Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền trong Tịnh Độ Tông

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13208)
Thiền trong Tịnh Độ Tông

THIỀN TRONG TỊNH ĐỘ TÔNG
Meditation in Shin Buddhism

Tác giả: Tiến sĩ Alfred Bloom, Giáo sư Danh dự về Tôn giáo, Đại học Hawai’i
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 01/11/2010

Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ. Như một kết quả, Tịnh Độ Chân Tông đánh mất cơ hội để chia sẻ tuệ giác tâm linh của nó với nhiều người tìm cầu trong xã hội đương thời, những người tìm sự tin tưởng tâm linh qua thiền quán. Chúng ta cần phải thấu hiểu nền tảng quan điểm của Thân Loan Thánh Nhân liên quan đến sự thực tập thiền quán.

blankKhi chúng ta quan tâm đến thế giới tâm linhThân Loan (1173-1263) đã sống vào đầu thời kỳ Trung Cổ của xã hội Nhật Bản, chúng ta có thể thấu hiểu tốt hơn tại sao sự thực tập này được đặt qua một bên. Chính Thân Loan đã thực tập thiền quán như một phần của hệ thống tu viện Thiên Đài Tông (Thiên Thai Tông Nhật Bản) trong hai mươi năm từ lúc chín tuổi đến hai mươi chín tuổi. Thiền tập của Thiên Đài Tông có nhiều tầng bậc mà trong ấy căn bản là sự thực tập một nghìn ngày chịu đựng tâm linh, thử nghiệm sức mạnh thân thểtinh thần của môn nhân. Trong thời gian này Thân Loan đã tuyệt vọng với việc biết bao giờ thân chứng giác ngộgiải thoát tâm linh khỏi dòng suối sinh tử luân hồi qua những sự thực tập khó khăn và vất vả của tu viện, kể cả thiền quán. Vấn đề là niềm đam mê mạnh mẽ và tính tự mãn của ông mà thường là kết quả từ việc quyết tâm thực tập tôn giáo. Việc thực tập như vậy đưa đến sự so sánh với những người khác và tự biện hộ.

Tuy thế, chúng ta phải chú ý rằng Thân Loan thật đạt đến những kinh nghiệm hư ảo qua thiền quán mà vì thế đã đưa ông đến Pháp Nhiên Thượng Nhân. Ông cuối cùng tìm được sự giải thoát khỏi sự vở mộng tâm linh qua sự hướng dẫn của Pháp Nhiên (1143-1212), bậc đạo sư Tịnh Độ Tông nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Thân Loan đã trở thành người đồ đệ nhiệt thành và cuối cùng đã phát triển sự diễn giải đặc thù của chính ông về giáo huấn nhấn mạnh trên niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà cùng việc trì niệm danh hiệu Phật trong việc nhớ ơn như hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa để đạt đến giác ngộ. Tuy nhiên, thiền tập không là nguồn gốc hay phương tiện giải thoát tâm linh của ông.

Vào lúc ấy thiền tập là một bộ phận của toàn bộ cương lĩnh nguyên tắc tôn giáo hướng đến sự tập trung và tịnh hóa tâm thức để trải nghiệm chân lý bất nhị của Đạo Phật trong chiều sâu của con người. Đấy là sự thực tập góp phần đến việc đạt được sự giác ngộ và do thế là nền tảng thực hành của Đạo Phật. Đấy là một nỗ lực tôn giáotâm linh như nhiệm vụ của tiến trình thiêng liêng.

Đối với quan điểm của cá nhân Thân Loangiáo huấn Tịnh Độ Tông, mục tiêu của thiền quán một cách căn bản là không thể áp dụng cho người thường bởi vì nó đòi hỏi tự ngã vượt thắng chính nó bởi năng lực hay nổ lực của chính nó. Thiền quán cũng như những sự thực tập khác của chùa viện đối với Thân Loan là tự mâu thuẩn như là phương tiện để tịnh hóa chính mình bởi tự mình. Do thế, ông đã rời tu việnhọc hỏi cùng thực tập với Pháp Nhiên, người đã dạy rằng Đức Phật Di Đà đã nguyện ôm ấp và giải thoát tất cả chúng sinh khỏi bẩy rập của họ trong mê muộichấp ngã. Để làm điều này Pháp Nhiên đã dạy trì danh hiệu Phật, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, như một phương pháp dễ dàng cho mọi người trong thời kỳ mạt pháp để được vãng sinh về Cực Lạc nơi, rồi thì, họ có thể đạt đến giác ngộ.

Đức Phật A Di Đà đã tạo ra cõi Tịnh Độ, nơi những điều kiện thích hợp cho việc đạt đến giác ngộ. Điều kiện tiên quyết để được vãng sinhtin tưởng trong Đại Nguyện của Phật Di Đàtrì niệm danh hiệu Ngài. Qua năng lực của danh hiệu, mà đấy là hiện thân đức độ của Phật A Di Đà, người tín thành có thể sinh về thế giới Cực Lạc. Như một kết quả, những thực hành truyền thống của chùa viện kể cả thiền quán đã không cần thiết cho những người bình thường có niềm hy vọng đạt thể chứng giác ngộ và được thoát khỏi tất cả mọi xiềng xích của nghiệp chướng. Cuộc vận động này đã trở nên rất phổ biến và đã tồn tạiNhật Bản.

Chúng ta trở lại thời điểm ngày nay và tình cảnh tôn giáo hiện thời, hoàn cảnh đã thay đổi một cách căn bản. Trong tác động áp lực hiện tại về thiền quán ở phương Tây lôi cuốn từ một sự phong phú về những truyền thống. Có những hình thức thiền quán của Ấn Độ hay yoga, thiền minh sát, căn bản của Phật Giáo Theravada, Thiền Tông hay Zen từ Trung Hoa, Đại Hàn, và Nhật Bản. Cũng có thiền quán của Phật Giáo Tây Tạng và những sự thực hành hiện thời về Tỉnh Thức do Thiền Sư Nhất Hạnh chủ trương. Mỗi truyền thống có phong cách riêng của nó. Những hình thức này của thiền tập như sự thực tập tôn giáo bao hàm giáo lýmục tiêu tương ứng với truyền thống của nó. Sự thực tập trong những truyền thống này được tin tưởng có thể làm cho con người tỉnh thức về thực tại căn bản. Kết quả của sự thực tập chuyển hóa đời sống cá nhân, tâm linh, cũng như trong những giá trị ưu tiên và quan hệ con người. Một quan điểm mới về cảm nhận của con người về Siêu Nhiên sẽ sinh khởi bằng việc vượt thắng nhị nguyên làm phiền não tâm thức chúng ta và thấu hiểu qua ý chí tâm linh về thực tại sâu sắc hơn.

Trong hiện trạng tạm thời hiện nay, thiền tập cũng đã được dành một vị trí riêng biệt khỏi niềm tin tôn giáo và đã đi vào cuộc sống thường ngày ở phương Tây như một phương tiện để làm tâm thức hòa bình, như một sự giải thoát tâm lý của cá nhân hay sự phát triển cá tính. Sự tiếp cận tâm thức hiện tại đã di chuyển từ việc cứu độ đến cải thiện đời sống. Từ tôn giáo đến tâm lý trị liệu. Người ta thực tập thiền quán cho sức khỏehạnh phúc. Mới vừa rồi người ta đã cho hay rằng quân đội sẽ dùng thiền tập để làm cho chiến sĩ trầm tĩnh và làm mạnh tâm thức của quân đội vì căng thẳng của chiến trận. Những sử dụng như thế được hướng đến mục đích làm cho chiến binh có thể chiến đấu mạnh mẽ hơn và … lạnh lùng hơn. Ý tưởng thiền tập là một sự thực tập cho việc thể chứng của con người liên hệ đến thực tại tối hậu không phát triển trong hình thức thế tục, đấy là, Thánh Hiền, cội nguồn sự sống của chúng ta, không được đòi hỏi và có thể được thực tập bởi mọi người trong bất cứ truyền thống nào.

Bởi vì có một sự phức tạp trong những sự tiếp cận của thiền tập, Tịnh độ Chân Tông Phật Giáo được đòi hỏi hình thức nào đề áp dụng? Chúng tôi có thể nói rằng ‘Niệm Phật’hình thức thiền tập qua việc tập trung tâm thức chúng ta về Đức Phật Di Đàý nghĩa những đại nguyện của Ngài vì cuộc sống của chúng ta. Niệm’ có nghĩa là suy tư trên đề mục hay gợi lại. ‘Phật’ Đức Phật. Đây là sự quán chiếu hay phản chiếu về Đức Phậtđời sống của chúng ta. [Có nghĩa rằng Niệm Phật Quán Chiếu là thiền quán và Niệm Phật Trì Danhthiền định; như vậy Niệm Phật bao hàm đủ “chỉ - quán” đồng tu. Và theo Đại Sư Trí-Tịnh, niệm Phật đến trình độ Vô Niệm thì tương đương với Kiến Tính của Thiền Tông, thân chứngTa Bà bất ly đương xứ, Tịnh Độ chỉ tại mục tiển”, nhưng nếu chưa được Vô Niệm thì cũng không mất phần “Đới Nghiệp Vãng Sinh”, thế nên Niệm Phật hay Tịnh Độ Tôngpháp môn tuy giản dị nhưng thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn – Thiền Trúc Lâm hiện nay cũng chủ trương Vô Niệm nhưng theo phương phápmục tiêu của Thiền Tông - người dịch].

Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta. Danh hiệu A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng QuangVô Lượng Thọ - Vô Lượng Công Đức; đấy không chỉ là nhãn hiệu mà là những mục tiêu đến điều gì đấy vượt ngoài nhận thức hay suy lường thông thường của chúng ta. Qua sự quán chiếu về thực tại sâu hơn hỗ trợ an toàn cho nền tảng sự sống của chúng ta và cảm nhận của chúng ta về tính chất hòa hiệp, thống nhất, thế nên chúng ta có thể sống với sự quả quyết hơn, mạnh mẽ hơn và tĩnh lặng hơn, mặc cho những náo động xáo trộn của thế giới chung quanh chúng ta. Niệm Phật hay thiền quán không chỉ là để đạt đến giác ngộ mà là để thâm nhập sâu xa hơn trong sự tỉnh thức và thấu hiểu những thệ nguyện của Đức Phật Di Đà. Nó cũng có thể biểu lộ lòng biết ơn đến Đức Phật vì sự sống mà chúng ta đã được ban cho. Cũng phải được ghi nhận rằng một cách truyền thống Tịnh Độ Chân Tông đã có một sự thực tập ‘Chính tọa” (Seiza) hay một sự ngồi yên tĩnh mà nó được khuyến khích trong giáo lý của Tịnh Độ Chân Tông.

Sự thực tập phổ quát của thiền quán trong thời đại hiện nay của chúng ta, trong phạm vi thế tục không nói gì đến thực tại tâm linh như được hiểu bởi Thân Loan Thánh Nhân. Đấy là trung tính tâm linh như một sự thực tập để tự trau dồi, tự phát triển [ý chí, năng lực], hơn là một sự thân chứng tối hậu [về thực tại hay Phật tính hay giải thoát giác ngộ]. Như một kết quả, sự thực tập thiền quán có thể được thực tập bởi những tín đồ Tịnh Độ Chân Tông như một phương tiện để tịch tĩnh và làm trong sáng tâm thức trong sự hổn loạn của thế giới nội tại và chung quanh chúng ta. Sự thực tập có thể được sử dụng để chuẩn bị tâm thức cho việc chú tâm, lắng nghe, và đặt vấn đề, về Phật Pháp hay quán chiếu về Đức Phật Di Đà. Chúng ta có thể thấu hiểu hơn về ‘BÂY GIỜ’ và cảm kích về sự sống mà chúng ta đã được ban cho. Đấy là ‘HIỆN HỮU’.

Thân Loan tuyên bố rằng Niệm Phật không phải là một sự thực tập cũng không phải là một hành vi thánh thiện. Nó không phải là một sự thực tập mà nhờ đấy chúng ta được giác ngộ, cũng không phải là một hành vi thánh thiện hay làm việc tốt đẹp như một phương tiện cho công đứcngợi khen. Thân Loan phủ nhận trong nguyên tắc, nhấn mạnh rằng bất cứ sự thực tập nào mà chúng ta có thể thực hiện không là một phương tiện để đạt được khuynh hướng giác ngộ. Đúng hơn, khi chúng ta được truyền cảm hứng, gia bị, soi sáng và ôm ấp bởi lòng từ bi và tuệ trí của Đức Phật Di Đà, những sự thực tập như vậy có thể giúp chúng ta thấy sự vô thức rối loạn của chúng ta như một vũng lầy trong sự tĩnh lặng của đại dương của Quang MinhSinh Lực. Thế nên, bất cứ điều gì có thể giúp chúng ta trong tiến trình ý thức tâm linh của chúng ta cũng được vững vàng.

blankGiáo sư Alfred Bloom:

Một người tiên phong của Tịnh Độ Chân Tông trong thế giới nói tiếng Anh.

 Sinh năm 1926, tại PhiladelphiaPennsylvania, là người con út của một gia đình Do Thái Giáo. Sau một thời gian trong quân ngũ trong năm 1944, Bloom học tiếng Nhật tại Đại học Pennsylvania và đã thấy sự phục vụ trong xứ Nhật Bản bị chiếm đóng. Kinh nghiệm của ông vào lúc ấy đã kích thích một sự tỉnh thức về nhân quyềncông bằng xã hội. Vào lúc ấy ông cũng đã đóng một vai trò trong phong trào thúc đẩy Nền Tảng Ki Tô Giáo và thâm nhập vào khái niệm Đức Phật A Di Đà khi một mục sư Ki Tô Giáo giải thích một thông điệp từ Kinh Thánh bằng việc liên hệ đến Đức Phật Di Đà như một sự tương đồng.

Bloom đã bắt đầu cuộc đời tâm linh tại trường Thần học Eastern Baptist từ năm 1947 đến 1951. Trong thời gian này ông bắt đầu thắc mắc và rồi từ bỏ nền tảng tiếp cận từ Kinh Thánh mà ông đã từng theo đuổi trước đây. Ông hoàn thành sự huấn luyện tại trường Thần Học Andover Newton Theological School (B.D., S.T.M.) vào1953. Sau này ông đã gặp gở với giáo huấn của Thân Loan Thánh Nhân trong khi ông trong khi học tiếng Nhật và Phật Giáo (Trung Hoa) tại Học viện Harvard Yenching Institute và tốt nghiệp tiến sĩ với luận án ‘Thân Loan Cuộc Đời và Tư Tưởng’ vào năm 1963.

Trong cuộc đời như một nhà tư tưởng, giáo dục, và mục sư của Tịnh Độ Chân Tông, tiến sĩ Bloom đã truyền cảm hứng cho những người khác khám phá giáo huấn của Thân Loan và đã đem đến sự làm mới tuệ giác và cổ vũ đến một số tín đồ truyền thống. Có lẽ sự cống hiến đặc biệt của ông đã trải dài từ tác phẩm của Thân Loantruyền thống Tịnh Độ Chân Tông, chính là những khả năng quan trọng trong mối liên hệ đến Phật Giáo dấn thân.

Ông đã viết nhiều tác phẩm cũng như nhiều đề tài nghiên cứu trong những tạp chí, các tác phẩm quan trọng là:

 Căn bản của Tịnh Độ Chân TôngCon đường Niềm tin chân thành của Đạo Phật, 2007.

- Sống trong Đại nguyện của Đức Phật Di Đà, 2004.

Tôn giáonhân loạiẤn Độ và những truyền thống tôn giáo Viễn Đông, 1998.

Tuệ Uyển chuyển ngữ / 12-11-2010

http://www.shindharmanet.com/writings/shinmeditation.htm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20474)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22377)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18786)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27075)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18776)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 20000)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38114)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20182)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28362)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46420)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15487)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65748)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13774)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18690)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15575)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14609)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18763)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12664)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17687)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25524)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38765)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17740)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11272)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18675)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17450)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13256)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13354)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17596)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24363)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12442)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13858)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13028)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12914)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14202)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14642)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21126)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22667)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29999)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13910)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18285)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17101)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12664)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30770)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22841)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14678)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13027)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12782)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12540)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13084)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16356)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15260)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23863)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16218)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29049)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20317)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15593)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37300)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45086)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36959)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant