GS001
Nói đến Thiền người ta thường nghĩ đến một cách tu của Phật giáo, như hình ảnh ngồi xếp bàn, yên tĩnh của các nhà sư. Gần đây Thiền đã trở nên một vấn đề phổ biến trong dân gian. Người ta thấy có thiền Yoga, thiền xuất hồn của ông Lương sĩ Hằng, thiền Quán Âm của Sư Cô Thanh Hải, v.v., rồi chính ngay trong đạo Phật người Phật tử cũng phân vân với vô số phương pháp thiền: Thiền công án, Tổ sư thiền, Như Lai thiền, Thiền Minh Sát, Thiền với nhiều đề mục khác nhau. Kinh Lăng Nghiêm có bàn đến thiền với đề mục Quán Âm nhưng khác với thiền Quán Âm của Cô Thanh Hải như thế nào?
Bài viết này không có tham vọng tả rõ hết tất cả các phương pháp thiền nhưng chỉ xác định lại ý nghĩa và mục đích của Thiền căn cứ trên phương cách tu hành của đức Phật đã được ghi lại trong Tam Tạng Kinh điển. Nắm vững được tinh thần này người Phật tử tự nhiên sẽ thấy sự khác biệt như thế nào giữa Thiền Đạo Phật, mà trong bài này gọi là THIỀN TRÍ TUỆ, với tất cả các loại Thiền khác, mà trong bài này gọi là THIỀN THAM ÁI. Thấy rõ sự khác biệt này sẽ hữu ích cho người Phật tử để thực hành đúng CHÁNH ĐỊNH, CHÁNH TINH TẤN, để không đi lạc đạo quá xa trong lúc tu Thiền.
Cũng như trong các ngành khoa học, Y Khoa, Vật Lý, hoặc Hóa Học, một sinh viên muốn thấu triệt ngành học của mình không những chỉ học phần lý thuyết mà còn phải thực tập trong phòng thí nghiệm để chứng nghiệm những gì đã học, hoặc để khám phá thêm những phát minh mới. Người Phật tử học Phật cũng gần như vậy, không thể chỉ tu TỊNH ĐỘ tụng kinh mà còn phải thực hành THIỀN để thực nghiệm chân lý. Thật là thiếu sót khi phân chia tông phái để rồi chỉ chọn một trong hai, hoặc TỊNH ĐỘ (tụng kinh) hoặc THIỀN (bất lập văn tự, kiến tánh thành Phật). Người tu Phật phải đi qua trọn vẹn cả 3 pháp: Pháp Học phải đầy đủ, để Pháp Hành khỏi đi lạc, và rồi để đi đến Pháp Thành là lúc để hoàn tất sự giải thoát.
Học Kinh sách để có đầy đủ những CHÁNH KIẾN mà Đức Phật đã khám phá, để học thêm những kinh nghiệm tu hành của Đức Phật. Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃ mà đức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp. Tinh thần của Thiền là tinh thần của Khoa Học Thực Nghiệm. Là tìm kiếm lời giải đáp cho những thắc mắc về chính mình bằng cách khảo sát, nghiên cứu tìm hiểu cái TA của chính mình. Cũng từ những thắc mắc như thế mà đức Phật đã Giác Ngộ được Đạo. Ngày thành đạo, ngài đã kể lại công trình nghiên cứu đó như sau:
Xuyên qua bao vạn kiếp Như Lai đi kiếm ông thợ xây cửa dựng nhà Như Lai đi thênh thang mà không gặp Hôm nay Như Lai đã kiếm thấy ngươi Từ nay ngươi không còn xây nhà cho Như Lai nữa Kinh Pháp cú 153.Các vị Bồ Tát cũng thực hành Thiền quán với tinh thần khoa học tương tự như vậy. Trong kinh Lăng Nghiêm, ta thấy Bồ Tát Quán Âm chẳng khác gì là một khoa học gia chuyên môn nghiên cứu về sự nghe. Phương pháp quán của ngài là quán vào CĂN của SỰ NGHE (Nhĩ căn viên thông). Có nghĩa là tìm hiểu “gốc cội”, lý do tại làm sao mà ta nghe được. Tương tự như vậy Bồ Tát Di Lặc là một khoa học gia nghiên cứu về CĂN của Ý tức là “gốc cội” của Tư Tưởng, từ đâu mà đến. Có thắc mắc như thế ta mới có thể đi xa hơn những gì mà khoa học ngày hôm nay đã tìm thấy. Ví dụ: với khoa học sự nghe là do Màng Nhĩ của Tai, do Âm thanh. Sự thấy là do Mắt do Ánh Sáng, v.v. Nhưng trong giấc mơ dầu mắt nhắm, dầu không có âm thanh, hay ánh sáng ta vẫn có sự nghe, sự thấy.
Đạo Phật thật chẳng khác gì một khoa học đi tìm kiếm SỰ THẬT, tìm hiểu gốc cội của mọi vấn đề, nhất là NGUỒN GỐC CỦA SỰ KHỔ. GIÁC NGỘ là khi lời giải cho bài toán KHỔ đã được tìm ra và có thể trình bày lại được cho chúng sanh theo. Chứ không phải tuyên bố “Hoát nhiên đại ngộ” rồi vẫn “câm miệng hến” như nhiều ông Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Người Phật tử thực hành Thiền quán là để phát triển Trí Tuệ hiểu biết về TA và về sự KHỔ, chứ không phải để đạt được những tham ái của bãn ngã. Ai thực hành thiền mà để hoàn thiện bản ngã thì vẫn kể như còn ở trình độ THIỀN THAM ÁI của “Ngoại Đạo”, tức chưa phải là THIỀN TRÍ TUỆ của Phật.
Trong tinh thần THIỀN TRÍ TUỆ của Phật, chừng nào mà sự thật về TA và về nguyên nhân sự KHỔ chưa được chứng thực thì hành giả vẫn chưa gọi là GIÁC NGỘ. Nếu không có tinh thần Trí Tuệ như vậy thì tâm THAM ÁI sẽ rất dễ “CHẠY THEO TRẦN CẢNH” với các hiện tượng tâm vật lý của thiền. Rất nhiều hành giả đã bị “kẹt” vào những “âm thanh vi diệu” với pháp Thiền Quán Âm của Cô Thanh Hải. Rất nhiều hành giả sau khi bị rơi vào những “feeling giải thoát” (kể cả feeling vô ngã) đã tuyên bố “Tôi đã Giác Ngộ”. Phải biết rằng những gì còn ở trình độ “CẢM THỌ” (feeling) thì vẫn còn ở trình độ NGŨ UẨN, vẫn còn trình độ của “PHÁP HỮU VI”, vô thường, tạm bợ, không phải là sự giải thoát chân thật và bền chắc. Những “feeling tuyệt vời” đó kinh Lăng Nghiêm gọi là “Ngũ Ấm Ma” vì nó khi hiện khi mất.
Khi hành thiền, hành giả phải quán sát chính TA với tâm rất KHÁCH QUAN chẳng khác gì các khoa học gia trong phòng thí nghiệm, không phê phán (Vọng hoặc Chơn), không chọn lựa. Đó là lý do trong kinh Tứ Niệm Xứ đức Phật đã dạy: “Thấy tâm Tham nổi lên, biết tâm Tham nổi lên, thấy tâm Sân nổi lên biết tâm Sân nổi lên... Khi thở ra hơi dài biết thở ra hơi dài, khi thở ra hơi ngắn biết thở ra hơi ngắn, khi sắp thở ra biết sắp thở ra, khi sắp hít vô, biết sắp hít vô”. Nói như thế cũng phải hiểu rằng nếu có “tâm phê phán” hay “tâm chọn lựa” nổi lên thì cũng vẫn “TUỆ TRI” các tâm đó đang nổi lên một cách khách quan với sự giác biết thanh tịnh.
Quán sát khách quan như vậy để làm gì? -Để cho THAM ÁI không dự phần, để cho NGÃ tánh không phát triển, để mới có thể khám phá ra được sự thật VÔ NGÃ: Ta không phải SẮC, ta không phải THỌ, ta không phải TƯỞNG, ta không phải HÀNH, ta không phải THỨC (ngủ uẩn giai không), TA không phải bất cứ cái CÓ nào cả, TA KHÔNG THỰC SỰ HIỆN HỮU. Chứng nghiệm được cái “KHÔNG TÁNH” của ta đó là sự chứng nghiệm “SẮC TỨC THỊ KHÔNG”. “KHÔNG TỨC THỊ SẮC” của BÁT NHÃ. Đó cũng là để hoàn toàn ra khỏi NGÃ, ÁI, THỦ, HỮU, ra khỏi mọi khổ đau ách nạn. Đó cũng là chứng nghiệm được những gì mà Đức Phật đã dạy ở trong Tiểu Bộ Kinh:
“Này các Tỷ-kheo, có sự không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có sự trình bày xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi.”Như vậy THIỀN là để Phát Triển TRÍ TUỆ VÔ NGÃ. Có nghĩa rằng phải thấy rõ THỰC TƯỚNG của chính ta. “CÓ SAO THẤY VẬY” không bắt ta phải VÔ NIỆM, kềm kẹp TRI KIẾN, hoặc ỨC CHẾ TÂM gì cả. Những phương cách thiền nào nhằm mục đích để cho NGÃ của ta được hay hơn, tốt đẹp hơn, nhiều khả năng hơn, sung sướng hơn, an vui hơn, thanh tịnh hơn, v.v. thì còn chưa ra ngoài lãnh vực THAM ÁI và CHẤP NGÃ nên sẽ không thể khám phá được sự thật VÔ NGÃ. Sau khi sự thật VÔ NGÃ đã được khám phá thì trong TRÍ TUỆ VÔ NGÃ dầu ngũ uẩn này còn bấn loạn, còn lo, còn buồn, còn khổ gì đi nữa, đó vẫn chỉ là các pháp hữu vi, “DO DUYÊN SINH”, không phải do ta, không phải là của ta. Cho nên vẫn giải thoát. NIẾT BÀN được thực chứng ngay trong KHỔ mới thực sự là NIẾT BÀN. Nếu đòi hỏi KHỔ phải biến mất thì NIẾT BÀN đó không phải là NIẾT BÀN thật. (vì hễ còn có điều kiện, thì sẽ không bền vững).
GIỮ GÌN CHÁNH NIỆM
Rất nhiều người hiểu hạn hẹp chữ CHÁNH của Phật theo nghĩa THIỆN. Có thầy dạy giữ gìn Chánh Niệm trong khi ăn bằng cách quán tưởng đến công ơn của các bác nông phu cày cấy. Nhưng đối với tinh thần của TỨ NIỆM XỨ, quán niệm như vậy là VỌNG NIỆM, vì đã đi ra khỏi sự theo dõi chính mình. Chánh Niệm trong khi ăn là theo dõi sự ăn để tìm hiểu tại sao ta phải ăn? Tại sao ta khổ vì đói? Chữ CHÁNH trong đạo Phật có nghĩa là hướng đúng về mục tiêu NIẾT BÀN (lúc khổ được tận diệt). Làm chệch ra khỏi hướng đó thì là TÀ (trật). Vì sự KHỔ chỉ hoàn toàn chấm dứt khi sự thật VÔ NGÃ được chứng nghiệm, cho nên CHÁNH cũng là hướng về sự phát triển TRÍ TUỆ VÔ NGÃ.
CHÁNH NIỆM là luôn luôn “tâm niệm” (mindfulness) khách quan khảo sát chính ta. Bất chấp nó tốt hay xấu, bất chấp nó khổ hay vui, bất chấp nó thiện hay ác. Sự khảo sát này có 2 tính chất chính: LIÊN TỤC và KHÁCH QUAN. Ví dụ, khi tâm tinh tấn tu hành, biết tâm đang có sự tinh tấn. Khi tâm chán nản, biết tâm đang chán nản. Nếu tâm tinh tấn chống cự, biết tâm đang tinh tấn chống cự, nếu tâm có khuynh hướng chịu thua, biết tâm muốn chịu thua. Dầu thế nào đi nữa, phải Luôn Luôn KHÁCH QUAN nhận rõ những gì đang xảy ra. Như thế, thì vẫn ở trong CHÁNH NIỆM. Duy trì tâm khách quan như thế để sẽ thấy rõ NHÂN DUYÊN sinh khởi của các NGŨ UẨN, để từ đó chứng thực sự thật VÔ NGÃ. Đạo Phật là để hết Khổ, không phải để làm cho TA hay hơn hoặc tốt hơn. Hay hơn hoặc Tốt hơn mà còn Ngã chấp, còn chấp thủ ngũ uẫn, thì vẫn còn khổ như thường.
Bài viết liên quan đến chủ đề (nên đọc thêm):
● Chương 13: Chánh Niệm (Sati) trích từ:CHÁNH NIỆM CƠ BẢN
Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình
● CHÍNH NIỆM - THỰC TẬP THIỀN QUÁN Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
● HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM - Bhante Henepola Gunaratana - Chuyển Ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh
● SỰ QUAN TRỌNG CỦA CHÁNH NIỆM KINH ĐẠI NIỆM XỨ - Thiền Sư U Silananda - Nita Truitner dịch Việt
● THIỀN PHẬT GIÁO Tâm Thái
Source: thuvienhoasen
GS001: Tuyên bố của tôi: "Đạo Phật thật chẳng khác gì một khoa học đi tìm kiếm SỰ THẬT, tìm hiểu gốc cội của mọi vấn đề, nhất là NGUỒN GỐC CỦA SỰ KHỔ. GIÁC NGỘ là khi lời giải cho bài toán KHỔ đã được tìm ra và có thể trình bày lại được cho chúng sanh theo". Đó là một sự diễn tả rất chính xác về những điểm chính của Đạo Phật.
Có 3 điều quan trọng về Đạo Phật mà các bạn nên ghi nhớ:
1) MỤC ĐÍCH CỦA ĐẠO PHẬT LÀ GIẢI QUYẾT KHỔ: Đức Phật sau khi ra dạo 4 cửa thành, chứng kiến những sự khổ của chúng sanh, rồi ngài bỏ cung điện ra đi. Ngài ra đi để tìm kiếm cái gì? Có phải để tìm kiếm lời giải cho bài toán khổ của chúng sanh hay không? Và ngài đã đứng dậy tuyên bố thành đạo khi nào? -- Khi đã đạt được thành quả "Lậu Tận Minh" tức là đã thấy rõ mọi nguyên nhân của khổ và cách tận diệt các nguyên nhân đó. Tận diệt khổ đau là mục đích, là đích đến của Đạo Phật. Bởi thế Đức Phật mới tuyên bố rằng:
-- Lành thay, lành thay! Này Anuràdha. Trước đây và hiện nay, này Anuràdha, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ. (Tương Ưng Sự thật, Tương Ưng bộ kinh)
2) CÁCH GIẢI QUYẾT KHỔ ĐAU LÀ TÌM HIỂU CHÍNH MÌNH: Để thấy gốc cội khổ đau là do vô minh bên trong chính mình : Ngày thành đạo Đức Phật đã thổ lộ tiến trình tìm hiểu chính mình như sau:
153. Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.
154. Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Người không làm nhà nữa.
Ðòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.
(Kinh Pháp Cú)
3) TÌM HIỂU VỀ CHÍNH MÌNH LÀ THỰC HÀNH THIỀN TỨ NIỆM XỨ. Khảo sát Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chính mình. Thiền là yên lắng quan sát tìm hiểu từng phần và toàn thể chính mình. Thiền nào mà không để tìm hiểu, không giúp hiểu thêm sự thật về chính mình thì loại thiền đó sẽ không giúp ta ra khỏi vô minh chấp ngã gây đau khổ. Tất cả các bậc giác ngộ đều phải đi qua con đường hiểu rõ về chính mình. Không thể đi tránh bằng con đường nào khác. Bởi thế Đức Phật mới khẳng định rằng:
-- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ. (Kinh Tứ Niệm Xứ)
Này bạn RIGHTVIEW, Trong tất cả 3 phần quan trọng nói trên có phần nào Đức PHẬT nhấn mạnh đến sự cần giữ THIÊNG LIÊNG hay phải TÔN KÍNH ai hay không? Tại sao tôi nói ĐẠO PHẬT giống KHOA HỌC?
-- Tại vì cả hai đều đi tìm kiếm SỰ THẬT để rồi sau đó áp dụng SỰ THẬT đã tìm ra vào cuộc sống để giúp cho cuộc sống được hạnh phúc hơn. Chỉ có điều khác biệt là những sự thật do KHOA HỌC khám phá chỉ đưa đến hạnh phúc hữu hạn. Trong khi đó sự thật VÔ NGÃ mà Đức PHẬT đã khám phá có khả năng diệt tận khổ đau một cách hoàn toàn.
Nói tóm lại: Không có sự THIÊNG LIÊNG cao quí nào bằng sự CỨU KHỔ cho chúng sanh. Và không có cách CỨU KHỔ cho chúng sanh nào bằng tìm ra SỰ THẬT VÔ NGÃ để giúp chúng sanh chấm dứt hoàn toàn KHỔ ĐAU gây ra do VÔ MINH CHẤP NGÃ, ÁI, THỦ, và HỮU.
GS001: Bạn đừng phỉ báng Đức Phật. Ngài không bao giờ tuyên bố một cách sai sự thật như vậy. Tôi xin bạn chỉ cho tôi thấy Phẩm nào? Trang nào? trong kinh Pháp Hoa Phật đã nói A LA HÁN làm TIÊU NHA BẠI CHỦNG.
GS001 HỎI TIẾP: Đh HOAI KHONG NGO đã kiếm ra chỗ nào trong kinh PHÁP HOA chưa? Đh hẳn biết rằng các vị A LA HÁN là những đệ tử ruột của PHẬT mà ngài đã đào tạo nên. Làm sao mà PHẬT lại có thể phỉ báng các đệ tử quí nhất của mình là thứ "HẠT LÉP" (Tiêu Nha Bại Chủng) được. Làm sao mà các đh có thể tin lời mấy ông Tổ TÀU như thế được nhỉ?
Đạo hữu nên đọc thêm lời này của PHẬT trong kinh PHÁP CÚ, Phẩm TỰ NGÃ nè:
164. Kẻ ngu si miệt thị,
Giáo pháp bậc La Hán,
Bậc Thánh, bậc chánh mạng.
Chính do ác kiến này,
Như quả loại cây lau
Mang quả tự hoại diệt.
Rõ ràng PHẬT đã tiên tri đúng sự SUY TÀN của PHẬT GIÁO TQ.
RIGHTVIEW: Rõ ràng là đã dấu nghề nhá. Đã thành thật thì thành thật chê luôn cho rồi. Có gan dám chứng tỏ hơn ông SUZUKI không? Hay sợ sẽ bị thiên hạ "vặn họng"? Bạn đã bảo "không bị ai trói buộc cho nên dám nói ra SỰ THẬT, mà chẳng sợ gì ai" mà. Còn chờ gì nữa. Tôi chờ nghe đây.
Khi tôi còn học trung học, chưa biết chi về Đạo Phật, chỉ học qua lý thuyết quang học về sự thấy: Cho rằng khi ta thấy một vật A tại vì ánh sáng từ vật đó, đi vào võng mô và giác mạc của ta, rồi truyền tín hiệu lên não. Não process những tín hiệu này rồi cho ra một "IMAGE" về vật A. Cái ta thấy về A thật ra là cái IMAGE của óc não chứ không thực là A. Như vậy tôi cũng đã biết rằng mọi pháp ta thấy đều HƯ HUYỄN không thực, chưa cần biết gì đến Đạo Phật,
nhưng cái nhìn này bạn vẫn thấy được vạn vật có vì dưới cái nhìn này bạn tuy thấy hình anh sự vật nhưng nếu không có sự vật tồn tại thì sao mà bạn thấy do đó sự vật tồn tai thực hữu nên sự bám chấp vẫn còn .khi phân tích kĩ vào sự vật ta thấy sự vật theo khoa học là sự kết hợp vô vàn hạt phân tử,nguyên tử,hạt quắcv.v xét thêm nữa là năng lượng và ánh sáng. Nếu nói theo Phật pháp là tứ đại.Lấy một vd đơn giản :bạn nặng khoảng 50-60 kí vậy sau khi ốm bạn mất 1-2 kí vậythì phần khối lượng bạn mất đi đâu?
vd 2 bạn có 3 vật a,b,c a lớn nhất ,b trung bình c nhò nhất.Nếu tôi nói bạn chì ra vật có kích thước trung bình thì bạn chì vật b, tôi để 2 vật b và c nói bạn chỉ vật to hơn bạn chỉ vật b, tôi để 2 vật a,b nói bạn chỉ nhỏ hơn bạn cũng chỉ vật b.
hai ví dụ trên vd 1 để thấy vật tồn tai không thât, vd 2 cái nhìn của ta thấy không thật nó dựa trên so sánh mà hình thành
"Thậm chí tôi còn nghe nhiều ông tổ TQ phỉ báng các ngài A LA HÁN rằng: A LA HÁN còn ích kỷ, chỉ ham an trú NIẾT BÀN không muốn độ chúng sanh. Eo ôi! một bậc đã chứng được VÔ NGÃ đã không còn BÃN NGÃ, mà còn ÍCH KỶ được ư? Thậm chí còn có nhiều ông tổ TQ dạy cho đệ tử rằng A LA HÁN là "hạt giống lép" làm "TIÊU NHA BẠI CHỦNG". Trong khi đó, ngày hôm nay đạo Phật được nhân loại biết đến, chúng sanh biết đến PHẬT và các lời dạy của ngài, đều do các vị A LA HÁN đã kết tập kinh tạng qua 3 thời kỳ, để cho hạt giống PHẬT không bị mất đi. Thế mà người ta lại cho rằng A LA HÁN làm "tiêu nha bại chủng".
Ôi thôi, quí vị Phật tử VN ơi! Đừng "qui ngưỡng" TQ, đừng nô lệ TQ quá đổi như thế. Học đạo PHẬT để giái thoát chứ đâu phải để nô lệ TQ"
đạo Phật là đạo từ bi, trí tuệ không giới hạn bởi Tq, hay Vn, hay ấn độ hay bất kì một nước nào khác, Bạn trong kiếp này sinh ra ở vn nhưng trong kiếp trước lại sinh ở tq thì sao. Bạn có thấy rằng mình tự gò ép cho đạo Phật trở nên nhỏ bé và giới hạn hay không. Phật tử vn cũng chỉ biết ptử vn, còn các phật tử khác thây kệ hay sao. Người tq hay quốc gia nào khác có phải là chúng sinh không (biết ham sống biết đau khổ hay không) vậy lòng từ bi của bạn đâu rồi
Bạn nói :"nhiều ông tổ TQ dạy cho đệ tử rằng A LA HÁN là "hạt giống lép" làm "TIÊU NHA BẠI CHỦNG" xin lỗi bạn nhe nhưng câu này Phật nói trong kinh Pháp hoa và Ngài nói với mục đích để các vị alahan đừng thành đạo xong vội nhập niết bàn (vì chúng sinh đã góp công góp của cúng dường đế giúp cho các vị alahan có thể yên tâm tu học ).Phật nói điều này vì khi nghe tin Phật sắp nhập niết bàn một số vị alahan đã vội nhập niết bàn chứ không nói các vị ở lại tiết tục công việc hành pháp và quy tụ kinh điển
"Ôi thôi, quí vị Phật tử VN ơi! Đừng "qui ngưỡng" TQ, đừng nô lệ TQ quá đổi như thế. Học đạo PHẬT để giái thoát chứ đâu phải để nô lệ TQ. Nô lệ TQ thái quá như thế sẽ có ngày làm mất cả ĐẠO PHÁP lẫn DÂN TỘC VN"
Tôi chỉ "y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ" một người tq hay vn hay một quốc gia nào đi nữa nếu nói không sai pháp Phật tôi đều kính trọng.Tôi không nô lệ vì khi nghe tôi có chọn lọc và thực hành.Tôi giải thoát vì tôi biết điều tôi làm chỉ là pháp giai đoạn (thực hiện lục độ) và tôi làm mà tôi làm nhưng tôi không làm trên tư cách ta và người .
Tôi thấy bạn bị trói buộc ở chỗ kì thị tq quá, và vướng víu đạo pháp dân tộc quá. Đồng ý ta là người Vn phải có trách nhiệm với dân tộc ta nhưng cái gì quá cũng có hại đều sai trung đạo.
Tác giả cố gắng viết ngắn gọn để quí đạo hữu dễ nhớ những nguyên tắc chính về THIỀN TRÍ TUỆ của PHẬT.
Nhưng THIỀN là cả một khoa học sâu sắc về BẢN NGÃ của ta liên quan đến cả THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN.
Nếu quí Phật tử có gì thắc mắc xin đăng kí thành hội viên rồi đặt câu hỏi ở đây để Tác giả sẽ trả lời cho quí đạo hữu.
Thân ái.
GS001: Xin trả lời bạn như sau:
1) Thiền để có ĐỊNH là ở cấp sơ cơ. Thiền để có HUỆ là ở cấp rốt ráo. Như tôi nói ở trong bài viết, THIỀN rốt ráo là để thấy để chứng nghiệm SỰ THẬT VÔ NGÃ. Đạt VÔ NGÃ mới có ĐẠI ĐỊNH vô điều kiện, định ngay trong cả động. Định vô điều kiện như thế mới là định bền chắc, vì không có điều kiện để làm nó thay đổi.
2) Định của VÔ NIỆM là định có điều kiện, là định khi vắng bặt ý niệm. Nhưng sẽ dễ dàng mất định khi ý niệm dấy lên. Bậc trí tuệ không tìm kiếm những loại định tạm bợ như vậy. Ai đòi hỏi tâm vắng niệm thì chẳng khác gì đòi hỏi trời không mây; sông Hậu giang không bèo. Dầu có một lúc nào đó trời có thể không mây; sông có thể đã được cào hết bèo; nhưng mây sẽ có lại, bèo sẽ từ chỗ khac trôi về.
3) Mong cho không có ý niệm dấy lên thì chẳng khác gì mong sống được trong một bầu trời không có mây hay trong một thế giới không có âm thanh vậy. Phải biết rằng nơi đâu có được sự yên tĩnh thì nơi đó sẽ làm nổi bật sự ồn ào hơn đâu cả. Ai càng muốn yên tĩnh thì sẽ càng dễ thấy ồn ào. Do đó kẻ có lòng dục muốn yên tĩnh có thể bị điên vì không được thỏa mãn.
4) Quan niệm dẹp được ý niệm đi từ sự VÔ MINH của ý thức HỮU NGÃ. Tưởng rằng thế giới ý niệm thuộc về của ta và ta có thể dẹp sạch được ý niệm mãi mãi. Sự thật không phải vậy. Ý niệm cũng như một loại âm thanh siêu kín, có thể phát ra từ ta mà cũng có thể truyền từ xa đến ta. Bởi thế mới có chuyện "truyền tâm ấn", hoặc "nhập tri kiến Phật". Bởi thế đôi lúc ta có những giấc mơ không bao giờ nghĩ tới.
5) Bởi hiểu bản chất của ý niệm là VÔ NGÃ, sự sinh khởi của ý niệm là VÔ NGÃ (chẳng do ta), cho nên Đức Phật không dạy VÔ NIỆM mà dạy CHÁNH NIỆM. PHẬT dạy ta cứ quan sát sự sanh diệt của ý niệm để rồi sẽ khám phá ý niệm "DO DUYÊN SANH" không phải do ta sanh, không phải là của ta. Từ sự khám phá VÔ NGÃ đó ta sẽ đạt được sự YÊN TĨNH VÔ ĐIỀU KIỆN bất chấp có ý niệm hay không.
6) Đối với pháp CHÁNH NIỆM của PHẬT thì dầu có sự phân biệt ĐỘNG/TỊNH nhưng sự phân biệt ĐỘNG TỊNH đó không quan trọng mà sự quan trọng hơn là cái GIÁC TÁNH ở ngoài ĐỘNG/TỊNH quan sát được ĐỘNG/TỊNH, phân biệt biệt được ĐỘNG/TỊNH. Chính nhờ cái GIÁC TÁNH THƯỜNG TỊNH nên mới có khả năng phân biệt ĐỘNG/TỊNH như thế. Pháp CHÁNH NIỆM của Phật, nhờ luôn luôn luôn sống trong GIÁC TÁNH đó mà GIÁC TÁNH sẽ càng ngày càng phát triển để rồi ta sẽ ngộ được GIÁC TÁNH THƯỜNG TỊNH đó.
7) Trong khi đó các tổ TQ đưa ra pháp VÔ NIỆM chủ trương KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỘNG/TỊNH. Các Tổ tưởng rằng ngon hơn PHẬT, cao hơn PHẬT, vì không còn nhị biên phân biệt. Nhưng các ổng đã làm "ĐÙ" cái khả năng phân biệt của TRÍ TUỆ. Nếu không còn có sự PHÂN BIỆT thì còn gì là TRÍ TUỆ nữa? Nếu không có sự PHÂN BIỆT thì còn gì là GIÁC BIẾT?
8) Hễ có GIÁC, có BIẾT là phải có sự PHÂN BIỆT. Giả như các ông tổ đạt được cái tâm VÔ PHÂN BIỆT thì khi ấy các ổng vẫn còn PHÂN BIỆT như thường. Nếu không thế, thì làm sao các ông biết đó là VÔ PHÂN BIỆT? (khác với PHÂN BIỆT)? Cho nên không bao giờ có chuyện VÔ NIỆM hoặc VÔ PHÂN BIỆT. Cái đó chỉ xảy ra với những kẻ bị HÔN MÊ mà thôi.
9) Bởi Đức Phật đã biết trước chúng sanh vì còn VÔ MINH có thể đưa ra những pháp Thiền Định lầm lẫn, cho nên trong BÁT CHÁNH ĐẠO ngài mới có thêm chi CHÁNH ĐỊNH để cho ta cẩn thận phân biệt pháp thiền nào là pháp CHÁNH ĐỊNH, pháp nào là không. Do sự phân tích ở trên ta có thể kết luận rằng pháp CHÁNH NIỆM mới là pháp đưa đến CHÁNH ĐỊNH. Vì nó giúp phát triển TRÍ TUỆ VÔ NGÃ, tức cũng là TRÍ TUỆ BÁT NHÃ. Còn pháp VÔ NIỆM không phải là pháp đưa đến CHÁNH ĐỊNH (nhiều lắm chỉ đưa đến CẬN ĐỊNH, nhưng đôi khi còn có thể gây ra tai hại).
Thân ái.
Thiền làm thanh tịnh tâm cần thiết cho người mới tu tập, nhưng nó chưa thật sự là thiền, thiền là sự buông xả bất kì trang thái bấu víu vào đều là sai lạc (kể cả cố gắng thanh tịnh tâm hay như nhưng trang thái bạn gs nói ở trên) .Nhưng trang thái đó giống như nhưng trạm nghỉ trên quãng đường về đích,nếu ở quá lâu (ham thích , có thần thông,)bạn sẽ không bao giờ về đích được lâu dần lạc vào ma đạo.
Mấy dòng suy nghĩ nông cạn của tôi nếu có sai sót xin tiếp nhận ý kiến chia sẻ của các thiện tri thức
GS001: Thưa bạn, dầu bạn và rất nhiều người khác cũng biết đời là VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ, nhưng sự biết CHƯA RỐT RÁO và chưa rõ tận tường như thấy một SỰ THẬT rành rành trước mắt. Do đó TRÍ TUỆ vẫn chưa đủ sức mạnh để phá tan những che lấp của THAM ÁI và VÔ MINH để gọi là đã ĐẮC ĐẠO. ĐẮC ĐẠO là phải phá tan được hai thứ đó.
VÍ DỤ 1: Nếu như ta thật sự thấy VÔ THƯỜNG ở khắp THỜI GIAN, khắp KHÔNG GIAN thì chắc chắn ta không thể bị VÔ MINH, TÀ KIẾN về THƯỢNG ĐẾ hay THIÊN ĐÀNG dụ dỗ. Vì nếu vào bất cứ thời điểm nào các pháp cũng VÔ THƯỜNG biến động thì có nghĩa rằng từ khởi đầu (tạm cho là thế) các pháp cũng đã hiện hữu rồi để tạo ra sự VÔ THƯỜNG biến động. Như vậy thì làm gì có chuyện vũ trụ lúc đó yên tĩnh trống không rồi "đùng một cái" THƯỢNG ĐẾ tạo ra vũ trụ.
VÍ DỤ 2: Nếu như ta thật sự thấy KHỔ ở khắp THỜI GIAN và KHÔNG GIAN thì chính ngay BÂY GIỜ và tại NƠI ĐÂY đâu có thua gì sau này hoặc ở nơi khác để ta không thể sống vui ngay bây giờ và tại nơi đây? Nhưng thế nào là thấy KHỔ khắp thời gian và không gian? -- Vì nếu ở đâu đó hay vào lúc nào đó, cho dù có HẠNH PHÚC tuyệt vời đi nữa, thì có lúc hạnh phúc đó cũng sẽ mất đi theo luật VÔ THƯỜNG. Hạnh Phúc nào càng lớn thì lúc mất đi, sẽ càng gây nhiều khổ đau. Như vậy thì ở đó, lúc đó, vẫn khổ như thường. Vậy thì cần gì phải tham ái hay mong ước đến lúc đó hay đến nơi đó? Vậy thì sao không vui ngay trong HIỆN TẠI và ngay ở NƠI ĐÂY?
VÍ DỤ 3: Nếu như ta thật sự thấy VÔ NGÃ rốt ráo cho cả THÂN và cả TÂM thì còn gì nữa mà sợ ĐAU sợ GIÀ, sợ BỆNH, sợ CHẾT? Được VÔ NGÃ như thế thì thật sự là đã giải thoát hoàn toàn rồi. Bạn đã đến trình độ VÔ NGÃ như vậy chưa? Tôi tin là chưa! Phải không? Đó là lý do chúng ta cần thực hành THIỀN CHÁNH NIỆM (TỨ NIỆM XỨ) để thấy cho thật rõ THỰC TƯỚNG VÔ NGÃ của chính mình. Nếu tinh tấn thực hành thiền đúng pháp của PHẬT như vậy thì chắc chắn sẽ đến lúc ta có sự GIÁC NGỘ VÔ NGÃ một cách tận tường để không còn bám víu vào THÂN TÂM này nữa. Đó là lúc thực sự được giải thoát ra khỏi SINH, LÃO, BÊNH, TỬ.
GS001: Câu hỏi của RIGHT VIEW rất hay! Tôi xin trả lời như sau:
1) Đạo Phật là ĐẠO TRÍ TUỆ nên không hề ưa những ĐỨC TIN MÙ QUÁNG. Tôi nhớ Đức Phật có tuyên bố ở đâu đó trong kinh tạng rằng "Các con đến với Như Lai để THẤY chứ không đến để TIN". Tức ai đã đến với ngài thì ngài sẽ giải thích cho thấy rõ ràng chứ ngài không muốn thâu nhận loại đệ tử chỉ tin ngài một cách mù quáng. Trong KINH KIM CANG ngài còn dạy rằng "TIN TA MÀ KHÔNG HIỂU TA LÀ PHỈ BÁNG TA". Có nghĩa là ngài không muốn mang tiếng là thầy của những kẻ mù quáng. Ai đã đến với Phật thì phải có thiện chí học hỏi để mở mang trí tuệ.
2) Đao Phật tuy cũng có ĐỨC TIN như các tôn giáo khác. Nhưng ĐỨC TIN chỉ cần cho những kẻ mới vào đạo mà thôi. Mỗi khi đã đến với Phật rồi thì phải học cho đến lúc có Trí Huệ khai mở để phá bỏ đức tin đi. Đức Phật không bao giờ muốn tín đồ của mình cứ tin suốt đời suốt kiếp mà không mở mang trí tuệ. Trong NGŨ CĂN, NGŨ LỰC: TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH, HUỆ của đạo Phật, thì TÍN chỉ cần để nhập môn, để lên đường. Nhưng cuối cùng phải đi đến HUỆ. TÍN chỉ cần để tạo nhân duyên đến với Phật mà thôi. Chứ mỗi khi đã thấy rõ được giáo lý của Phật rồi thì không những NGHI chấm dứt mà TIN cũng không còn cần thiết nữa.
3) Đạo phật cũng là ĐẠO SỰ THẬT cho nên trong BÁT CHÁNH ĐẠO chữ CHÁNH KIẾN (RIGHT VIEW) đi đầu. Tức là sự thấy phải đúng với SỰ THẬT. Nick name của bạn rất hợp với đạo Phật đấy. ĐẮC ĐẠO trong đạo PHẬT là khi đã thấy rõ được các sự thật: VÔ THƯỜNG, KHỔ, và VÔ NGÃ. 3 SỰ THẬT đó gọi là TAM PHÁP ẤN. Ai đã thấy rõ cả 3 sự thật đó thì kể như là đã ĐẮC ĐẠO hay CHỨNG ĐẠO. 3 sự thật đó kể như 3 dấu ấn đóng trên một bằng tốt nghiệp ra trường. Như vậy thì phải biết rằng Đạo Phật chỉ cần TRÍ TUỆ để ĐẮC ĐẠO chứ không cần ĐỨC TIN để đắc đạo. Thật ra hễ còn TIN chỉ chưa thể đắc đạo được. Vì còn TIN là chưa thấy. Mà đắc đạo là phải thấy rõ ràng.
Cho nên tôi tin rằng trong thời đại KHOA HỌC này, số người ĐẮC ĐẠO PHẬT sẽ tăng lên rất nhanh, nếu Đạo Phật được truyền bá rộng rãi và đúng với tinh thần TRÍ TUỆ như một khoa học.
Thân ái.