúng ấy nói Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, vì Phật Thích Ca muốn làm lợi ích chúng sinh, muốn nhổ tà nghi, muốn cho đại chúng phát Bồ Đề tâm kiên cố, muốn tất cả chúng sinh nhớ nghĩ trọng ân, vượt qua bể khổ, muốn tất cả chúng sanh hiếu dưỡng phụ mẫu v.v..., nên Phật Thích Ca phóng hào quang này.

 Bấy giờ một vạn (mười ngàn) Bồ Tátcõi Phật Hỷ Vương đứng dậy chắp tay bạch Phật xin được qua cõi Sa Bà để cúng dường chiêm bái Phật Thích Ca và để được nghe Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. Phật Hỷ Vương bảo các Bồ Tát phải sinh lòng cung kính cúng dàng, nghĩ tưởng khó gặp, vì Phật Thích Ca đã từng ở trong vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp làm những việc khó làm và đã phát đại bi nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật sẽ ở cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai góc, chúng sinh ở cõi đó có đủ mọi phiền não ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu thành Phật ở đó để làm lợi ích, đoạn trừ phiền não cho họ, khiến tất cả chúng sanh đều được an vui...”, lời của Phật Thích Ca là như thế, các ông tới cõi ấy cũng như ở đây vậy.

 Khi ấy một vạn Bồ Tát đem theo vô số chúng Bồ Tát quyến thuộc, trước sau vây quanh mà đi, biến mất khỏi cõi Thắng Thượng. Khi đoàn Bồ Tát ấy đi ngang qua các cõi Phật khác, các thế giới ấy đều rung động (động đất) và nhạc trời vang khắp cõi ấy. Khi đoàn Bồ Tát đến chỗ Phật Thích Ca ngự tại núi Kỳ Xà Quật, tất cả đồng loạt lễ Phật, đi nhiễu ba vòng, rồi lui qua một phía ngồi.

 Đức Thế Tôn sau khi phóng hào quang về hướng Đông, Ngài quay hào quang qua hướng Nam qua tám mươi vạn ức cõi Phậtthế giới trang nghiêm Quảng ĐứcPhật hiệu Tu Di Tướng nơi nước Thiện Tịnh, cõi này vô cùng đẹp đẽ v.v.....

 Rồi đức Phật quay hào quang qua hướng Tây qua trăm vạn cõi Phật nơi có thế giới đẹp đẽ Tịnh Trụ của Phật Nhật Nguyệt Đăng Quang tại nước Diệu Hỷ, có đất bằng phẳng có bảy báu v.v...

 Sau nữa đức Như Lai quay phóng hào quang qua hướng Bắc qua năm trăm vạn ức na do tha (vô số) cõi Phật nơi có thế giới trang nghiêm Tự Tại Xưng Vương của Phật hiệu Hồng Liên Hoa Quang nơi nước Ly Cấu. Nơi này cũng giống như hai cõi trên, rất đẹp đẽ v.v....

 Cho đến phương Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương Trên (Thượng), phương Dưới (Hạ), tất cả mười phương, đức Thích Ca đều lần lượt phóng hào quang tới các cõi Phật trang nghiêm đẹp đẽ. Cả mười cõi đều có vô số Bồ Tát xin Phật ở cõi ấy được đi chiêm bái cúng dàng Phật Thích Ca và đều muốn được nghe Kinh Phật Báo Ân, như thế vô lượng Bồ Tátquyến thuộc Bồ Tát mười phương đồng loạt trước sau chỉ trong vòng khoảng chốc lát (một phút đồng hồ) đến cõi Sa Bà.

 Khi mười phương vô lượng Bồ Tát đến vây quanh rồi, thì mặt đất cõi Sa Bà này biến thành bằng phẳng, thanh tịnh, các chúng sinh nhận được hào quang, được thấy Phật nên sinh tâm vui mừng, chắp tay kính lễ.

 Sau khi vô lượng Chư Bồ Tát mười phương an vị đâu đó, đức Phật thu nhiếp hào quang ấy trở lại nhiễu quanh thân Ngài bảy vòng, rồi hào quang trở lại nơi đỉnh đầu của Ngài.

 Tôn Giả A Nan vì lợi ích chúng sinh nên đứng lên lễ Phật rồi Bạch:

- Mỗi khi Phật mỉm cười là có nguyên nhân, xin Thế Tôn chỉ dạy sự mỉm cười vừa rồi để trừ mối nghi cho đại chúng.

 Bấy giờ trước đức Phật tự nhiên có một hoa sen lớn bảy báu tự đất hóa sinh ra, rồi đức Phật Thích Ca từ tòa ngồi đứng dậy đi tới bước lên hoa sen và ngồi trên đài hoa sen ấy . Vừa ngồi xong Ngài hiện năm thân mỗi thân một phía, rồi từ mỗi thân kết hợp bởi vô số thân nhỏ, mỗi vô số thân nhỏ lại hợp bởi vô lượng thân nhỏ hơn nữa, mỗi vô lưọng thân nhỏ hơn nữa lại hợp bởi vô lương thân li ti như hạt cát hạt bụi.

 Sau khi hiện ra vô lượng thân như thế, đức Phật bảo đại chúng:

- Này Thiện nam tử, Như Lai khắp biết chân chính, tuyên nói lời chân thực rằng: “Pháp (mọi sự việc) vốn không ngôn thuyết (không thể nói được), Như Lai dùng phương tiện nhiệm mầu, dùng pháp không danh tướng mà nói danh tướng. Như Lai khi còn ở trong đường sinh tử, ở trong tất cả các loài chúng sanh, cũng đã chịu khổ đủ mọi thứ thân hình nhiều như cát bụi, vì phải chịu nhiều thân như thế, cho nên tất cả chúng sinh đã từng là cha mẹ của Như Lai, Như Lai cũng làm cha mẹ của chúng sanh. Vì cha mẹ nên Như Lai đã làm khổ hạnh khó làm, bỏ những sự khó bỏ như tay chân, mắt mũi, tủy não, thịt da, đầu mặt, quốc thành (đất nước thành quách), vợ con, cho đến voi ngựa, bảy báu, kiệu cáng, xe cộ, quần áo, thức ăn, thuốc thang, vật dụng, v.v..., cấp cho tất cả.

 Như Lai siêng tu trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ v.v..., cho đến đầy đủ vạn hạnh, thường không dừng nghỉ, tâm không mệt mỏi hiếu dưỡng cha mẹ, biết ơn đền trả, nên mới mau thành chính quả. Bởi chính chúng sinh là trọng ân của Như Lai nên Như Lai không thể bỏ chúng sinh. Như Lai đem tâm đại bi để cứu độ chúng sinh trong ba cõi (Trời, Thần, Người) mà không nghĩ đến công lao của mình. Như Lai tu học mọi phương tiện, thường tu hành từ bi bình đẳng, không chấp không cũng chẳng chấp có nên thấu suốt tất cả đều là huyển cho nên thấu suốt được thực tướng của mọi pháp, nên không thoái mất đại nguyện, không bỏ chúng sinh chìm đắm trong bể khổ.

 Như Lai tùy căn cơ của chúng sinh nói pháp, trước sau có khác, nhưng chúng sanh do bị ái dục che đậy, bị mê lầm làm chìm trong bể khổ, vì sao? Vì bốn thứ điên đảo: Đối với thân mình là vô ngã (không có cái ta), vô thường, khổ, bất tịnh (không sạch), chúng sinh lại cho là có cái ta, thường, vui, sạch sẽ thơm tho. Sinh già bệnh chết, thay đổi biệt ly, mỗi giây phút đổi khác, bị năm triền cái che đậy (Ngũ cái gồm: Tham ái, sân giận, hôn trầm, phóng dật, nghi ngờ) làm cho chìm đắm trong bể khổ luân hồi sinh tử như bánh xe quay không ngưng nghỉ.

 Do đó, Như Lai nói ba Tạng mười hai bộ Kinh, tùy theo nông cạn của chúng sanh, khiến cho chúng sinh có thể liễu ngộ được thực tướng của các pháp mà chứng Niết Bàn giải thoát. Bởi thế Như Lai chiêu tập tất cả chúng sinh hữu duyên trong mười phương hôm nay hội tụ trong đại chúng này, diễn nói chỉ bày chỉ dẫn những lời dạy bảo muôn đời lưu truyền khiến chúng sanh được đại an lạc, được giác ngộ giải thoát. Như Lai đã làm vô số việc không thể nghĩ bàn như từ cõi trời Đâu Xuất thị hiện xuống trần nơi cõi Diêm Phù Đề, nói ra vũ trụ vô biên, thế giới nhiều hơn cát sông Hằng, nói ra nghiệp báo nhân quả, chúng sinh vô lượng v.v...,tất cả đều là không thể nghĩ bàn.

 Này A Nan! nay ông phát ra được lời hỏi ấy, thực là do lòng đại bi thương xót chúng sanh, ông hãy nghe cho kỹ, Ta sẽ vì ông, các đại Bồ Tát, và tất cả đại chúng, mà lược nói về nhân duyên hiếu dưỡng cha mẹ:

2)- BÁO ÂN CHA MẸ:

 Về thời lâu xa, bấy giờ có một nước nọ tên là Ba Na Lại, trong nước đó có Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai (Cách nay 91 kiếp về trước = khoảng 6.5 tỷ năm). Khi đức Phật ấy nhập Niết Bàn đến thời tượng pháp, có một ông Vua tên là La Xà có rất nhiều đại thần, thống lãnh 16 nước phụ thuộc. Vua có ba người con đều làm Vua ở các nước phụ thuộc, Đại Vương La Xà dùng luật lệ nhân đức phân minh, không làm việc gì hại nước hại dân, nên được mưa thuận gió hòa, hoa mầu tốt tươi, nhân dân no ấm thanh bình.

 Bấy giờ, có một người đại Thần tên là La Hầu mưu phản, khởi nghịch dấy binh giết chết Vua La Xà, sau đem quân đến đánh các nước nhỏ giết chết người con lớn, kế đó bắt giết người con thứ hai.

 Khi ấy, người con út thứ ba đang làm Vua tại một nước nhỏ, Vua có thân hình đẹp đẽ, tính tình hiền lành phúc hậu, Vua dùng luật lệ nhân đức phân minh, cõi nước được thịnh vượng, nhân dân an lạc, Vua sinh được một Thái tử tên là Tu Xà Đềthân hình đẹp đẽ, mặt mũi nhân hậu sáng láng, tuấn tú thông minh, lúc ấy đã 17 tuổi, Vua cha mến yêu vô cùng.

 Bấy giờ Vua nằm mơ, mộng nghe có tiếng mách bảo việc Đại Thần La Hầu làm phản giết hại Đại Vương vua cha La Xà, La Hầu đã đem quân đi bắt giết hai người anh đang làm Vua ở hai nước kia, hiện tại La Hầu đang trên đường tiến tới để hại Vua. Trong mộng Vua hỏi: “Ông là ai mà sao chỉ nghe tiếng nói mà không thấy người?” thì có tiếng đáp rằng: “Tôi là Thần coi cung điện, Vua là người nhân đức nên tôi mới báo để mà liệu bề đối phó, nếu chậm sẽ không kịp nữa”.

 Sau khi Vua tỉnh dậy tự nghĩ: “Đây là sự thực, ta nên cấp thời lánh nạn qua nước láng giềng”. Lại tự nghĩ: “Đến nước láng giềng kia có hai đường đi, một lối phải mất 14 ngày, một lối chỉ mất có 7 ngày, ta nên đi một mình theo lối gần 7 ngày cho mau chóng”; nghĩ rồi, Vua ra lệnh cho làm một cách bí mật mau chóng cho mang lương thực cho đủ Vua ăn trong 7 ngày đến để ở một nơi ngoài thành cẩn thận.

 Khi chuẩn bị xong xuôi, nhà Vua trở vào trong hậu cung gọi Thái tử tới rồi ôm vào lòng, rồi đứng dậy, rồi ngồi xuống, có vẻ bối rối không yên, Phu nhân thấy Vua không an như thể có điều gì lo sợ, bà liền tới hỏi:

- Đại Vương hôm nay hình như có điều gì lo sợ nên đứng ngồi không yên, mặt mũi bơ phờ, tựa như giặc đến, xin Đại Vương cho thần thiếp biết.

 Vua bảo:

- Tôi có việc hệ trọng, nhưng không phải là việc phu nhân có thể biết được.

 Phu nhân nói:

- Thiếp cùng với Bệ hạ khác nào như hình với bóng, như chim với hai cánh, như thân thể với chân tay, như đầu với mắt. Hôm nay có việc hệ trọng như thế mà Bệ hạ lại không muốn cho thần thiếp được dự biết!?

 Vua nói:

- Phu nhân có biết chăng? Đại Thần La Hầu làm phản đã giết hại phụ Vương, lại đem quân đi bắt giết cả hai anh ta, nay bọn chúng đang cử binh mã đến đây bắt giết ta, nay ta muốn trốn tránh khỏi tai họa này. Vua nói rồi liền tức tốc nắm tay Thái tử kéo chạy đi. Phu nhân thấy thế cũng chay theo sau.

 Bấy giờ vì tâm thần hoảng hốt, vội vàng, Vua quên không lấy thêm thực phẩm; mới đi được ba ngày đã hết thực phẩm mang theo, vì lúc dự trù chỉ có một người ăn trong 7 ngày, lúc đó có tới ba người nên lương thực mau hết.

 Hai bên đường, cây cối trơ trụi, không một bóng người qua lại, đường đi gập ghềnh hiểm trở, ruồi muỗi nóng nực, lúc đó Vua và Phu nhân cất tiếng than khóc: “Thật là xót xa đau đớn, chúng ta từ khi sinh ra cho đến ngày nay chưa bao giờ bị khổ như thế này, tại sao thế hỡi trời?!, giờ đây đã đến lúc cùng đường, họa sắp tới nơi rồi!, biết làm sao đây? Than khóc rồi tự đấm ngực vỗ đầu, vật mình xuống đất tự trách: “Lũ chúng tôi kiếp trước gây nên nghiệp ác gì? Hay là đã giết cha mẹ, chân nhân? Hay là hủy báng bậc thượng tôn thánh hiền? Hay là đã làm nghề săn bắn chài lưới giết hại chúng sinh? Hay là giết người cướp đoạt của cải, v.v..., làm sao phải chịu họa này? Muốn dừng nghỉ một chút lại sợ oán gia ập tới, nếu để chúng bắt được sẽ bị chết, không còn nghi ngờ gì nữa! Nếu tiến bước chạy trốn, lại bị đói khát bức bách, tính mạng như chỉ treo mành!

 Vua và Phu nhân suy nghĩ những nỗi khổ não, buồn rầu than khóc đến phát xỉu ngã lăn xuống đất bất tỉnh, hồi lâu mới tỉnh lại. Vua tự nghĩ: “Nếu không lập kế sẽ không thoát khỏi nạn này”, rồi bảo Phu nhân: “Nếu không lập kế để sống còn thì không kịp nữa, cả ba đều chết”. Hai người bàn một lúc rồi Vua và Phu nhân đều thỏa thuận rằng: “Vua sẽ giết Phu nhân để lấy thịt cho Vua và Thái Tử ăn để bảo toàn tính mạng cho hai người, xong rồi, Vua tuốt gươm để giết Phu nhân. Thái Tử Tu Xà Đề thấy cử chỉ của Vua như vậy, vội vàng giữ tay nhà Vua lại mà hỏi: “Phụ Vương định làm gì thế? Vua buồn rầu vừa khóc vừa nói: “Ta định giết mẹ con để lấy thịt nuôi sống cha và con, nếu không giết mẹ con thì cả ba người đều chết mất thôi, vì không còn cách nào khác nữa!” Thái tử nói: “Nếu cha giết mẹ con, con thà chết đói chứ không bao giờ con ăn, vì chưa bao giờ có người con nào ăn thịt mẹ mình. Đã chẳng dám ăn thì con cũng sẽ chết mà thôi, vậy cha hãy giết con đi để cứu mạng cho mẹ”. Vua nghe nói vậy thì sầu não nói rằng: “Con cũng như con mắt của ta, chưa bao giờ có ai tự khoét mắt của mình để rồi lại tự ăn vậy, ta sẽ không bao giờ giết con để nuôi sống tính mạng của ta cả.

 Lúc ấy, Thái tử thưa với Vua và Phu nhân: “Con xin nguyện đem thân này để cúng dàng cha mẹ, chỉ xin cha mẹ chấp thuận cho con một điều”. Vua bảo: “Cha mẹ không làm trái ý con, con muốn điều gì cứ nói ra”. Thái tử thưa: “Cha mẹ đừng giết con mà chỉ mỗi ngày xẻo đủ thịt chia cho ba người ăn, hai phần dâng cha mẹ, một phần con ăn để tự nuôi sống”.

 Bấy giờ, Vua theo ý nguyện của Thái tử mà làm như vậy, nhưng sau ba ngày thì thịt ở thân thể Thái tử đã gần hết, chỉ còn chút ít thịt dính với xương. Vì quá kiệt sức, Thái tử ngã lăn ra đất bất tỉnh, Vua và Phu nhân ôm con kêu khóc mà nói: “Cha mẹ thật là người vô dụng, ăn cả thịt con, khiến con phải đau đớn đến chết đi như thế này, biết làm sao bây giờ? Nay đường còn chưa tới, thật là khổ sở trăm bề, chắc phải bỏ thân xác con lại đây thôi!”, hồi lâu, Thái tử tỉnh lại nói trong yếu ớt: “Thưa cha mẹ, con dâng thịt cúng dường cha mẹ đã đi được đến đây, tính ra chỉ còn một ngày nữa là tới nơi an toàn, mà thân con không còn cử động được nữa, chắc con bỏ mạng tại nơi đây, con không thể theo cha mẹ được nữa, xin cha mẹ đừng nghĩ ngợi theo thói thường tình, để rồi chết cả ở đây! Con kính xin cha mẹ một điều không nên trái lòng con, xin cha hãy cắt hết nốt những chỗ thịt còn lại dùng cho cha mẹ đủ sống trong một ngày nữa mà đi đến chỗ thoát nạn.”

 Bấy giờ vua cùng Phu nhân ôm Thái tử khóc nức nở không ngớt, nhưng rồi cũng phải nghe lời con đành lòng phải cắt nốt những thịt còn lại, rồi chia làm ba như trước, ăn rồi, nhà Vua và Phu nhân từ biệt con trong khóc than đau khổ mà đi, trong khi Thái tử nhỏm người lên nhìn cha mẹ xa dần cho đến khuất bóng, rồi ngã lăn ra bất tỉnh.

 Các loài côn trùng ruồi nhặng kiến v.v... đến bâu lại khắp thân thể để châm chích cắn ăn, khó chịu vô cùng, không thể nói cho xiết được. Tỉnh lại, Thái tử thấy thế liền lập lời thệ nguyện: “Nguyện đời trước có điều gì oán ác, từ đây sẽ trừ sạch hết, và từ nay trở đi sẽ không bao giờ làm ác nữa. Nay tôi đem thân này để cúng dàng cha mẹ, nguyện cha mẹ thường được mười một điều phúc đức, đó là:

01 – Khi ngủ được an vui.

02 – Khi thức được yên vui.

03 – Không thấy ác mộng.

04 – Chư vị Trời thường ủng hộ.

05 – Mọi người đều ái kính.

06 – Không gặp các tranh tụng.

07 – Không bị trộm cướp.

08 – Không bị giặc giã.

09 – Không bị mưu hại.

10 – Không bị tiêu diệt.

11 – Gặp mọi điều lành.

 Và còn bao nhiêu máu thịt còn lại tôi nguyện bố thí cho ruồi nhặng muỗi kiến và các côn trùng được no đủ, khiến đời sau tôi được thành Phật, rồi đem thức ăn bằng giáo pháp trừ trọng bệnh sinh tử đau khổ cho chúng sinh tất cả.”

 Khi Thái tử Tu Xà Đề phát nguyện như thế rồi, mặt đất sáu lần rung động, các loài cầm thú kêu vang chạy tứ tán, biển lớn nổi sóng dữ dội, núi Tu Di giao động rung chuyển.

 Bấy giờ Vua Trời Đạo Lợi, Thích Đề Hoàn Nhân đem chư Thiên xuống, giả làm hùm beo sư tử chó sói, gầm rống nhảy tới chỗ Thái tử như để bắt ăn thịt. Thái tử thấy thế mới nói: “Nếu các ngưoi muốn ăn thịt ta thì cứ ăn, sao lại làm ta sợ hãi như vậy?” Vua Đế Thích liền biến ra hình người và nói: “Ta không phải là thú dữ đâu, mà là Đế Thiên Thích đến đây để thử Thái tử mà thôi, Thái tử thấy Đế Thích nói như vậy thì vui mừng, Đế Thích hỏi Thái tử?

- Nhà ngươi bỏ được việc khó bỏ. Ngươi đem hết thịt cúng dàng cha mẹ, có công đức như thế để nguyện sinh làm Phạm Vương, Thiên Ma Vương, Thiên Vương, Chuyển Nhân Thánh Vương, hay Nhân Vương?

 Thái tử Tu Xà Đề trả lời:

- Tôi nay chẳng nguyện làm những thứ ấy, mà chỉ muốn cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề để cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau mà thôi.

 Vua Trời nói:

- Ngươi thật là đại ngôn, đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chánh Giác phải chịu cần khổ rất lâu dài, rồi sau mới thành được, làm sao Ngươi có thể chịu nổi những cần khổ ấy?

 Tu Xà Đề trả lời:

- Giả thử vòng sắt nung đỏ để trên đầu, nhưng không vì thế làm cho tôi thoái đạo Vô Thượng.

 Thiên Đế nói:

- Ngươi chỉ nói cho cố, nói suông, làm sao tin được?

 Bấy giờ Tu Xà Đề liền lập thệ nguyện:

- Nếu tôi nói dối Thiên Đế thì thân tôi sẽ mãi mãi bị chia lìa, còn không như vậy thì sẽ bình phục lại.

 Thái tử vừa thệ nguyện xong, thân thể từ từ lành lặn bình phục lại, Vua Trời thấy thế khen ngợi:

- Quý hóa thay! Ta không thể theo kịp Ngươi, Ngươi sẽ đạt đạo Vô Thượng theo ý nguyện, khi ấy nhớ độ cho ta.

 Bấy giờ Vua và Phu nhân đi đến nước kia được Vua nước kia tiếp đón ân cầncung cấp đầy đủ các thứ cần dùng xứng ý. Rồi Vua và Phu nhân thuật hết sự tình về việc nghịch thần gian ác, và việc chạy trốn xảy đến việc Thái tử tình nguyện chịu cắt thịt cứu cha mẹ đến phải hy sinh tính mạng.

 Vì cảm mến đức hạnh từ hiếu ấy mà Vua nước kia khởi lòng muốn giúp đỡ, khởi binh chính nghĩa đi đánh nghịch thần La Hầu gian ác. Thuận đường đi cùng đại quân, Vua và Phu nhân đi ngang qua chỗ Thái tử, nơi cha con, mẹ con từ biệt với ý nghĩ: “Con ta đã chết rồi, ta nên thu lượm xương cốt của con đem về quê hương.” Vì lòng thương con vô bờ bến, nên vừa đi tìm kiếm vừa kêu gào khóc than rất là thảm thiết. Nhưng bỗng xa trông thấy con còn sống, vội chạy đến ôm con vào lòng, vừa thương vừa mừng vừa khóc nức nở mà hỏi con rằng: “Con ơi! Con vẫn còn sống ư, làm thế nào con qua khỏi nạn này, thật là ngoài sức tưởng tượng của cha mẹ!?!”

 Thái tử liền kể hết sự việc cho Vua và Phu nhân nghe, nghe xong, Vua và Phu nhân hết sức vui mừng, rồi cùng nhau trở về nước, Thái tửphúc đức rất lớn như thế, nên chẳng bao lâu lấy lại được nước, Vua cha bèn lập Thái tử lên làm Vua trị vì thiên hạ.

 Bấy giờ đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà:

- A Nan nên biết, phụ Vương La Xà lúc bấy giờ, nay là cha Ta, Duyệt Đầu Đàn phu nhân lúc ấy, nay là mẹ ta, Ma Da phu nhân, còn Thái tử Tu Xà Đề, nay chính là Ta, Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Lại nữa, Vua Trời Đế Thích lúc ấy, nay là Ông Kiều Trần Như ngày nay, được Ta độ trước nhất vậy.

 

LỜI BÀN:

 Đọc Kinh trên, chúng ta nhận thấy:

1 – Khởi đầu của Kinh, chúng ta đã thấy đức Phật lúc đó là Thái tử Tu Xà Đề. Người được sinh vào làm con Vua và là Thái tử, tất phải là người đời trước đã làm được nhiều phúc đức mới được như thế.

2 – Sự báo hiếu của đức Phật đối với bậc cha mẹ thật là hiếm có trên đời, nếu không phải lúc ấy đức Phật đang hành hạnh Bồ Tát rồi thì không thể làm được việc chịu đựng đau đớn khủng khiếp như thế, một việc làm chỉ có bậc Bồ Tát mới làm được mà thôi.

3 – Một điểm cần nêu ra, đó là khi cắt thịt Thái tử vẫn còn đi được, và khi cắt hết thịt rồi mà vẫn còn sống được, nhất là sau đó tự nhiên lành lại, đó là một điều khó tin, tại sao? Vì khi cắt thịt, máu chảy ra hết là phải chết, thiết tưởng, trong trường hợp này chỉ có thể giải thích bằng sự mầu nhiệm nào đó, khiến Thái tử Tu Xà Đề không bị mất máu nhiều, đủ sức chịu đựng sự đau đớn, và sau là lành lại. Ở đây, chúng ta lại thấy trái với khoa học, nhưng nếu chúng ta chấp nhận những gì gọi là huyền bí mầu nhiệm do Chư Thiên làm, thì chúng ta phải chấp nhận trường hợp này.

4 – Từ thời đức Phật Tỳ Bà Thi (91 kiếp về trước = khoảng 6.5 tỷ năm)) đến thời đức Phật Thích Ca đã trải qua một thời gian quá lâu dài, điều này chứng tỏ đức Phật Thích Ca đã hành đạo Bồ Tát rất lâu dài mới đạt quả Phật.

5 – Trong bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển 2, Phẩm Lực, từ trang 533, đức Phật nói: “Do công đức che lọng cho Thần tự (chỗ thờ) của Bích Chi Phật mà được lưu chuyển trong Trời Người và làm Vua hoặc Đại Phạm Thiên Vương, hoặc Đế Thiên Thích, hoặc Chuyển Luân Thánh Vương (Đại Vương) mấy trăm nghìn lần; chúng ta thấy công đức cúng dàng Chư Phật, Bích Chi Phật, và A La Hán Thánh Hiềnvô lượng phúc đức vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10025)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10430)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10044)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20197)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11509)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13668)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 18905)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46534)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11995)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11551)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 22882)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17717)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10037)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17569)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13789)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 13924)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 14966)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20157)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18108)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17243)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18020)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12698)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13287)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16874)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11378)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18166)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18461)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21211)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 21952)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16735)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12469)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15230)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24336)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14131)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11528)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19512)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13277)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22679)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18875)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18343)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21488)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20434)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19901)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13954)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14910)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13717)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15016)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17103)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15156)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12734)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15776)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12848)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13020)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 14932)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22494)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7066)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19227)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37373)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9042)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8524)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17747)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14794)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 26878)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19772)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15181)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15369)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26682)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14461)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19527)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14488)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18542)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15798)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16231)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19246)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19614)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19814)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18521)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29656)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14486)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17651)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32230)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15196)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17200)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29613)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31346)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64495)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32649)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20077)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18421)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30669)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19789)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45777)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32450)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39178)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40261)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 49921)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19011)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18454)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20581)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19306)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant