Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Xuân Đời Xuân Đạo

13 Tháng Hai 201300:00(Xem: 13716)
Xuân Đời Xuân Đạo
XUÂN ĐỜI XUÂN ĐẠO

Thích Thông Huệ


xuan_doi_xuan_daoTrong nhân gian, người đời coi ngày mồng một Tết là ngày quan trọng của đầu năm, còn nhà Phật xem đây là ngày đánh dấu sự có mặt của một vị Phật đương lai, đó là Bồ tát Di Lặc, nên mừng xuân năm mới chính là mừng Xuân Di Lặc.

M

ỗi năm xuân về cảnh vật xanh tươi, trăm hoa đua nở, nhà nhà đều khang trang đón Tết. Để đón chào năm mới, vào những ngày cuối năm nhân dân ta thường có phong tục lau quét nhà cửa sạch sẽ, dọn dẹp gọn gàng, tươm tất. Công việc được coi trọng là trang hoàng nhà cửa, bày biện bàn thờ với đủ các loại bánh trái, hoặc sắp xếp mâm ngũ quả sao cho thật đẹp mắt. Tết là ngày tiêu biểâu cho truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Nhiều người đi chùa lễ Phật, đi viếng mộ thắp hương rồi thăm cha mẹ, thân nhân, bà con hàng xóm láng giềng. Có người quan niệm rằng đến chùa xin lộc đầu năm. Thế là với cầu mong phúc lộc đến với nhà mình, người ta nô nức đi hái lộc, lộc có thể là một bông hoa, một cành non ở chùa hoặc chốn tôn nghiêm, họ hái mang về nhà để rồi chỉ qua một đêm giao thừa nhiều cảnh chùa cây xanh xác xơ, trơ trụi. Thực ra đó chính là một tập tục mê tín. Riêng đạo Phật lấy chánh tín làm nền tảng. Chẳng hạn nghe pháp tức là được lộc, vì lộc này dùng mãi vẫn còn, dùng hoài không hết. Thái tử Sĩ-Đạt-Ta đi tìm đạo lý vì Ngài xem thường của cải vật chất. Còn người trong dân gian thì cho rằng có tiền mua Tiên cũng được, nhưng thực tế ở đời có những người lắm tiền nhiều của mà vẫn khổ. Vì vậy, đầu năm chúng ta đến chùa và chúc nhau những lời lành mạnh tốt đẹp, dùng đạo lý để khuyên bảo nhau sống có tình có nghĩa, khuyên nhau tu tập vững vàng, từng bước vững chãi thảnh thơiung dung nghe pháp. Đó mới chính là lộc của đầu năm. Để rồi khi trở về với cuộc sống đời thường của gia đình, chúng ta sẽ có kim chỉ nam cho lộ trình tu tập, để sống thiện, sống lành, sống tốt và sống có ích cho mình, cho mọi người. Như vậy chúng ta mới thực sự làm lợi đạo ích đời, rồi nhờ thế ngày Tết mới có giá trị và tràn đầy ý nghĩa.

Bên ngoài vạn vật đổi thay, còn thân thể ta thì lớn dần lên, trưởng thành rồi già nua. Nhân ngày Tết chúng ta nhìn lại và thấy một năm có 12 tháng, mỗi tháng được cho là một hạt xâu chuỗi, như vậy một năm có 12 hạt xâu chuỗi, mà đầu năm là lúc chúng ta bắt đầu hạt thứ nhất của xâu chuỗi. Năm cũ chúng ta đã lắc xong hạt thứ 12 rồi và đã tất niên. Cứ như vậy, vô thường biểu hiện sinh, già, bệnh, chết như một dòng sông cứ trôi chảy mãi không ngừng. Còn sự vật bên ngoài luôn biểu hiện sinh, trụ,ï dị, diệt. Chúng ta biết một năm có 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Xuân sang, tiết trời mát mẻ, dễ chịu, khí hậu ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc và tràn ngập sắc hoa. Hạ đến, bầu trời xanh thẳm, khí hậu oi nồng và nóng bức. Thu về rực rỡ nắng vàng, thời tiết dễ chịu, khí hậu mát mẻ. Còn Đông thì rét buốt, gió lạnh, vạn vật thu mình. Riêng với người biết tu, họ vui xuân trong thâm trầm đạo lý chứ không còn bồng bột đam mê, không còn đánh mất mình để chạy theo bóng màu của mùa xuân nữa. Tết đến, xuân về chúng ta đến chùa để nghe pháp, để hiểu đạo lý, tiếp tục bước vào đời vàø thấy được những khó khăn trắc trở ở phía trước mà vượt qua. Mỗi năm nếu chúng ta tu tốt thì dù cho có gặp phải hoàn cảnh khó khăn chăng nữa thì chính đạochúng ta tiếp thu được sẽ giúp chúng ta vượt qua gian nan, vất vả của cuộc sống một cách thuận lợi, dễ dàng. Cho đến nghịch cảnh bức ép chúng ta vẫn có thể vững vàng tiến bước. Kinh Pháp Cú có câu:

“ Như tảng đá kiên cố
 Gió cuồng nộ chẳng lay
 Lời tán dương, phỉ báng
 Không xao gợn đôi mày.”

Nếu tu tập có kết quả, nếu là bậc trí tuệ thì cho dù ở thế gian gặp khen hay chê, thăng hay trầm, thịnh hay suy, đắc hay thất tất cả đều có thể vượt qua mà không bao giờ động tâm, sống tự tại trong thế giới đầy nhiễu nhương trở ngại.

Nếu nói về hiện tượng đời sống bên ngoài thì khi mùa xuân đến trăm hoa đua nở, khí trời mát mẻ, lòng người cũng rộn ràng chào đón mùa xuân. Ai ai cũng giữ vững hào khí, giữ tâm thái tự do thong dong, thoáng đạt, rộng lượng bao dung. Tất cả những gì đẹp đẽ đều được biểu hiện. Trong nhà trên bàn thờ Phật, nơi thờ các vị tổ tiên đều thắp đèn sáng trưng, hoa trái xếp đầy, người người mặc đồ mới, ai ai cũng nở nụ cười, mọi người gặp gỡ chúc tụng lẫn nhau, tay bắt mặt mừng. Từ gia đình ra xã hội, ai ai cũng đối xử với nhau trên thuận dưới hòa, kính già yêu trẻ.Người đi chùa lễ Phật nghe pháp, tiếp thu được những tinh hoa của nhân loại, hiểu được triết lý Đông phương, triết lý nhà Phật để chuyển hóa bản thân. Có như thế thì quê hương sẽ thêm phần tươi đẹp và đất nước sẽ giàu mạnh hơn. Tất cả đều mới mẻ đúng như ý nghĩa của đêm giao thừa mà mọi người thường nói câu: “Tống cựu nghinh tân” tức là tiễn đưa năm cũ , đón mừng năm mới. Nhưng trong những cái cũ ấy hãy chọn lọc cái nào tốt thì nhớ giữ lại để duy trì , còn nghinh tân cho năm mới thì không phải cái gì cũng rước cả, đừng bao giờ rước buồn phiền, sầu bi, tham sân si, khổ não, ganh tị, tật đố, ngã mạn vào thân trong năm mới. Ở đây đêm giao thừa là lúc bỏ cái cũ, rước cái mới. Chúng ta cần biết bỏ cũ tức là bỏ những cái xấu, có hại cho mình, cho người. Rước mới là rước những cái hay cái đẹp để duy trì, phát huy, làm nền tảng cho năm mới, để có cương lĩnh, có căn bản đón nhận những điều tốt đẹp ở phía trước, tu tập theo tiến trình chuyển hóa từ nhân đến quả. Người phật tử tu tập phải biết tin sâu nhân quả. Nếu chúng ta nghĩ, nói và làm theo điều xấu thì sẽ gặp điều chẳng tốt đẹp gì. Ngược lại, nếu chúng ta biết hằng tỉnh hằng giác để nghĩ, nói và làm điều tốt đẹp thì chắc chắn sẽ gặt hái những kết quả tốt đẹp. Hiểu và tin sâu như thế thì trong năm mới chúng ta sẽ là người rất hạnh phúc. Hạnh phúc ở trong tầm tay chứ không phải tưởng tượng ở nơi xa xôi nào cả.

Có nơi Tết đến, một số đệ tử Phật lại đi xem bói, coi quẻ, xin xăm , coi chỉ tay, coi chữ ký. Trong kinh Phật không bao giờ dạy điều này. Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp. Nhìn sâu, thấy rõ chúng ta mới có niềm tin để bước vào cuộc đời mà không bị giao động.

Chúng ta có những hoàn cảnh sống khác nhau, đây chính là biểu hiện của nghiệp lực, có người giàu kẻ nghèo, có người sang kẻ hèn, người đẹp kẻ xấu, người trí thức kẻ dốt chữ. Tất cả những hoàn cảnh chánh báo y báo đó được biểu hiện ra không phải là hình thức thưởng phạt của một đấng thượng đế nào, mà đó là vận hành tự nhiên của luật nhân quả, tạo ở kiếp trước biểu hiện ra ở kiếp này. Hiểu được như thế, chúng ta sẽ thấy rằng tương lai tươi sáng đang ở phía trước do chính mình tạo chứ không phải do cầu khẩn ở một đấng quyền năng nào.

Trong nhân gian, người đời coi ngày mồng một Tết là ngày quan trọng của đầu năm, còn nhà Phật xem đây là ngày đánh dấu sự có mặt của một vị Phật đương lai, đó là Bồ tát Di Lặc, nên mừng xuân năm mới chính là mừng Xuân Di Lặc. Tết đến xuân về, chúng ta càng khó quên được khi nhìn thấy nụ cười của Bồ tát Di Lặc. Ngài tuy bị lục tặc bủa vây nhưng vẫn luôn tươi cười tràn đầy hạnh phúc. Lục tặc đó là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứcý thức. Mắt thấy sắc sanh tâm. Tai nghe tiếng sanh tâm. Mũi ngửi mùi sanh tâm. Lưỡi nếm vị sanh tâm. Thân xúc chạm sanh tâm. Ý đối với các pháp sanh tâm, thành ra có những chủng tử hữu lậu phân biệt. Bởi thế, chúng ta gắng công tu tập để khi tiếp xúc với sáu trần cảnh mà vẫn duy trì được định lực, không chạy theo bóng màu của trần thế. Để đạt được như thế đòi hỏi chúng ta phải có một quá trình công phu dày dặn thì mới có thể đạt được trạng thái thường hỷ và thường xả.

Bồ tát Di Lặc có bốn đức: Từ, bi, hỷ, xả. Năm mới, chúng ta đảnh lễ Ngài là đảnh lễ bốn đức này, bốn đức này chúng ta đều có thể thực hiện được. Nếu như chúng ta nhìn thấy Bồ tát Di Lặc thì chúng ta phải nhớ bốn đức từ, bi, hỷ, xả nơi Ngài để thực hiện tu tập ở chính bản thân mình. Đó là ý nghĩa ngày vía Di Lặc đầu năm. Nếu chúng talòng từ bi, chúng ta tùy hỉbuông xả, không chứa chấp trong lòng bất cứ điều gì thì chính chúng tahiện thân của Bồ tát Di Lặc rồi.

Chúng ta không nên nghĩ rằng, Bồ tát Di Lặc là nhân vật của quá khứ, càng không nên nghĩ rằng, nếu lễ vía Ngài thì sẽ được Ngài phù hộ, ban cho những điều ước nguyện, hoặc phù hộ cho chúng ta mua may, bán đắt hoặc làm ăn phát tài, phát lộc. Nếu chúng ta không lo tu tập, không tạo nhơn mà chỉ cầu gia hộ, rồi chờ kết quả thì thật là vô lý. Đạo Phật không phải là đạo cầu xin, nên đầu năm quý Phật tử không nên đến chùa để van vái cầu xin. Hiểu được như thế chúng ta sẽ biết vì sao phải vía Bồ tát Di Lặc vào ngày đầu năm mà không phải là những ngày trong năm. Bởi vì ngày đầu năm khi được nhìn hình tượng của Ngài, chúng ta sẽ vô cùng phấn khởi, trong lòng thoát tục, không còn phiền não và trong năm chúng ta sẽ có được những nụ cười thoải mái, an nhiên để thường xuyên tu tập bốn đức tư,ø bi, hỷ, xả.

Từ, bi, hỷ, xả là những gì? Từ là ban vui; bi là cứu khổ; hỷ là chung mừng, chung vui và ngợi khen khi người khác được hạnh phúc, tốt đẹp, may mắn, giàu có, hưng thịnh, thì chúng ta cũng vui theo. Kẻ thù trực tiếp của đức tùy hỷ là ganh tị, đố kỵ. Nếu thấy một người khác làm được điều tốt, điều thiện, được may mắn hạnh phúc mà đem lòng ganh tị tức là đã gieo hạt giống không tốt vào tâm của mình. Còn nếu gặp người làm điều tốt mà tùy hỷ thì phước của mình cũng được bằng người đó. Xả là gì? Những trạng thái buồn, vui, thương, ghét, giận hờn đều lặng lẽ. Cảnh thuận không làm Bồ tát cao ngạo, Ngài không thất niệm, Ngài không sanh tâm vọng niệm nên buông xả một cách toàn diện. Một khi buông xả không còn chứa chấp trong lòng điều gì thì đó là tâm thiền định, tâm ở trạng thái nhập tĩnh, không còn bóng dáng của vọng tưởng, phiền não. Vậy Xả là trạng thái lặng yên của tâm thức. Xả là trạng thái không chấp trước. Chẳng hạn, người tu đạt được trạng thái tâm thiền định hoặc một quả vị gì thì trạng thái đó, quả vị đó, tâm thiền định đó cũng phải buông xả.

Bồ tát Di Lặc có nụ cười thoải mái. Ngài cười toe toét. Đó là nụ cười tươi tắn, lạc quan , thoát tục và không có bóng dáng của phiền não, khổ đau. Thân tướng của Ngài biểu hiện sung mãn, tri túc, không buồn phiền giận hờn thế nhân gì cả. Người thế gian mãi tôn xưng và quý trọng Ngài. Vào ngày Tết, người Phật tử nghe nhắc đến Ngài thì hết thảy trong lòng đều rất vui.

Bồ tát Di Lặc là vị Bồ tát Nhất sanh Bổ xứ. Ngài ở nội viện cung trời Đâu Suất. Ngài giáng sinh vào cõi Ta bà ở hội Long Hoa. Khi giáo pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni đến hồi tiêu diệt, không còn hiện hữu thì Ngài đản sanh. Kinh Di Lặc Thượng sanh và Di Lặc Hạ sanh nói rõ điều đó.

Ở đời nhà Tùy bên Trung Quốc có một vị xuất cách, vóc dáng mập tròn, bụng to, tai dài, miệng luôn cười toe toét, đó chính là Bố Đại Hòa thượng. Ngài là một thiền tăng, sống thoáng đạt, tính tình rộng rãi, cởi mở, cuộc sống bất định. Ngài thường rong ruổi khắp nơi, rày đây mai đó, vây quanh Ngài luôn có mấy đứa trẻ nghịch ngợm, nhưng Ngài rất thương chúng và coi chúng như con ruột của mình. Người ta chưa bao giờ thấy Ngài tỏ ra buồn giận phiền não vì khuôn mặt Ngài lúc nào cũng tươi cười. Tình thương của Ngài phi phàm. Nếu có ai khen chê hoặc phỉ báng, Ngài vẫn nở nụ cười trên môi. Nhiều người cho rằng Ngài là thiền sư. Hồi ấy, lúc ở chùa Nhạc Lâm, trong một khu rừng, trước lúc viên tịch Ngài đã cho gọi tất cả chúng tăng đến và bảo: “ Bây giờ các ngươi ở lại vui vẻ và ta sẽ ra đi.” Ngài để lại một bài kệ:

Di Lặc chơn Di Lặc
 Hóa thân thiên bách ức
 Thời thời thị thời nhơn
 Thời nhơn giai bất thức.”
 Nghĩa là:
 Di Lặc thật Di Lặc
 Phân thân trăm ngàn ức
 Thường hay chỉ dạy người
 Người đời không hay biết.

Sau đó Ngài kiết già trên tảng đá ở Nhạc Lâm Tựthị tịch tại chỗ. Đây chính là Hóa thân Di Lặc. Ngài dùng Ứùng Hóa thân trong các cõi để giáo hóa chúng sanh. Tóm lại, Bố Đại Hòa thượng chính là Ứng Hóa thân của Bồ tát Di LặcCung trời Đâu Suất.

Trải qua dòng lịch sử, vào thời chánh pháp, người ta tạc tượng Bồ tát Di Lặchình ảnh gần giống như Ngài Văn Thù hoặc Ngài Phổ Hiền. Đến nay thì tượng Bồ tát Di Lặc lại được tạc rất giống với hình ảnh Bố Đại Hòa thượng. Hình ảnh Ngài có khi đứng cầm bao bố to, có khi liệng bao bố xuống đất rồi đứng yên, hoặc ngồi lộ ngực có sáu em bé ở chung quanh. Về sau người đời thấy Ngài là nhân vật kiệt xuất, vì quá thần tượng và tôn sùng nên người ta tạc tượng Ngài trên tay có thỏi vàng, tay kia cầm gậy như ý, cổ đeo chuỗi tràng hạt. Theo thời gian, hình tượng Di Lặc ngày càng phong phúsinh động. Đến nay, hình tượng Ngài được nhân gian gắn liền với tiền tài phú quý là đã đi xa với nguồn gốc rồi.

Ngày đầu năm, Phật tử thường lễ vía Bồ tát Di Lặc để cầu xin ban cho họ những điều ước nguyện. Nếu hiểu được đạo lý, không làm điều ác, thường làm điều tốt, lợi mình lợi người thì sẽ an vui, hạnh phúc. Người Phật tử cần học theo hạnh Bồ tát với bốn đức từ, bi, hỷ, xả để bản thânmọi người cùng được cộng hưởng lợi ích, như câu:

 Nhứt nhân tác phước thiên nhân hưởng
 Độc thọ khai hoa vạn thọ hương.
Nghĩa là:
Một người làm phước ngàn người được hưởng
Một cây nở hoa muôn cây khác được thơm lây.

Nếu có nhiều người quy y giữ giới, hướng về Tam Bảo, tu đúng chánh pháp, có chánh kiến, đủ chánh tín thì lợi ích nhiều khôn kể xiết, nhà nước và chính quyền sẽ bớt lo, đất nước sẽ thái bình, đó chính là góp phần xây dựng quê hương đất nước. Nếu ai cũng tin vào nhân quả thì làng xóm yên ổn, hạn chế được tệ nạn xã hội, mọi người đều có lợi ích, có cuộc sống văn hóa, có tư tưởng lành mạnh, biết tu hành thì đó là điều đáng trân trọng và rất hạnh phúc. Cho nên chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội vì một kiếp người trôi qua rất mau chóng. Nếu không biết tu hành theo chánh pháp, lúc ra đi sẽ theo nghiệp mà thọ sanh không có ngày dừng.

Thiền viện Trúc Lâm Viên Ngộ
Phan Rang – Ninh Thuận
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10025)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10430)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10044)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20197)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11509)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13668)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 18905)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46534)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11995)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11551)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 22882)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17717)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10037)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17569)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13789)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 13924)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 14966)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20157)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18108)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17243)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18020)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12598)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12698)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13287)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16874)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11378)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18166)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18461)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21211)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 21952)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16735)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12469)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15230)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24336)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14131)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11528)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19512)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13277)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22678)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18875)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18343)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21488)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20434)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19901)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13954)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14910)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 15016)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17103)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15156)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12734)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15776)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12848)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13020)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 14932)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22493)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7066)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19227)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37373)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9042)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8524)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17747)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14794)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 26878)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19772)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15181)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15369)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26682)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14461)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19527)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14488)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18542)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15798)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16231)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19246)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19614)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19814)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18521)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29656)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14486)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17651)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32230)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15196)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17200)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29613)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31346)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64495)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32649)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20077)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18420)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30669)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19789)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45776)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32450)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39178)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40261)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 49921)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19011)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18454)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20581)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19306)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant