Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền trong Tịnh Độ Tông

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13223)
Thiền trong Tịnh Độ Tông

THIỀN TRONG TỊNH ĐỘ TÔNG
Meditation in Shin Buddhism

Tác giả: Tiến sĩ Alfred Bloom, Giáo sư Danh dự về Tôn giáo, Đại học Hawai’i
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 01/11/2010

Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ. Như một kết quả, Tịnh Độ Chân Tông đánh mất cơ hội để chia sẻ tuệ giác tâm linh của nó với nhiều người tìm cầu trong xã hội đương thời, những người tìm sự tin tưởng tâm linh qua thiền quán. Chúng ta cần phải thấu hiểu nền tảng quan điểm của Thân Loan Thánh Nhân liên quan đến sự thực tập thiền quán.

blankKhi chúng ta quan tâm đến thế giới tâm linhThân Loan (1173-1263) đã sống vào đầu thời kỳ Trung Cổ của xã hội Nhật Bản, chúng ta có thể thấu hiểu tốt hơn tại sao sự thực tập này được đặt qua một bên. Chính Thân Loan đã thực tập thiền quán như một phần của hệ thống tu viện Thiên Đài Tông (Thiên Thai Tông Nhật Bản) trong hai mươi năm từ lúc chín tuổi đến hai mươi chín tuổi. Thiền tập của Thiên Đài Tông có nhiều tầng bậc mà trong ấy căn bản là sự thực tập một nghìn ngày chịu đựng tâm linh, thử nghiệm sức mạnh thân thểtinh thần của môn nhân. Trong thời gian này Thân Loan đã tuyệt vọng với việc biết bao giờ thân chứng giác ngộgiải thoát tâm linh khỏi dòng suối sinh tử luân hồi qua những sự thực tập khó khăn và vất vả của tu viện, kể cả thiền quán. Vấn đề là niềm đam mê mạnh mẽ và tính tự mãn của ông mà thường là kết quả từ việc quyết tâm thực tập tôn giáo. Việc thực tập như vậy đưa đến sự so sánh với những người khác và tự biện hộ.

Tuy thế, chúng ta phải chú ý rằng Thân Loan thật đạt đến những kinh nghiệm hư ảo qua thiền quán mà vì thế đã đưa ông đến Pháp Nhiên Thượng Nhân. Ông cuối cùng tìm được sự giải thoát khỏi sự vở mộng tâm linh qua sự hướng dẫn của Pháp Nhiên (1143-1212), bậc đạo sư Tịnh Độ Tông nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Thân Loan đã trở thành người đồ đệ nhiệt thành và cuối cùng đã phát triển sự diễn giải đặc thù của chính ông về giáo huấn nhấn mạnh trên niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà cùng việc trì niệm danh hiệu Phật trong việc nhớ ơn như hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa để đạt đến giác ngộ. Tuy nhiên, thiền tập không là nguồn gốc hay phương tiện giải thoát tâm linh của ông.

Vào lúc ấy thiền tập là một bộ phận của toàn bộ cương lĩnh nguyên tắc tôn giáo hướng đến sự tập trung và tịnh hóa tâm thức để trải nghiệm chân lý bất nhị của Đạo Phật trong chiều sâu của con người. Đấy là sự thực tập góp phần đến việc đạt được sự giác ngộ và do thế là nền tảng thực hành của Đạo Phật. Đấy là một nỗ lực tôn giáotâm linh như nhiệm vụ của tiến trình thiêng liêng.

Đối với quan điểm của cá nhân Thân Loangiáo huấn Tịnh Độ Tông, mục tiêu của thiền quán một cách căn bản là không thể áp dụng cho người thường bởi vì nó đòi hỏi tự ngã vượt thắng chính nó bởi năng lực hay nổ lực của chính nó. Thiền quán cũng như những sự thực tập khác của chùa viện đối với Thân Loan là tự mâu thuẩn như là phương tiện để tịnh hóa chính mình bởi tự mình. Do thế, ông đã rời tu việnhọc hỏi cùng thực tập với Pháp Nhiên, người đã dạy rằng Đức Phật Di Đà đã nguyện ôm ấp và giải thoát tất cả chúng sinh khỏi bẩy rập của họ trong mê muộichấp ngã. Để làm điều này Pháp Nhiên đã dạy trì danh hiệu Phật, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, như một phương pháp dễ dàng cho mọi người trong thời kỳ mạt pháp để được vãng sinh về Cực Lạc nơi, rồi thì, họ có thể đạt đến giác ngộ.

Đức Phật A Di Đà đã tạo ra cõi Tịnh Độ, nơi những điều kiện thích hợp cho việc đạt đến giác ngộ. Điều kiện tiên quyết để được vãng sinhtin tưởng trong Đại Nguyện của Phật Di Đàtrì niệm danh hiệu Ngài. Qua năng lực của danh hiệu, mà đấy là hiện thân đức độ của Phật A Di Đà, người tín thành có thể sinh về thế giới Cực Lạc. Như một kết quả, những thực hành truyền thống của chùa viện kể cả thiền quán đã không cần thiết cho những người bình thường có niềm hy vọng đạt thể chứng giác ngộ và được thoát khỏi tất cả mọi xiềng xích của nghiệp chướng. Cuộc vận động này đã trở nên rất phổ biến và đã tồn tạiNhật Bản.

Chúng ta trở lại thời điểm ngày nay và tình cảnh tôn giáo hiện thời, hoàn cảnh đã thay đổi một cách căn bản. Trong tác động áp lực hiện tại về thiền quán ở phương Tây lôi cuốn từ một sự phong phú về những truyền thống. Có những hình thức thiền quán của Ấn Độ hay yoga, thiền minh sát, căn bản của Phật Giáo Theravada, Thiền Tông hay Zen từ Trung Hoa, Đại Hàn, và Nhật Bản. Cũng có thiền quán của Phật Giáo Tây Tạng và những sự thực hành hiện thời về Tỉnh Thức do Thiền Sư Nhất Hạnh chủ trương. Mỗi truyền thống có phong cách riêng của nó. Những hình thức này của thiền tập như sự thực tập tôn giáo bao hàm giáo lýmục tiêu tương ứng với truyền thống của nó. Sự thực tập trong những truyền thống này được tin tưởng có thể làm cho con người tỉnh thức về thực tại căn bản. Kết quả của sự thực tập chuyển hóa đời sống cá nhân, tâm linh, cũng như trong những giá trị ưu tiên và quan hệ con người. Một quan điểm mới về cảm nhận của con người về Siêu Nhiên sẽ sinh khởi bằng việc vượt thắng nhị nguyên làm phiền não tâm thức chúng ta và thấu hiểu qua ý chí tâm linh về thực tại sâu sắc hơn.

Trong hiện trạng tạm thời hiện nay, thiền tập cũng đã được dành một vị trí riêng biệt khỏi niềm tin tôn giáo và đã đi vào cuộc sống thường ngày ở phương Tây như một phương tiện để làm tâm thức hòa bình, như một sự giải thoát tâm lý của cá nhân hay sự phát triển cá tính. Sự tiếp cận tâm thức hiện tại đã di chuyển từ việc cứu độ đến cải thiện đời sống. Từ tôn giáo đến tâm lý trị liệu. Người ta thực tập thiền quán cho sức khỏehạnh phúc. Mới vừa rồi người ta đã cho hay rằng quân đội sẽ dùng thiền tập để làm cho chiến sĩ trầm tĩnh và làm mạnh tâm thức của quân đội vì căng thẳng của chiến trận. Những sử dụng như thế được hướng đến mục đích làm cho chiến binh có thể chiến đấu mạnh mẽ hơn và … lạnh lùng hơn. Ý tưởng thiền tập là một sự thực tập cho việc thể chứng của con người liên hệ đến thực tại tối hậu không phát triển trong hình thức thế tục, đấy là, Thánh Hiền, cội nguồn sự sống của chúng ta, không được đòi hỏi và có thể được thực tập bởi mọi người trong bất cứ truyền thống nào.

Bởi vì có một sự phức tạp trong những sự tiếp cận của thiền tập, Tịnh độ Chân Tông Phật Giáo được đòi hỏi hình thức nào đề áp dụng? Chúng tôi có thể nói rằng ‘Niệm Phật’hình thức thiền tập qua việc tập trung tâm thức chúng ta về Đức Phật Di Đàý nghĩa những đại nguyện của Ngài vì cuộc sống của chúng ta. Niệm’ có nghĩa là suy tư trên đề mục hay gợi lại. ‘Phật’ Đức Phật. Đây là sự quán chiếu hay phản chiếu về Đức Phậtđời sống của chúng ta. [Có nghĩa rằng Niệm Phật Quán Chiếu là thiền quán và Niệm Phật Trì Danhthiền định; như vậy Niệm Phật bao hàm đủ “chỉ - quán” đồng tu. Và theo Đại Sư Trí-Tịnh, niệm Phật đến trình độ Vô Niệm thì tương đương với Kiến Tính của Thiền Tông, thân chứngTa Bà bất ly đương xứ, Tịnh Độ chỉ tại mục tiển”, nhưng nếu chưa được Vô Niệm thì cũng không mất phần “Đới Nghiệp Vãng Sinh”, thế nên Niệm Phật hay Tịnh Độ Tôngpháp môn tuy giản dị nhưng thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn – Thiền Trúc Lâm hiện nay cũng chủ trương Vô Niệm nhưng theo phương phápmục tiêu của Thiền Tông - người dịch].

Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta. Danh hiệu A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng QuangVô Lượng Thọ - Vô Lượng Công Đức; đấy không chỉ là nhãn hiệu mà là những mục tiêu đến điều gì đấy vượt ngoài nhận thức hay suy lường thông thường của chúng ta. Qua sự quán chiếu về thực tại sâu hơn hỗ trợ an toàn cho nền tảng sự sống của chúng ta và cảm nhận của chúng ta về tính chất hòa hiệp, thống nhất, thế nên chúng ta có thể sống với sự quả quyết hơn, mạnh mẽ hơn và tĩnh lặng hơn, mặc cho những náo động xáo trộn của thế giới chung quanh chúng ta. Niệm Phật hay thiền quán không chỉ là để đạt đến giác ngộ mà là để thâm nhập sâu xa hơn trong sự tỉnh thức và thấu hiểu những thệ nguyện của Đức Phật Di Đà. Nó cũng có thể biểu lộ lòng biết ơn đến Đức Phật vì sự sống mà chúng ta đã được ban cho. Cũng phải được ghi nhận rằng một cách truyền thống Tịnh Độ Chân Tông đã có một sự thực tập ‘Chính tọa” (Seiza) hay một sự ngồi yên tĩnh mà nó được khuyến khích trong giáo lý của Tịnh Độ Chân Tông.

Sự thực tập phổ quát của thiền quán trong thời đại hiện nay của chúng ta, trong phạm vi thế tục không nói gì đến thực tại tâm linh như được hiểu bởi Thân Loan Thánh Nhân. Đấy là trung tính tâm linh như một sự thực tập để tự trau dồi, tự phát triển [ý chí, năng lực], hơn là một sự thân chứng tối hậu [về thực tại hay Phật tính hay giải thoát giác ngộ]. Như một kết quả, sự thực tập thiền quán có thể được thực tập bởi những tín đồ Tịnh Độ Chân Tông như một phương tiện để tịch tĩnh và làm trong sáng tâm thức trong sự hổn loạn của thế giới nội tại và chung quanh chúng ta. Sự thực tập có thể được sử dụng để chuẩn bị tâm thức cho việc chú tâm, lắng nghe, và đặt vấn đề, về Phật Pháp hay quán chiếu về Đức Phật Di Đà. Chúng ta có thể thấu hiểu hơn về ‘BÂY GIỜ’ và cảm kích về sự sống mà chúng ta đã được ban cho. Đấy là ‘HIỆN HỮU’.

Thân Loan tuyên bố rằng Niệm Phật không phải là một sự thực tập cũng không phải là một hành vi thánh thiện. Nó không phải là một sự thực tập mà nhờ đấy chúng ta được giác ngộ, cũng không phải là một hành vi thánh thiện hay làm việc tốt đẹp như một phương tiện cho công đứcngợi khen. Thân Loan phủ nhận trong nguyên tắc, nhấn mạnh rằng bất cứ sự thực tập nào mà chúng ta có thể thực hiện không là một phương tiện để đạt được khuynh hướng giác ngộ. Đúng hơn, khi chúng ta được truyền cảm hứng, gia bị, soi sáng và ôm ấp bởi lòng từ bi và tuệ trí của Đức Phật Di Đà, những sự thực tập như vậy có thể giúp chúng ta thấy sự vô thức rối loạn của chúng ta như một vũng lầy trong sự tĩnh lặng của đại dương của Quang MinhSinh Lực. Thế nên, bất cứ điều gì có thể giúp chúng ta trong tiến trình ý thức tâm linh của chúng ta cũng được vững vàng.

blankGiáo sư Alfred Bloom:

Một người tiên phong của Tịnh Độ Chân Tông trong thế giới nói tiếng Anh.

 Sinh năm 1926, tại PhiladelphiaPennsylvania, là người con út của một gia đình Do Thái Giáo. Sau một thời gian trong quân ngũ trong năm 1944, Bloom học tiếng Nhật tại Đại học Pennsylvania và đã thấy sự phục vụ trong xứ Nhật Bản bị chiếm đóng. Kinh nghiệm của ông vào lúc ấy đã kích thích một sự tỉnh thức về nhân quyềncông bằng xã hội. Vào lúc ấy ông cũng đã đóng một vai trò trong phong trào thúc đẩy Nền Tảng Ki Tô Giáo và thâm nhập vào khái niệm Đức Phật A Di Đà khi một mục sư Ki Tô Giáo giải thích một thông điệp từ Kinh Thánh bằng việc liên hệ đến Đức Phật Di Đà như một sự tương đồng.

Bloom đã bắt đầu cuộc đời tâm linh tại trường Thần học Eastern Baptist từ năm 1947 đến 1951. Trong thời gian này ông bắt đầu thắc mắc và rồi từ bỏ nền tảng tiếp cận từ Kinh Thánh mà ông đã từng theo đuổi trước đây. Ông hoàn thành sự huấn luyện tại trường Thần Học Andover Newton Theological School (B.D., S.T.M.) vào1953. Sau này ông đã gặp gở với giáo huấn của Thân Loan Thánh Nhân trong khi ông trong khi học tiếng Nhật và Phật Giáo (Trung Hoa) tại Học viện Harvard Yenching Institute và tốt nghiệp tiến sĩ với luận án ‘Thân Loan Cuộc Đời và Tư Tưởng’ vào năm 1963.

Trong cuộc đời như một nhà tư tưởng, giáo dục, và mục sư của Tịnh Độ Chân Tông, tiến sĩ Bloom đã truyền cảm hứng cho những người khác khám phá giáo huấn của Thân Loan và đã đem đến sự làm mới tuệ giác và cổ vũ đến một số tín đồ truyền thống. Có lẽ sự cống hiến đặc biệt của ông đã trải dài từ tác phẩm của Thân Loantruyền thống Tịnh Độ Chân Tông, chính là những khả năng quan trọng trong mối liên hệ đến Phật Giáo dấn thân.

Ông đã viết nhiều tác phẩm cũng như nhiều đề tài nghiên cứu trong những tạp chí, các tác phẩm quan trọng là:

 Căn bản của Tịnh Độ Chân TôngCon đường Niềm tin chân thành của Đạo Phật, 2007.

- Sống trong Đại nguyện của Đức Phật Di Đà, 2004.

Tôn giáonhân loạiẤn Độ và những truyền thống tôn giáo Viễn Đông, 1998.

Tuệ Uyển chuyển ngữ / 12-11-2010

http://www.shindharmanet.com/writings/shinmeditation.htm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13429)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11717)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11227)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11948)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10274)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29267)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11961)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11961)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10962)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19639)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7355)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11379)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35342)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12874)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12232)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17371)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11492)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22131)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11853)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15943)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12129)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14119)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12628)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13231)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13681)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20027)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14430)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13565)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12364)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11908)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34765)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13425)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13739)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 32001)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13222)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13078)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13435)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13321)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18058)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14942)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15750)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14889)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15868)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20815)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21336)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35177)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27557)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43967)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37930)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15153)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15082)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 13008)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12671)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15633)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27760)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14990)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11428)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53217)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16550)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13191)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20715)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12640)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15619)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15525)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14808)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15629)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13063)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11783)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12320)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12595)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13501)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12493)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 25005)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11997)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12777)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11627)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13769)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14127)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12933)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12762)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13028)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13941)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13016)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13634)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12477)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14462)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13319)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13797)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14649)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11889)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12735)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28308)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11816)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12665)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15078)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12022)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11789)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12894)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 12001)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11534)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant