THIỀN
SƯ TRUNG HOA
HT
Thích Thanh Từ
TẬP 1
ĐỜI THỨ TƯ SAU LỤC TỔ
B.
Phái Hoài Nhượng
43.
THIỀN SƯ TÙNG THẨM
Triệu
Châu - (778 - 897)
Sư
họ Hác, quê ở làng Hác, thuộc Tào Châu. Lúc bé Sư xuất
gia ở Hỗ Thông Viện tại bản châu, nhưng chưa thọ giới.
Sư tìm đến Trì Dương tham vấn Nam Tuyền (Phổ Nguyện) gặp
lúc Nam Tuyền nằm nghỉ, mà vẫn hỏi:
- Vừa
rời chỗ nào?
Sư
thưa:- Vừa rời Ðoan Tượng.
- Thấy
Ðoan Tượng chăng?
- Chẳng
thấy Ðoan Tượng, chỉ thấy Như Lai nằm.
- Ngươi
là Sa-di có chủ hay không chủ?
- Sa-di
có chủ.
- Chủ
ở chỗ nào?
- Giữa
mùa đông rất lạnh, ngưỡng mong tôn thể Hòa thượng được
muôn phước.
Nam
Tuyền khen ngợi liền nhận vào chúng.
*
Sư
hỏi Nam Tuyền:- Thế nào là đạo?
Nam
Tuyền đáp:- Tâm bình thường là đạo.
- Lại
có thể nhằm tiến đến chăng?
- Nghĩ
nhằm tiến đến là trái.
- Khi
chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?
- Ðạo
chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không
biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như
hư không thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy?
Ngay
câu nói này Sư ngộ lý.
*
Sư
đến đàn Lưu Ly tại Tung Nhạc thọ giới. Thọ giới xong,
Sư trở lại Nam Tuyền.
Sư
hỏi Nam Tuyền:- Biết có người ấy đến chỗ nào an nghỉ?
Nam
Tuyền bảo:- Ðến nhà đàn việt dưới núi làm con trâu đi.
- Cảm
tạ Thầy chỉ dạy.
- Ðêm
qua canh ba trăng soi cửa.
*
Sư
đến Hoàng Bá (Hy Vận). Hoàng Bá thấy Sư đến liền đóng
cửa phương trượng. Sư lấy lửa đem vào pháp đường kêu:
- Cứu
lửa! cứu lửa!
Hoàng
Bá mở cửa, nắm Sư đứng lại, bảo:- Nói! nói!
Sư
bảo:- Cướp qua rồi mới trương cung.
*
Sư
đến Ðạo Ngô (Viên Trí), vừa vào nhà, Ðạo Ngô nói:
- Mũi
tên Nam Tuyền đến!
Sư
bảo:- Xem tên!
Ðạo
Ngô nói:- Trật.
Sư
bảo:- Trúng.
*
Sư
đến Giáp Sơn (Thiện Hội) cầm gậy vào pháp đường.
Giáp
Sơn hỏi:- Làm gì?
Sư
đáp:- Dò nước.
Giáp
Sơn bảo:- Một nhỏ cũng không, dò cái gì?
Sư
chống gậy đi ra.
*
Sau
khi được Nam Tuyền ấn khả, Sư về Tào Châu thăm bổn sư.
Những người quen thuộc hay tin Sư về đều muốn đến thăm,
Sư nghe được bèn nói:
- Lưới
ái trần tục không có ngày dứt được, ta đã từ bỏ xuất
gia, không muốn gặp lại.
Sư
liền mang bát cầm gậy dạo khắp các nơi. Sư thường nói:
- Trẻ
con bảy tuổi hơn ta thì ta hỏi nó, ông già trăm tuổi chẳng
bằng ta thì ta dạy họ.
*
Sau
chúng thỉnh Sư ở viện Quan Âm tại Triệu Châu. Có vị Tăng
hỏi:
- Thế
nào là Phật?
Sư
bảo:- Ở trong điện.
- Trong
điện đâu không phải bùn đất đắp thành tượng?
- Phải.
- Thế
nào là Phật?
- Ở
trong điện.
- Con
mê muội xin Thầy chỉ dạy.
- Ăn
cháo xong chưa?
- Ăn
cháo xong.
- Rửa
chén bát đi!
Tăng
nhân đây đại ngộ.
*
Sư
thượng đường dạy chúng:
- Như
minh châu trong tay, Hồ đến thì hiện Hồ, Hán đến thì hiện
Hán. Lão tăng nắm một nắm cỏ dùng làm thân vàng (thân Phật)
một trượng sáu, đem thân vàng một trượng sáu dùng làm
nắm cỏ, Phật là phiền não, phiền não là Phật.
Có
vị Tăng đứng lên hỏi:- Chưa biết Phật là phiền não của
ai?
Sư
đáp:- Là phiền não của tất cả người.
- Làm
sao khỏi được?
- Dùng
khỏi làm gì?
*
Có
người hỏi:- Con chó có Phật tánh không?
Sư
đáp:- Không.
- Trên
đến chư Phật, dưới đến loài trùng kiến đều có Phật
tánh, vì sao con chó không có Phật tánh?
- Vì
nó còn có nghiệp thức.
Lại,
có người hỏi:- Con chó có Phật tánh không?
Sư
đáp:- Có.
- Ðã
có Phật tánh vì sao chui vào trong đãy da?
- Vì
biết mà cố phạm.
*
Sư
hỏi vị Tăng mới đến:- Từng đến đây chưa?
Tăng
thưa:- Từng đến.
- Uống
trà đi!
Sư
lại hỏi Tăng:- Từng đến đây chưa?
Tăng
thưa:- Chưa từng đến.
- Uống
trà đi!
Sau
Viện chủ hỏi Sư:
- Vì
sao từng đến dạy uống trà đi, chưa từng đến cũng dạy
uống trà đi?
Sư
gọi:- Viện chủ!
Viện
chủ đáp:- Dạ!
Sư
bảo:- Uống trà đi!
*
Sư
cầm chổi quét đất, có người hỏi:
- Hòa
thượng là thiện tri thức vì sao có bụi?
Sư
bảo:- Bên ngoài đến.
- Già-lam
thanh tịnh vì sao có bụi?
- Lại
có một điểm.
*
Có
ông Tú tài đến hỏi Sư:
- Phật
chẳng trái sở nguyện của chúng sanh phải chăng?
Sư
đáp:- Phải.
- Con
muốn xin cây gậy trong tay Hòa thượng được chăng?
- Người
quân tử không đoạt cái sở thích của người.
- Con
không phải là quân tử.
- Ta
cũng chẳng phải là Phật.
*
Có
người hỏi:
- Ðã
lâu nghe tiếng cầu đá Triệu Châu, nay đến chỉ thấy cầu
nổi.
Sư
bảo:- Ông chỉ thấy cầu nổi mà không thấy cầu đá.
- Thế
nào là cầu đá?
- Ðộ
lừa độ ngựa.
- Thế
nào là cầu nổi?
- Mỗi
mỗi độ người.
*
Sư
dạy chúng:
- Vừa
có phải quấy thì lăng xăng mất tâm, lại có người đáp
thoại (câu nói) hay chăng?
Có
vị Tăng bước ra vỗ thị giả một cái, nói:
- Sao
không đáp Hòa thượng?
Sư
liền vào phương trượng.
Sau,
thị giả thưa:
- Vừa
rồi có vị Tăng làm thế ấy là hội hay chẳng hội?
Sư
bảo:- Ngồi thấy đứng, đứng thấy ngồi.
*
Sư
dạy chúng:
- Ðạo
chẳng khó, chỉ hiềm lựa chọn, vừa có nói năng là lựa
chọn, là minh bạch. Lão tăng chẳng ở trong minh bạch, các
ngươi lại tiếc giữ chăng?
Có
vị Tăng đứng ra hỏi:
- Ðã
chẳng ở trong minh bạch thì tiếc giữ cái gì?
Sư
bảo:- Ta cũng chẳng biết.
- Hòa
thượng đã chẳng biết, vì sao chẳng ở trong minh bạch?
- Hỏi
việc thì được, lễ bái xong lui ra.
*
Quan
Ðại phu họ Mã đến hỏi:- Hòa thượng có tu hành chăng?
Sư
đáp:- Lão tăng nếu tu hành là việc họa.
- Hòa
thượng đã chẳng tu hành thì dạy người nào tu hành?
- Ðại
phu là người tu hành.
- Con
sao bảo là tu hành?
- Nếu
không tu hành thì đâu được đánh đập người, ở trong địa
vị nhân vương đói có cơm, lạnh có áo, không biết ngày
ra khỏi.
Ðại
phu nghe cảm động rơi nước mắt, lễ tạ Sư.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Trong mười hai giờ dụng tâm thế nào?
Sư
đáp:- Ngươi bị mười hai giờ sai khiến, ta sai khiến được
mười hai giờ.
Sư
bèn nói:
- Huynh
đệ! Chớ đứng lâu. Có việc thì thương lượng, không việc
thì đến nhà sau ngồi, tìm xét lý là tốt. Lão tăng lúc đi
hành khước, trừ hai thời cơm cháo là tạp dụng tâm, ngoài
ra không có dụng tâm khác. Nếu chẳng như thế rất là xa
vậy.
*
Sư
thượng đường dạy chúng:
- Phật
vàng không độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được
lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi
ở trong. Bồ-đề Niết-bàn Chân như Phật tánh trọn là y
phục đắp vào thân, cũng gọi phiền não, thật tế lý địa
để ở chỗ nào? Một tâm chẳng sanh, muôn pháp không lỗi.
Ngươi cứ nghiên cứu lý này, ngồi quán xét hai ba mươi năm,
nếu chẳng hội thì chặt đầu Lão tăng đi! Nhọc nhằn nắm
bắt mộng huyễn không hoa, tâm nếu chẳng khác thì muôn pháp
nhất như. Ðã chẳng từ ngoài được thì câu chấp làm gì?
Giống in như con dê gặp vật gì cũng liếm cũng nhai. Lão tăng
thấy Hòa thượng Dược Sơn (Duy Nghiễm) có người hỏi, Ngài
liền bảo "ngậm lấy miệng chó". Lão Tăng cũng dạy: "Ngậm
miệng chó." Chấp ngã thì nhơ, không chấp ngã thì sạch, giống
như con chó săn tìm kiếm vật để ăn. Phật pháp ở chỗ
nào? Ngàn người muôn người thảy đều là kẻ tìm Phật,
mà ở trong đó tìm một đạo nhân (người học đạo thật)
không có. Nếu cùng vua KHÔNG làm đệ tử, chớ bảo tâm bệnh
khó trị. Khi chưa có thế giới, trước đã có tánh này, khi
thế giới hoại, tánh này chẳng hoại. Một phen được thấy
Lão tăng, sau lại chẳng phải người khác, chỉ là chủ nhân
này. Cái đó lại hướng ngoài tìm làm gì? Khi ấy chớ xoa
đầu moi óc, nếu xoa đầu moi óc liền mất vậy.
Có
vị Tăng hỏi:
- Theo
lời Thầy dạy "khi thế giới hoại, tánh này chẳng hoại",
thế nào là tánh này?
Sư
đáp:- Tứ đại ngũ uẩn.
- Các
thứ ấy vẫn là hoại, thế nào là tánh này?
- Tứ
đại ngũ uẩn.
*
Có
vị Tăng đến từ giã Sư. Sư hỏi:- Ði đâu?
Tăng
thưa:- Ðến Tuyết Phong.
- Tuyết
Phong nếu hỏi ngươi: "Hòa thượng dạy những lời gì", ngươi
đáp thế nào?
- Con
nói chẳng được, thỉnh Hòa thượng nói.
- Ðông
thì nói lạnh, hạ thì nói nóng.
Sư
lại hỏi:- Tuyết Phong lại hỏi ngươi: "việc cứu kính thế
nào".
- Con
nói chẳng được.
- Chỉ
nói: chính từ Triệu Châu lại, chẳng phải miệng người
truyền.
Vị
Tăng ấy đến Tuyết Phong thuật lại cho Tuyết Phong nghe.
Tuyết
Phong bảo:- Phải là Triệu Châu mới được.
*
Thời
gian trụ trì tại viện Quan Âm, có vua nước Yên, nước Triệu
đồng đến ra mắt Sư. Sư vẫn ngồi tiếp, không đứng dậy.
Vua Yên hỏi:
- Nhân
vương đáng tôn trọng hay Pháp vương đáng tôn trọng?
Sư
đáp:
- Nếu
ở trong nhân vương thì Nhân vương trọng, nếu ở trong pháp
vương thì Pháp vương trọng.
Hai
vua nghe rồi đều vui vẻ kính phục và đồng cúng dường.
*
Sư
học theo người xưa trụ trì rất kham khổ, trong Tăng đường
trước sau trống rỗng không có bàn ghế, chỉ nằm cái giường
dây gãy một góc, lấy dây ràng rịt lại. Có người xin đóng
giường mới, Sư không cho. Trụ trì hơn bốn mươi năm, Sư
chưa từng biên một lá thơ cho thí chủ.
*
Niên
hiệu Càng Ninh năm thứ tư đời Ðường (894 T.L.), ngày mùng
hai tháng mười một, Sư nằm nghiêng bên mặt an nhiên thị
tịch, Sư thọ một trăm hai mươi tuổi. Vua ban hiệu là Chơn
Tế Ðại sư.
8.
THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã
Tổ - (709 - 788)
Vì
người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi
là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sư
họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư
dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài
khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa
La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau
Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðời
Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập
thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền
sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham
học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm
ấn.
Sau
khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật
Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam
Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung
và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá
tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất
đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Các
ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm
Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng
thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh
Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên
đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh
Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."
(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng
có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện
chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có
tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều
là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm
không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các
ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không
có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh
ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng
sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm
mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,
đâu còn có việc gì.
Các
ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư
đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Con
nít nín rồi thì thế nào?
- Phi
tâm phi Phật.
- Người
trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói
với y là "phi vật".
- Khi
chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy
dạy y thể hội đại đạo.
*
Có
vị Tăng hỏi:
- Ly
tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang?
Sư
đáp:
- Hôm
nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi
Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí
Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng
đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí
Tạng hỏi:
- Hôm
nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh
Hải.
Tăng
đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng
chẳng hội.
Tăng
trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu
hắc.
*
Cư
sĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nước
không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này
thế nào?
Sư
đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân
xương?
Uẩn
bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn
lên!
Sư
liền nhìn thẳng xuống.
Uẩn
nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư
liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.
Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một
đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư
hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí
Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài
Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ
Nguyện phủi áo ra đi.
Sư
bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện
vượt ngoài sự vật.
*
Hoài
Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư
đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư
lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài
Hải dựng đứng cây phất tử.
Sư
bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài
Hải ném cây phất tử xuống.
*
Tăng
hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sư
đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng
hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư
liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ
cười ta.
*
Ðặng
Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn
Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- Ðường
Thạch Ðầu trơn.
- Có
cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn
Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một
vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy
là tông chỉ gì?
Thạch
Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi
nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi
"hư! hư!"
Ẩn
Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch
Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta
đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có
vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư
hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi
giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu
không phải là sư tử con?
- Không
dám.
Sư
thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng
sư nói:- Ðây là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ra khỏi hang.
Sư
bèn im lặng.
Giảng
sư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ở trong hang.
- Không
ra không vào là pháp gì?
Giảng
sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ
tọa!
Giảng
sư xoay đầu lại.
Sư
hỏi:- Là pháp gì?
Giảng
sư cũng không đáp được.
Sư
bảo:- Ông thầy độn căn.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo
không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm
sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn
hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là
tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ
xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng
phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh
Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp
vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu
dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải
vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận
đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên
đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là
cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn
nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp
đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu
ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập
pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,
lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp
trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,
toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại
của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu
mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà
bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói
đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu
các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,
dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn
là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,
thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu
chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật
pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân
như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy
là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ
chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ
khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng
sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp
phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không
gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý
đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không
diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất
triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,
hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như
trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc
chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của
vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,
nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,
nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật
tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh
văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu
đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,
dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.
Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm
mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ
chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không
trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền
trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp
tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi
tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp
đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh
huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng
thông.
Ðệ
tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là
đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm
chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời
Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng
tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành
trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị
giả:
- Thân
cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,
Sư trở về.
Ðến
ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi
kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi
tuổi hạ.
Sau
vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.