Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thư không gửi

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9271)
Thư không gửi

THƯ KHÔNG GỬI

Diệu Trân

Thưa Thầy,

Không biết đây là lá thư thứ mấy, con đã viết mà không bao giờ gửi đi, bởi vì, biết gửi về đâu để tới được tay Thầy?! Những thư trước đã đầy nước mắt, thư này có khô ráo được không?

blankChiều nay, quét lá ngoài vườn, con không ngớt nghĩ về con đường hẻm năm xưa, nơi một gia đình người miền Bắc di cư, được xóm người miền Nam đón nhận bằng tất cả ấm áp của tình người. Thầy ơi, con đường hẻm đó, đối với con đã thiêng liêng như con đường đất mấp mô dẫn ra bờ sông Ni Liên Thuyền khi sa-môn Gotama quyết định bỏ lối tu khổ hạnh. Ngài men xuống ven sông tắm gội như một hình thức làm mới lại tư tưởng, nhưng vì quá đuối sức sau nhiều ngày tháng ép xác, Ngài đã ngất xỉu trên đường trở lại khu rừng bên kia sông. May thay, một cô bé trong làng đang bưng mâm phẩm vật vào rừng cúng thần linh đã kịp nhìn thấy ông thầy tu khổ hạnh đó. Cô quỳ xuống dâng sữa. Giây lát, vị sa-môn tỉnh lại và cho cô biết Ngài là thái-tử con vua Tịnh Phạn, đã bỏ cung vàng điện ngọc ra đi tìm đạo.

Câu chuyện tuyệt vời này Thầy đã từng kể cho chúng con nghe nhưng năm xưa ấy, với lứa tuổi lên chín, lên mười, đám trẻ nhỏ trong xóm nghèo đâu có thấy hấp dẫn bằng chuyện Thạch Sanh-Lý Thông, Tấm Cám, Phạm Công-Cúc Hoa... với những tình tiết ly kỳ, những thắt mở hồi hộp hơn. Tuy thế, đám thiếu nhi Phật tử chúng con siêng đi chùa lắm vì tới chùa được bác Sáu cho oản chuối, được huynh Thiện Tâm dạy hát, dạy tụng kinh. Riêng hai chị em con, cứ cơm nước buổi tối xong là vào chùa vì chùa gần quá, qua nhà bà Hai bán gạo, nhà ông Năm xích lô, qua vườn rau của cô Bẩy thư ký, tới tiệm chạp phô chú Lìn là nhìn thấy mái chùa. Chùa nghèo lắm, hàng rào gỗ xiêu vẹo đã lâu, huynh Thiện Tâm chắp vá mãi vẫn xiêu vẹo, nói chi đến sơn lại những bờ tường rêu phong, loang lổ. Nhưng đất chùa rộng nên bác Sáu trồng đủ các loại rau, các loại bầu bí làm thực phẩm cho chùa; Rồi không biết do đâu, người trong xóm thấy rau trái nhiều đã tới xin mua lại khi họ cần. Bác Sáu đâu có bán! Bác Sáu bảo, ai cần thì cứ vào mà hái, cửa chùa có đóng bao giờ đâu. 

Chùa nghèo, dân trong xóm cũng nghèo nhưng ai vào chùa xin rau trái đều nhẹ nhàng bỏ vào thùng phước sương ít nhiều, tùy theo khả năng mình. Thật thân thương biết bao tình người, nghĩa đạo. Chùa nghèo như thế mà bác Sáu đã bế vào chùa hai đứa bé mồ côicha mẹ chúng bỏ trước sân chùa. Hai đứa bé đó là hai chú tiểu mà bác Sáu gọi tên là Tốt và Lành. Ngày đó, con cũng còn quá nhỏ, đâu có thắc mắc sao hai chú không có pháp danh đẹp đẽ như Thiện Tâm, Thiện Hữu, Thiện Tường ...... mà lại là Tốt, Lành? Hoặc hai chú cũng có mà con chưa bao giờ nghe? Nhưng chúng con thì được Thầy và bác Sáu gọi bằng pháp danh ngay sau khi quy y. Quy y là gì? Thuở ấy con nào hiểu, chỉ biết rằng, nhằm lễ Vu Lan, huynh Thiện Tâm bảo “Các em quy y với Thầy đi, các em sẽ chính thức là con của Phật, Thầy sẽ cho các em một cái tên mới, như khi cha mẹ sinh con ra đều đặt tên cho các con vậy”. 

Con biết chị Tư bán xôi có pháp danh là Diệu Hương, chị Chín thợ may có pháp danhDiệu Liên v... v... nên con nghe lời huynh Thiện Tâm, xin quy y cũng chỉ vì muốn được thầy cho một cái tên đẹp đẽ mà thôi! Ôi, tuổi nhỏ thơ ngây thật là tội lỗi! 

Nào phải con chỉ không thắc mắc pháp danh của hai chú tiểupháp danh của Thầy con cũng không hề biết! Bác Sáu là chị, thầy là em. Trong xóm gọi thầy là thầy Bẩy, chúng con cũng chỉ biết thế. Vào chùa chỉ biết vòng tay thưa “Lạy Thầy ạ”. Thế thôi! 

Sau khi chúng con quy y không bao lâu thì xóm nghèo đó ngập trong biển lửa vì nội chiến giữa lực lượng Bình Xuyên với chính quyền đương thời. Cả xóm đều chạy thoát nhưng tan tác muôn phương. Với bận rộn của tuổi học trò, với những sân ga, những bến đậu, những vui buồn của giòng sông tục lụy, con đã không hề trở lại xóm xưa, không biết Thầy đã đi đâu, về đâu !!!

Nửa thế kỷ đã trôi qua, nửa thế kỷ như một sát-na của kiếp sống, ở phút giây nào kỳ diệu đã bừng lên hai chữ “Diệu Trân” tận thẳm sâu tiềm thức. Khi bỗng chợt nhớ lại pháp danh của mình, con đã bật khóc nức nở, không phải chỉ khóc một lúc mà khóc một đêm, một ngày, nhiều đêm, nhiều ngày. Bất cứ biết có người quen nào về thăm quê hương, con đều nhờ tìm Thầy. Chùa xưa dù đã dựng lại sau hỏa hoạn nhưng Thầy không trụ ở đó nữa. Chưa tuyệt vọng, con lại nhờ tìm tông tích huynh Thiện Tâm nhưng huynh đã về quê xa xôi làm rẫy! Thầy như bóng chim bay ngang lưng trời, không để lại dấu vết gì, chỉ còn lại trong con hai chữ “Diệu Trân”, quằn quại tâm sám hối, không biết phải làm gì để đền đáp ơn Thầy?

Nơi xứ người, con khoác tấm áo lam lên thân tứ đại, tìm đến các chùa, làm công quả, từ xắt bí, gọt khoai, rửa chén bát, tới lau chùi nhà vệ sinh, quét dọn, đổ rác... Con im lặng làm việc mà trong lòng không ngớt nức nở hai tiếng “Thầy ơi!”. Con sợ nhất là khi thỉnh thoảng có người bạn đạo vô tình hỏi “Thầy Bổn-sư của Diệu Trân là ai?” hay “Tổ-đình Diệu Trân ở đâu?” con đều không kịp kìm giữ dòng nước mắt rào rạt trôi lăn. Một kẻ tự nhận là Phật tử mà không biết pháp danh của Thầy Bổn-sư, không biết Thầy nơi đâu, Tổ-đình nơi đâu, thì có xứng đáng là con Phật hay không?

Xong những công việc chấp tác, con mon men lên chánh điện, tìm một chỗ ngồi khiêm nhường nhất để được nghe giảng pháp. Dòng-Suối-Từ thầm lặng thẩm thấu vào sa-mạc mênh mông khổ não trong con, tới một ngày con bỗng hiểu rằng Thầy không chỉ là hình bóng Thầy Bẩy trụ trì ngôi chùa trong xóm nghèo mà Thầy còn là thời công-phu-sáng, thời kinh-trưa, thời thiền lặng lẽ khi khi trăng khuya bàng bạc bên khung cửa sổ. Thầy cũng là lời con phát nguyện khi tụng kinh Pháp-Hoa:

Con nay phát nguyện rộng
Thọ trì kinh Pháp-Hoa

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ tam-đồ”

bài kệ sáng ngời khi con tụng kinh Kim-Cang:

“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào ảnh

Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán”

là bài tán Hội Liên-Trì khi con tụng kinh A-Di-Đà:

Liên-Trì hải hội
Di Đà Như-Lai

Quan Âm Thế Chí tọa Liên-đài

Tiếp dẫn Thượng-kim-giai

Đại thệ hoằng khai

Phổ nguyện li trần ai”

là phút Quán Không, khi con tụng kinh Bát-Nhã, là Viên-Giác, Lăng-Nghiêm, Đại-Bảo-Đàn... Thầy vẫn ở cùng con trên từng lời Phật dạy. Thầy là người cha đã khai sinh ra con từ một bông hoa đặt nhẹ trên đỉnh đầu trong không gian tưới tẩm hương Vu Lan năm đó. Thầy nào có xa rời con? Thầy nào ngưng dạy dỗ? Chính Thầy đang dắt con tới từng đạo tràng, dạy con biết cách cúng dường, biết cách tu thân, biết nhận ra lỗi lầm, biết nhẫn nhục, biết tha thứ. Sao bấy lâu nay con không nhìn ra mà cứ đau khổ quằn quại “Thầy ơi! Thầy đâu?” trong tâm trạng đứa con lạc cha! Suốt nửa thế kỷ qua, con nào khác chi kẻ cùng tử trong phẩm “Tín Giải”, kinh Pháp-Hoa, không nhận ra cha mình dù cha đang ở trước mặt.

Thưa Thầy,

Thầy đã quá từ bikiên trì đối với một đệ tử vô minh tột cùng như con. Phải nửa thế kỷ, tấm màn vô minh mới hé cho con chút ánh sáng. Không thể tình cờ người bệnh chợt khỏe, trẻ nhỏ chợt lớn. mà chắc chắn phải có sự chăm sóc, nuôi dưỡng dưới hình thức nào đó. 

Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con trong mùa Vu Lan năm nào và nói: “Pháp danh con là Diệu Trân”. Cảm xúc kỳ diệu đó, mãi đến ngày nay con mới cảm nhận được. Con xin tạ ơn Thầy, Thầy Bổn-sư của con. Trong mầu nhiệm của những điều không thể dẫn giải bằng lý trí, con nay tin chắc rằng Thầy đã không ngừng dạy dỗ con. Ngay cả những người chỉ sống bằng lý trí, tuyệt đối không tin những gì thực tiễn mà họ không nhìn, nghe, sờ mó được, họ đều quên rằng họ có nhìn, nghe, sờ mó được không khí không? Nhưng họ đã không thể chối bỏ có không khí.

Viết thư này cho Thầy, con tưởng rằng sẽ lại khóc tầm tã như những lá-thư không-gửi trước. Nhưng Thầy ơi, con đang nghe được tiếng bầy sẻ lao xao bên bờ tường. Chúng không ríu rít ca ngâm như mấy ông bà thi sỹ tưởng tượng mà chúng đang gọi con, chỉ để xin cơm nguội. Con mang cơm cho chúng hàng ngày, con biết rõ mà. Những cây bưởi đang đơm hoa cũng kêu khát nước, con nghe từng nhánh lá réo gọi dưới nắng hè chói chang; và những bông súng đang kèn cựa, xô đẩy những nụ sen đầu mùa rất thư thảvững chãi, nhô lên khỏi mặt nước. Thầy đang dạy con những bài học khó hơn, phải quán tưởng sâu sa hơn, lắng tâm tĩnh lặng hơn mới thấy được sự chia xẻ thân thương của vạn hữu quanh ta. Khi thấy được điều đó, ta sẽ không còn cô đơn nữa.

Thưa Thầy,

Từ nay con đã có câu trả lời khi các bạn đạo hỏi: 
- Thầy Bổn-sư của Diệu Trân là ai?
- Thưa, Thầy Bổn-sư của tôi là những vị dạy tôi biết nhận ra Phật tánh của mình.
- Tổ-đình của Diệu Trân ở đâu?
- Thưa, Tổ-đình của tôi là nơi Phật Pháp được rao giảng, như tinh thần phẩm “Hiện Bảo Tháp” trong kinh Pháp-Hoa, Phật Đa Bảo đã phát nguyện: “Nơi đâu có vị Phật thuyết kinh Pháp-Hoa, tôi sẽ hiện tháp nơi đó để tán thán”. 

Trong không gian thơm ngát hương đạo vị, con cảm nhận rất rõ Thầy vừa dạy con điều ấy.

Con xin quỳ xuống, kính cẩn năm vóc tạ ơn Thầy.

Đệ tử của Thầy
Diệu Trân
(Vu Lan 2006)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19430)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18542)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16065)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29879)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25468)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21612)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17816)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20830)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26341)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33332)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52160)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22882)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23415)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39658)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21795)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22386)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6841)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22736)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69815)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44016)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23082)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35043)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44100)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42920)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44430)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24917)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24361)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39219)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39242)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17259)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18049)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19269)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35679)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24222)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19596)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20409)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18316)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19007)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18946)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17478)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19323)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30840)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19194)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20532)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19564)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19771)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29831)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17839)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19414)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19887)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58774)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24409)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23523)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39770)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26722)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40767)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22873)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22923)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21599)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18625)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22600)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21090)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19219)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20936)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20336)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30558)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20192)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17473)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16604)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16861)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14966)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14842)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22871)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16048)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16212)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15262)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26120)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17195)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15798)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19776)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17677)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14688)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14740)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19134)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15124)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33067)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17492)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19129)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21826)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23011)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16624)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16471)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16521)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22998)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26397)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12753)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29520)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27725)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25923)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18466)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant