Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vu lan và Rằm tháng bảy trong tinh thần dân tộc

19 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8814)
Vu lan và Rằm tháng bảy trong tinh thần dân tộc
image

Trước khi đặt bút viết bài này, ngoài một số vốn liếng ít ỏi tri thức Phật học, người viết đã tham cứu nhiều tài liệu, kinh sách có liên quan đến ý nghĩa lễ Vu Lan - Rằm Tháng bảy.

Tựu trung và cộng lại, chúng tôi thấy toát lên một điểm sáng lung linh trong khái niệm sống thực tại của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà với những tài liệu phong phú kia, đã nêu bật được chất keo gắn bó giữa ảnh hưởng Phật giáo với xã hội, con người qua nhiều thời đại.

Vâng! Những điều đó các bậc thức giả, các bậc sư trưởng đều đã nói hết rồi, không còn khe trống để hàng hậu sinh chúng tôi góp phần tô điểm. Đã đẹp, đã trở thành điều hiển nhiên rồi; hiển nhiên tới mức đôi khi chúng ta quên rằng chính nó đã trở thành ca dao dân tộc:

Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân

Không phải là thứ ca dao biền ngẫu đệm vần cho qua câu để tạo mở, tôn tạo cho ý đồ chính. Không viết đủ hẳn trong chúng ta ai cũng biết đó là ca dao theo kiểu “liên khúc” nói về lịch sinh hoạt 12 tháng trong một năm, mà nền văn minh nông nghiệp của xã hội Việt Nam ta xưa nay không thể chối cãi được.

Đã vậy, ”Tháng Bảy Ngày Rằm…”, câu nổi bật nhất không chỉ vì nó đã nói lên được ý nghĩa về một ngày lễ của Phật giáo, mà còn đưa ra tính nghiêm túc, thể hiện cách sống cộng đồng, ngoài sinh hoạt, vui chơi, ăn uống, mùa màng và thời vụ so với 11 tháng còn lại kia.

Nó đã trở thành lịch sinh hoạt hằng năm của dân tộc, kể từ khi dấu chân tích trượng của các Thiền sư đã đến và lưu dấu trên xứ sở Giao Châu này hơn 20 thế kỷ trước. Điều đó cho chúng ta thấy được rằng Phật giáo đã và luôn biết thích ứng để “nhập sông tùy khúc, nhập gia tùy tục” rất tuyệt vời khế lý khế cơ, không gây ra sự dị ứng, đối kháng.

Bởi vì, không phải dễ dàng “được” có mặt trong ca dao, tục ngữ, trong tâm khảm đời sống dân tộc, mà bất kỳ sự gượng ép, hoặc cố tình dùng thủ doạn để đạt được sẽ trở thành nạn nhân bị nghiền nát bởi bánh xe lịch sử khắc nghiệt.

Đặc biệt hơn, sự có mặt của Phật giáo trong ca dao 12 tháng kia, và ngay trong nếp sống cộng đồng dân tộc, còn mang một ý nghĩa to lớn khác, thể hiện được tính chân lý thực tiễn, vượt lên trên sự tôn kính thời nguyên sơ, khi con người tự cho mình còn nhỏ bé trước thiên nhiên.

Đó là thời kỳ dựng nước họ Hồng Bàng mà sách Lĩnh Nam Chích Quái đã kể lại; cái thời mà chính Lạc Long Quân phải dùng đến vạn phép thần thông biến hóa mới đuổi được kẻ xâm lăng phía Bắc đầu tiên là Đế-Lai ra khỏi bờ cõi.

Và cái thời mà mọi thứ yêu tinh thường xuất hiện quấy nhiễu dân lành, để đến nỗi phải tôn lên hàng thần thánh, kể cả tiếng sấm sét. Những Thần sông, thần nước, núi, gió, lửa .v…v.. đã có mặt chễm chệ trước sự quy phục con người thờ lạy.

Muốn sống còn, để dựng nước, cứu nước và làm ăn sinh sống, con người lúc ấy khi lên rừng xuống biển, tất phải xâm mình hình ảnh thủy quái, sơn tinh.v…v…

Như vậy, lịch sử PGVN có mặt và phát triển chỉ bằng phân nửa lịch sử dựng nước của con cháu Lạc Long Quânngẫu nhiên đánh bại được sơn tinh thủy quái trong truyền thuyết, đời sống lẫn trong tâm khảm con người, thay vào đó tôn tạo được ý sống, cách sống mới, phù hợp với lòng người, với sự khổ đau và với hiện trạng cuộc sống đương thời.

Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời, xứng đáng với phạm trù ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC; đó là sự thật được lịch sử chứng minh CÁI PHẬT GIÁO CÓ trong lòng dân tộc mình.

Lễ Vu Lan-Rằm Tháng Bảy được xác lập từ trong ý nghĩa đó. Tình cảm và đạo lý dân tộc ta vẫn luôn rộng mở; với thù, với bạn cũng chung cùng “Dòng nước mắt cùng mặn - Dòng máu đỏ” như nhau. Những “Thương người như thể thương thân”, “Mình với ta tuy hai mà một”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng…” v..v… há chẳng phải đạo lý Phật giáo đó sao!

Tương tự, khi đứng trước một hoàn cảnh bi thương nào đó, từ trong cửa miệng của dân ta há đã chẵng thốt lên câu đầu tiên “Tội Nghiệp”, bao hàm ý nghĩa to lớn, biểu lộ lòng lân mẫn, tương thân tương ái đó sao?

Nói cách khác, Phật giáo đã đáp ứng được một phần rất lớn tình cảm và niềm tin trong cộng đồng dân tộc, trở nên nguồn hòa nhập mật thiết trong mọi lĩnh vực. Cho dù là không Phật giáo, đến rằm tháng bảy, ai ai cũng đều tỏ ra tha thiết với sự hiếu để, cũng như tỏ lòng ai hoài mong xá tội vong nhân đối với thế giới xa xăm nào đó, tùy theo trình độ nhận thức cảnh giới địa ngục.

Nếu hiểu theo quan niệm vượt hóa, chúng ta sẽ dễ dàng đồng cảm những dòng sau đây của cố HT Thích trí Thủ (đăng trong Nội San Bát Nhã số 5 của Tổng vụ Tài Chánh trước năm 1975):

“Những cơn mưa dầm tháng bảy, trời âm u, bão và lụt đã bắt đầu, ngày dài của mùa hè rút ngắn lại, trời đất đang xoay tới khoảng thăng bằng, làm nhịp cầu giao cảm thiên thu giữa cõi sống và cõi chết.

Người chết đã buông tay rũ sạch những tham vọng của một đời, cho lá vàng rụng xuống. Người sống vẫn tiếp tục lượm nhặt lá vàng, xây những tham vọng cuồng dại mới.

Kiếp luân hồi kéo dài bất tận, người sống và kẻ chết nối nhau thành một ”đoàn vô tư lạc loài nheo nhóc”, cùng lang thang vô định trên “con đường bạch dương bóng chiều man mác”.

“Rằm tháng bảy, một ngày hội âm thầm của những oan hồn mà sống đã không nói được khát vọng của mình, và chết cũng không có lời để ta thán.

Nếu dương gian còn phảng phất một chút tình người, còn tưởng nhớ đến ân tình một thuở, thì một hạt muối và một bát nước trong cũng đủ rửa sạch cái oan khí tương truyền ngàn năm treo ngược.

“Vu Lan Thắng Hội, ngày hội cứu đảo huyền, ngày giải tỏa oan khiên treo ngược tội nhân trên rừng đao, biển lửa. Trong ngày đó, mười phương chư Phật đều nở nụ cười hoan hỷ, vì là ngày tha thứ giữa những người còn sống, biết cởi bỏ hận thù ràng buộc để sống, còn có ngày hội nào vui hơn, trước cái hứa hẹn một thế giới thanh bình có thể có?

Oan khiên trở thành ân nghĩa. Ân của trời đất, ân của cỏ cây, ân của đồng loại; ân nghĩa ấy đã thắt chặt tình người qua bao nhiêu kiếp, sao nhất thời lại có thể hờ hững trôi qua?

“Trong khoảng trời đất mịt mù, giữa những đêm dài lạnh lẽo, người chết còn biết trở lại dương gian xin một bát nước để rửa sạch oan khiên treo ngược, há người còn sống lại không biết âm thầm nở nụ cười hoan hỷ và tha thứ?”.

Đọc những dòng trên bằng cả một tấm lòng vị tha rộng mở, chúng ta đã thấy ra được phần nào ý nghĩa to lớn của ngày lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy. Như vậy, địa ngục thường mang ý nghĩa của một vai trò chủ đạo khi nhắc đến Vu Lan - Rằm Tháng Bảy, từ đó chúng ta khởi niệm và đồng cảm với tha nhân một cách dễ dàng, bởi địa ngục có là do sự cảm vời mà ra, như kinh Địa Tạng thường được Đức Phật lặp lại nhiều lần.

Hay nói như một danh nhân thế giớiĐịa ngục là do chân lý được nhìn ra quá trễ”. Do đó, Tagore-một nhà thơ lừng lẫy của Ấn Độ từng biểu cảm bằng ngôn ngữ triết lý qua câu thơ “Trong cái chết thì nhiều biến thành một, trong sự sống thì một biến thành nhiều“.

Thương yêu vượt qua biên giới của sự sống chết, mà địa ngục chỉ là phạm trù gạch nối, không phải là dấu chấm hết khẳng định.

Cúng rằm tháng bảy có nghĩa là chia sớt sự sống cho cảnh giới khác mà nhân gian thường gọi là “Cô Hồn Uổng Tử” còn vất vưởng chờ định và thọ nghiệp. Từ đó con người khi quay lại cuộc sống thực tại đời thường, chắc rằng không ai là không lân cảm với đồng loại.

Ý nghĩa đó là một chân lý tuyệt hảo của nhân loại đã sống và đã thực hành, dù không cùng chính kiến, giai cấp xã hội hay bất kỳ chủ thuyết tôn giáo nào.

Một ngày mà chúng ta không thắp lên ngọn lửa thương yêu,vì thế có biết bao nhiêu người chết vì giá lạnh“. Francois Mauriac cũng đã phải thốt lên như vậy .

Dân tộc chúng ta vốn có truyền thống đạo đức cao thượng, hiếu nghĩa vẹn tròn, khi tiếp nhận tư tưởng Phật giáo nói chung và Lễ Vu Lan nói riêng, đó là sự dung nạp lý tưởng đạo đức thuần nhất để hun đúc nên nếp sống chung cộng đồng.

Tuy nhiên sự hòa nhập đó trong qua trình phát triển vẫn không tránh khỏi sự đố kỵ, đôi lúc dẫn đến nguy vong bởi các khuynh hướng Nho - Khổng.

Mặc dù hệ tưởng này không mấy khác biệt với Phật giáo, phần lớn chung một nền tảng đạo lý phương Đông, nhưng ở tư tưởng Phật giáo thì cởi mở, phóng khoáng hơn, nên những đối kháng kia chỉ là trở ngại nhất thời trong một giai đoạn lịch sử.

Dù vậy khi có ưu thếquốc giáo - nói đúng hơn khi Phật giáo ở những thời kỳ cực thịnh bởi các hàng từ vua quan đến thứ dân đều tín hướng Phật đà, Phật giáo vẫn không ỷ thế cậy quyền đè bẹp các tư tưởng tôn giáo khác, ngược lại còn chủ trương “Tam Giáo Đồng nguyên”.

Những tư tưởng bài xích Phật giáo còn lưu lại điển hình như Trương Hán Siêu ghi trong Linh Tế Tháp Ký, Quang Nghiêm Tự Bi Văn; Hàn Dũ (Trung Hoa,768-823) với bài biểu Can Vua Đón Xương (Xá lợi) Phật; Lê Quát Mai Phong với bài Văn Bia chùa Thiệu Phúc, Thôn Bái, tỉnh Bắc Giang .v..v… đã không đủ sức đánh bạt làn gió đạo đức Phật giáo đang thổi mạnh khắp nơi, từ kinh thành đến những làng quê hẻo lánh.

Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi các bài trong Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi - bậc đại công thần nhà Lê ra đời với nội dung “Thương Người Như Thể Thương Thân phủ trùm tinh thần vị tha của Phật giáo. Chưa hết, trong kho tàng truyện cổ tích VN, không hiếm chuyện khắc họa hình tượng Ông Bụt (một dạng phương ngữ hóa từ chữ Phật) làm chủ thể ban thưởng cái thiện, Nhất là chuyện “Cây Nêu Ngày Tết”, chiếc y vàng của Phật với cái bóng ngả dài là dải đất yên bình cho người dân sinh sống.

Đó là những tiềm ấn sâu xa minh chứng cho sức sống trường tồn của Phật giáo. Cụ Tố Như Nguyễn Du, trong tuyệt tác truyện Kiều đều lấy triết lý Phật giáo làm nền tảng. Ngay đoạn mở đầu cũng phải dùng đến tư tưởng tài mệnh tương đố và kết thúc bằng sự khẳng định nhân - quả hẳn hoi.

Vì vậy nào phải ngẫu nhiên khi Cụ viết rằng:

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần hay xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài

(Truyện Kiều, câu 3249-3253)

Bên cạnh đó còn phải kể đến bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Đọc bài này, người ta càng ngạc nhiên hơn nếu cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều vì ảnh hưởng Phật giáo thì hoàn toàn lầm lẫn. Bởi vì ngôn ngữ, ngụ ý của bài Văn Tế Thập Loại chúng Sinh vô cùng chính xác, tứ cách diễn đạt các thế giới cho đến các từ Phật học, mà nếu không tường tận gốc tích tác giả, người ta dễ ngộ nhận cho đó là của một vị cao tăng nào đó viết. Thí Dụ :

Trời tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh ngắt xương khô
Nào người thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Dọc đường đê lác đác sương sa
Lòng não lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khí thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh 
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người…

…Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ nại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật hữu tình từ bi tế độ
Chớ ngại rằng có của cùng không
Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng
Nam Mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Trên là một vài dẫn dụ cho sức sống PGVN trong lòng dân tộc, đã tạo nên nét đẹp truyền thống văn hóa từ bao nhiêu thế kỷ nay. Vì thế Lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy không còn là của riêng Phật giáo, mà đã trở thành “Lịch Sinh Hoạt” hằng năm của người VN.

Theo đánh giá của Giáo sư Hoàng Như Mai thì “Ngày Lễ Vu Lan, Ngày rằm Tháng Bảy, Ngày Xá tội Vong Nhân có thể được coi là NGÀY TÌNH THƯƠNG VIỆT NAMcon người. Vì cuộc sống hiền hòa, an lạc, tiến bộ của con người“ (nguồn: Lễ Vu LanTình Thương của nhân dân ta, Hoàng Như Mai - Tập Văn Vu Lan 2531-1987).

Hơn thế nữa, một sự khẳng định tất yếu của lịch sử,ngày 26/01/1995, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao nước CHXHCNVN dõng dạc tuyên bố “…Phật tử Việt Nam là những người yêu nước, luôn luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía tổ quốc đấu tranh chống ngoại xâm. ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI VN KHÔNG CHỈ LÀ MỘT TÔN GIÁO MÀ CÒN LÀ MỘT BỘ PHẬN CỦA NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC TRUYỀN THỐNG.” (Nguồn: Báo SGGP-TTXVN ngày 26/01/1995).

Với niềm tin son sắt đó, với lòng tín hướng Phật Đà, một lần nữa chúng ta đón mừng ngày Lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy trên đất nước VN thân yêu với đủ đầy niềm tự hào song hành cùng dân tộc.

DƯƠNG KINH THÀNH

 (Ban Phật Giáo Việt Nam-Viện Nghiên Cứu Phật Học VN)

 ----------------------------------------------------

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31682)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10536)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11236)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12768)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10816)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16678)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10826)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22977)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12035)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11504)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10695)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12346)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11202)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10030)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11929)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12381)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9822)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11281)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13849)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9584)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9709)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10471)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10574)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10338)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9912)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11065)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10793)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9904)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8775)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9505)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14532)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12565)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10565)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9340)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10526)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9701)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19152)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8992)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14766)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10103)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8958)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8747)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14608)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9046)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9053)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10539)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10002)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24291)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10182)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9008)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9478)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8009)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9279)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15352)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10344)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9592)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12173)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7983)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9541)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18689)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12372)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10764)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13352)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10007)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9398)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15909)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant