Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại đạo bồ đề không tiến ắt lùi

18 Tháng Ba 201200:00(Xem: 14204)
Đại đạo bồ đề không tiến ắt lùi
ĐẠI ĐẠO BỒ ĐỀ KHÔNG TIẾN ẮT LÙI
Pháp Sư Tịnh Không

 

ht_tinhkhong-contentXin chào các vị đồng tu!

Học hội ở đây tôi tuy là không thường đến, nhưng hoạt động tu học hoằng pháp bên đây, tôi cũng luôn một mực quan tâm, hy vọng tương lai có thể có nhiều thời gian hơn. Chúng ta hết mức tận dụng đạo tràng để giúp cho các đồng tu hữu duyên cố gắng nỗ lực tu học Phật pháp. Lần này tôi đến Sydney, Úc Châu tham gia Cơ Kim Hội của Đại học Phật giáo. Việc này là năm trước hội trưởng đã nêu lên với tôi, mời tôi đến tham dự và tôi đã nhận lời với ông. Thế nhưng rốt cuộc tính chất hội này là gì? Lần này tôi đến Sydney đến ngày thứ hai mới biết được rõ ràng. Họ trù bị Cơ Kim Hội là hy vọng đại học ở Sydney này có thể khai giảng khóa trình của Phật giáo, Cơ Kim Hội là cung cấp cho trường học, dùng để mời giáo sư, bởi vì tôi nghe nói trong trường học có giáo trình của Hồi Giáo, có giáo trình của Cơ Đốc Giáo, thế nên có một số nhân sĩ có nhiệt tâm, đề xuất với trường học khai mở giáo trình Phật Giáo. Trường học cũng rất hoan hỉ, thế nhưng không có số kinh phí này, thế cho nên họ thành lập Cơ Kim Hội của Đại học Phật giáo. Đây là một việc làm rất tốt, chúng ta sau khi nghe rồi, rất hoan hỉ tán thán, thế nên đồng thời tôi cũng tham quan Lô thái thái An Lão Viện mà họ xây dựng, vừa mới khởi công.

Ngoài ra cũng đã gặp được một số lãnh đạo Hoa kiều, nghe nói Việt Nam, Campuchia, Lào, có một số kiều dân cũng rất nhiệt tâm, muốn thành lập một viện an dưỡng ở Sydney, chăm sóc người già. Đây đều là những việc tốt, thế nhưng xoay sở tiền nong rất khó, bảy tám năm mà vẫn không chuẩn bị đủ. Họ đem [việc này] nói với tôi, tôi cũng rất đồng cảm, nhưng thực tế là thương mà không giúp được gì. Tôi nêu ra năm trước, chúng ta ở Singapore, vì Hồi Giáo tổ chức một lần vận động góp tiền, làm được rất thành công. Hồi giáo họ làm một trường học thì phải mua phòng học nên tổ chức quyên tiền. Năm nay Ấn Độ giáo dường như là thành lập y viện, cũng cần phải trù bị quyên góp. Chúng ta làm theo cách làm năm trước, chúng ta làm công việc này cho họ. Tôi nói với đồng tu bên Sydney, chúng ta nhất định phải nghĩ phương pháp để người nơi đây, đồng bào nơi đây, chủng tộc khác nhau, những người không cùng tôn giáo nơi đây, có thể nhiệt tình quan tâm đến mọi người, chăm sóc mọi người, giúp đỡ mọi người, thì sự nghiệp của bạn mới được xem chân thậtthành tựu. Việc này là một việc làm tốt. Nếu như không được sự ủng hộ nhiệt liệt của người địa phương, việc làm của bạn có làm được tốt hơn cũng không thể xem là thành công. Đạo lý này chúng ta nhất định phải hiểu.

Làm thế nào mới có thể được đại chúng trong xã hội tiếp nhận nồng nhiệt chứ? Việc cần thiết trước tiên là chính chúng ta phải quan tâm xã hội, phải quan tâm người khác, phải giúp đỡ người khác, phải thương yêu người khác, bạn mới có thể được hồi báo. Thương yêu người thì được người kính trọng, giúp đỡ cho người thì người sẽ giúp lại. Nếu như chúng ta chính mình không thể nhiệt tâm chủ động đi giúp đỡ người khác, mà muốn người khác đến giúp đỡ chúng ta, việc này không thể có được. Việc tốt nhất định không phải ở trên cửa miệng, nhất định phải làm cho được, tận tâm tận lực mà làm, bạn mới có thể cảm động người, mới có thể cảm động Phật Bồ Tát, mới có thể cảm động thiên thần. Người đắc đạo được nhiều trợ giúp. Cái đạo này là gì vậy? Là đạo lý. Bạn phải hiểu rõ đạo lý làm người, hiểu rõ đạo lý xử thế, hiểu rõ người và người, đạo lý giữa người và tất cả chúng sanh. Khởi tâm động niệm, tất cả việc làm đều tương ưng với đạo lý này, không trái với đạo lý này nên gọi là “đắc đạo giả đa trợ”, nhà Phật thường nói là bạn được chư Phật Bồ Tát hộ niệm, bạn được long thiên thiện thần bảo hộ. Đây là chân thật, tuyệt đối không phải gạt người. Trong lịch sử, những kỳ tích cảm ứng thì quá nhiều. Chính ngay xã hội hiện tại trước mắt chúng ta, chúng ta cũng thường nghe thấy, ở Trung Quốc, ở Nam Dương, ở Âu Mỹ, có rất nhiều báo cáo về việc cảm ứng. Vậy thì do đây mà biết, nhân duyên quả báo, đó là sự thật rõ ràng.

Cái gì gọi là chân thành mà làm chứ? Chân là chân tâm, là thành ý, quyết định không có chút gì giả dối. Chúng ta đi làm những việc lợi ích xã hội, những việc lợi ích chúng sanh, không nên đi làm những việc lợi ích chính mình. Những việc lợi ích chính mình là tư, tư chính là ác, những việc lợi ích chúng sanh là công, công chính là thiện. Chúng ta tu hành, tu hành cái gì vậy? Đem hành vi sai lầm tu sửa nó lại, gọi là tu hành. Tự tư tự lợihành vi sai lầm, đại công vô tưhành vi đúng đắn, là hành vi thiện. Nhà Phật, chư Phật Bồ Tát đều dạy chúng ta phải nhìn thấu, phải buông bỏ. Nhìn thấu là trí tuệ Bát Nhã, trí tuệ Bát Nhã làm chúng ta thấu hiểu chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Sau khi hiểu rõ ràng chân tướng, những thứ nào nên buông bỏ, những thứ nào nên đề xướng, bạn tự nhiên có thể làm được đúng pháp. Cho nên học Phật, chúng ta nhất định phải rất rõ ràng thấu đáo. Mục đích của học Phật ở đâu? Học Phật là để khai mở trí tuệ, học Phật là để hồi phục đức hạnh của chính mình, nâng cao cảnh giới của chính mình.

Hôm nay mọi người chúng ta tụ hội nơi đây, mỗi một vị đồng tu, không phân biệt quốc tịch, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chủng tộc, mỗi một người đều là thiện căn phước đức nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp chín muồi, đã là nhiều đời nhiều kiếp tu hành, vì sao vẫn còn dáng vẻ như ngày hôm nay vậy? Cảnh giới của chúng ta vẫn không được nâng lên, nguyên nhân sau cùng là do đâu? Việc này không thể không biết, chúng ta nhất định phải tìm ra được nguyên nhân, đem cái nguyên nhân này trừ bỏ đi, sửa đổi tự làm mới, thì mục đích học Phật của chúng ta liền có thể đạt đến. Đa số người, tuyệt đại đa số người không biết được chính mình có lỗi lầm, luôn cho rằng chính mình không có lỗi lầm, người khác có lỗi lầm. Đây là quan niệm rất là sai lầm, cho nên công phu tu hành của chúng ta không được đắc lực. Ngày trước chúng ta không nói, ngay trong một đời này, công phu tu hành chúng ta không được đắc lực, không có tiến bộ, không thể thay đổi vận mệnh của chính mình. Thế xuất thế gian pháp đều thường nói, người thế gian thường nói “tướng tùy tâm chuyển”, trên kinh Phật thường nói “nhất thiết duy tâm tạo”, vậy thì do đây mà biết, công phu tu hành của chúng ta nếu như được đắc lực thì tướng mạo sẽ chuyển, thể chất sẽ chuyển. Đây là công phu thấp nhất, không phải là công phu sâu. Cũng chính là nói, bạn có thể tiêu tai thì phước đến, nhất định sẽ được phước báo. Những thứ gì là tai vậy? Ngu si là tai, phiền não là tai. Công phu chân thật đắc lực thì những thứ này sẽ không còn nữa, phiền não của bạn nhẹ, trí tuệ lớn hơn. Nghiệp chướng tiêu rồi, phước đức hiện tiền, không luận làm bất cứ việc gì đều rất thuận lợi, đó là công phu tu hành của chúng ta có lực. Đây là thành tích rất nhỏ mà thôi, nhưng chúng ta đều không có được. Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình. Sau khi tìm ra rồi, triệt để đem nó thay đổi lại, đây gọi tu hành.

Trong kinh Phật nói rất nhiều, trong đại thừa giáo, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Phật nói với chúng ta tịnh nghiệp tam phước. Đây là giáo học căn bản của tu học đại thừa, chúng ta có hiểu hay không vậy? Chúng ta có làm được hay không? Điều thứ nhất là hiếu dưỡng cha mẹ, chúng tanỗ lực phản tỉnh hay không? Cái điều này ta đã làm được hay chưa? Cha mẹ còn thì có phương thức hiếu dưỡng khi còn, cha mẹ không còn nữa thì có phương thức hiếu dưỡng khi không còn, chúng ta có hiểu hay không? Chúng tanỗ lực làm không? “Phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nhiệp” là điều thứ nhất. Bốn câu này làm được rồi, chúng ta liền có thể thay đổi vận mạng, liền có thể tiêu tai giải nạn, liền có thể được phước báo nhân thiên. Phải từng câu làm cho được. Hiếu thân, tôn sư, tâm từ bi đều thực tiễn ngay trong thập thiện nghiệp đạo. Nếu như không tu mười nghiệp thiện, ba câu phía trước đều rỗng không. Chúng ta từ ngay chỗ này mà đi tìm lỗi lầm của chính mình.

Không sát sanh, cái điều này là dưỡng tâm từ bi. Từ tâm bất sát. Nếu như chúng ta còn có một ý niệm, cái ý niệm này dù có nhỏ đến đâu, có ý niệm tổn hại chúng sanh thì tâm giết hại của chúng ta chưa đoạn dứt. Chúng ta còn có thể hận một người, còn không vừa lòng đối với một người, thì giới điều này không được thanh tịnh. Không cần phải phạm các việc khác, trên sự mà phạm thì sẽ còn nặng hơn. Khởi tâm động niệm ngay chỗ này mà kiểm thảo.

Điều thứ hai là không trộm cắp. Chúng ta còn có ý niệm muốn chiếm tiện nghi của người khác là tâm trộm, tâm trộm chưa dứt được. Do đây có thể biết, từng điều từng điều mà kiểm thảo, thế là phát hiện, chúng ta từ sớm đến tối đều đang tạo ác, chúng ta chưa đoạn ác, chúng ta chưa tu thiện. Như vậy mới chân thật hiểu được, vì sao công phu không được đắc lực, vì sao học Phật học lâu đến như vậy mà một chút thay đổi cũng không có. Tướng mạo của chúng ta có thay đổi hay không? Thể chất của chúng ta có thay đổi hay không? Thường hay nhiều bệnh, việc này chúng ta phải nên cảnh giác cao độ, nhiều bệnh là nghiệp chướng hiện tiền. Nghiệp chướng hiện tiền, đó là việc thiện bạn không tu được tốt. Quả nhiên đoạn ác tu thiện rồi thì bệnh tật này không còn nữa. Trong tâm từ bi, tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh thì làm gì có đau bệnh chứ? Đạo lý này chúng ta không thể không hiểu.

Từ nơi nền tảng của mười thiện mà nâng cao lên, mới tu Tứ Nhiếp pháp, Lục Độ, là pháp Bồ Tát. Học Bồ Tát, mô phỏng Bồ Tát, phải đem chính mình biến thành Bồ Tát. Chúng ta không xem thấy ở trên kinh có Bồ Tát bị bệnh, cũng không xem thấy có Bồ Tát suy yếu, vì sao vậy? Tướng tùy tâm chuyển, cảnh tùy tâm chuyển, tâm thanh tịnh thân liền thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh hoàn cảnh liền thanh tịnh, không thứ nào là không thanh tịnh, vậy thì làm sao bị bệnh chứ! Học chính là phải học chuyển cảnh giới mà không bị cảnh giới chuyển. Trong kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Nếu có thể chuyển cảnh thì đồng với Như Lai”. Việc chuyển cảnh thì rất quan trọng, bạn có thể chuyển cảnh giới, bạn mới là người chân chánh tu hành, bạn bị cảnh giới xoay chuyển thì bạn là phàm phu. Do đó chúng ta mỗi ngày nghe kinh, mỗi ngày đọc kinh, đọc rồi, nghe rồi, nhất định phải hiểu được ý nghĩa của nó. Sau đó đem nghĩa thú trong kinh giáo thực tiễn ngay trong đời sống của chúng ta, để khởi tâm động niệm lời nói hành động ngay trong đời sống thường ngày của chúng ta đều tương ưng với kinh giáo, đều không trái với kinh giáo, đó mới gọi là học Phật. Nếu như kinh giáokinh giáo, tách rời với sinh hoạt của chính chúng ta, hoàn toàn không liên quan, vậy thì bạn đã sai rồi.

Phật dạy bảo chúng ta, chúng ta phải thông hiểu, đó không phải là giáo điều của Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng không phải là ý riêng của Thích Ca Mâu Ni Phật, những gì Phật Bồ Tát đã làm đều là lưu xuất từ tự tánh. Cái thân này của chúng ta cùng với thân của Thích Ca Mâu Ni Phật không như nhau, nhưng tánh của chúng ta cùng tánh của Thích Ca Mâu Ni Phật là như nhau, chỗ này không hề khác nhau. Thích Ca Mâu Ni Phật từ nơi tự tánh lưu xuất ra những thiện hạnh, cùng với những thiện hạnh vốn sẵn đầy đủ ngay trong tự tánh của chúng ta không hề khác biệt. Nếu như chúng ta hiểu rõ được đạo lý này, thấu triệt sự thật thì mới biết được chúng ta nên học Phật, thì mới biết được Phật biểu hiện là lưu xuất từ tánh đức của chính mình. Học Phật không phải học với người khác, mà phải từ tánh đức của chính mình mà khai thác ra, hiển hiện ra mà thôi. Cho nên trong tông môn thường nói “bổn lai diện mục mà trước khi cha mẹ sanh ra”. Lời nói này là ý gì vậy? Bổn lai diện mục chính là chân tâm của chính mình, chính là bổn tánh của chính mình.

Trung Quốc thời xưa giáo dục nhi đồng, dạy các bạn nhỏ đọc Tam Tự kinh. Trong Tam Tự kinh, câu đầu tiên là “nhân chi sơ, tánh bổn thiện”. Cái bổn thiện đó chính là chân tâm của chúng ta, chính là tự tánh của chúng ta. Tất cả chúng sanh không những chân tâm tự tánh là vốn thiện, mà còn là như nhau. Chúng sanh cùng Phật không hề khác biệt, cho nên Phật pháp thường nói “sanh Phật bất nhị”. Chúng ta ở trong đại thừa kinh giáo, đặc biệt như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa nói rất rõ ràng, nói đến quả địa Như Lai trí tuệ viên mãn, đức năng viên mãn, đó chính là lưu lộ ra từ tự tánh rốt ráo, đó chính là chính chúng ta. Trí tuệ đức năng tướng hảo của chính chúng ta cũng giống như trong đại kinh đã nói, vì sao ngày nay chúng ta biến thành ra như thế này? Trải qua đời sống gian khổ đến như thế này? Phật nói là do chúng ta mê mất đi tự tánh. Tự tánh chúng ta thật sự không phải không có, không phải thật đã mất đi, mà mê mất thôi, tuy có nhưng chính bạn không thể phát giác ra.

Thứ gì đã làm cho chúng ta mê mất [tự tánh] vậy? Phật nói, phiền não đã làm cho chúng ta mê mất, vọng tưởng làm chúng ta mê mất, phân biệt làm cho chúng ta mê mất. Nếu như chúng ta rời xa vọng tưởng phân biệt chấp trước thì tánh đức của chúng ta liền được hồi phục. Nhưng lời nói này, Phật nói ở trên kinh Hoa Nghiêm, chúng ta nghe rồi, dường như cũng đều nghe hiểu, mà trên thực tế thì sao? Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần vẫn là khởi vọng tưởng, vẫn cứ phân biệt chấp trước, cho nên tuy là có tâm tánh đồng với chư Phật Như Lai nhưng không có được thọ dụng. Về việc này, chúng ta không thể không nghĩ nhiều một chút, nếu bạn thường nghĩ đến, bạn liền khai mở trí tuệ. Thường hay kiểm điểm, thường hay phản tỉnh, thường hay cải đổi, thường hay tự làm mới, thì công phu tu hành của bạn tự nhiên sẽ có lực. Việc này thì người khác không thể giúp được, Phật Bồ Tátđại từ đại bi vẫn là không thể giúp được, duy nhất chỉ là chính mình nương vào chính mình, Phật Bồ Tát giúp đỡ chúng ta chỉ là tăng thượng duyên mà thôi. Cái gì gọi là tăng thượng duyên? Đem những chân tướng sự thật này nói với chúng ta, nhắc nhở chúng ta, còn đoạn ác tu thiện thì các ngài không cách gì, Phật Bồ Tát không thể đoạn ác thay cho chúng ta, không thể tu thiện thay cho chúng ta, cho nên tu hành phải nương vào chính mình. Trong kinh đại thừa thường nói “khai thị ngộ nhập” (trên kinh Pháp Hoa nói), Phật chỉ có thể khai thị cho chúng ta, chúng ta tiếp nhận khai thị của Phật, chính mình phải biết ngộ nhập. Ngộ là khi nghe khai thị của Phật rồi thì thông suốt, nhập là khế nhập cảnh giới của Phật.

Ngày nay chúng ta không thể vào được cảnh giới Phật là bởi vì chính mình có chướng ngại. Chướng ngại này gọi là nghiệp chướng, cho nên nhất định phải buông bỏ nghiệp chướng, viễn ly nghiệp chướng thì chúng ta liền vào cảnh giới Phật. Cho nên muốn vào được cảnh giới Phật thì trước tiên phải khai giải, cũng chính là ngộ. Trước tiên phải khai ngộ sau đó mới có thể khế nhập. Vậy vì sao không thể khai ngộ chứ? Chính do vì nghiệp chướng đang khống chế. Vậy thì do đây mà biết, người xưa nói rất hay, bạn có thể buông bỏ một phần thì bạn liền có thể ngộ nhập một phần, bạn có thể buông bỏ mười phần thì bạn liền ngộ nhập mười phần. Mỗi ngày nghe Phật giảng kinh nói pháp, nhưng bạn không khai ngộ, bạn không thể buông bỏ thì bạn vẫn cứ là phàm phu. Phật pháp rất nhiều công đức lợi ích thù thắng, một phần cũng không có được, trên đạo Bồ Đề một tấc cũng khó đi. Ở trong tình huống này, ngạn ngữ có câu nói rất hay là “không tiến ắt lùi”. Bạn có thể giữ được vị trí ban đầu của bạn không? Không thể giữ được, không phải tiến về phía trước thì sẽ lui về phía sau. Tu hành như bơi thuyền ngược nước, bạn sẽ thoái chuyển, bạn tùy thuận phiền não tập khí của bạn, tùy thuận thành kiến của chính mình, cũng chính là tùy thuận cách nghĩ, cách nhìn, cách nói, cách làm của chính mình thì làm sao mà không thoái chuyển chứ? Do đó mà từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta đời đời kiếp kiếp tu hành, đến ngày nay vẫn là như thế này.

Gần đây, lão pháp sư Ấn Quang từ bi đến đến cùng cực. Hiện tại rất nhiều người đều biết, lão pháp sư ngài là Bồ Tát Đại Thế Chí của thế giới Tây Phương Cực Lạc tái sanh, ứng hóa đến đây. Bồ Tát Đại Thế Chí đại biểu trí tuệ, ngài thị hiện trong khoảng thời gian này chính là ngay trong một đời của ngài cực lực đề xướng Liễu Phàm Tứ Huấn, đề xướng giáo dục nhân quả. Ngài viết ở trong lời tựa của Liễu Phàm Tứ Huấn rất hay, phàm phu chúng ta chưa minh tâm kiến tánh, cũng không biết tâm tánh kiến tánh là gì, ngài nói, quả nhiên có thể từ đoạn ác tu thiện, trong nhân duyên quả báo thể hiện đến tâm tánh. Việc này đích thực là một pháp môn phương tiện, pháp môn phương tiện rất tốt, có thể khiến cho người căn tánh trung hạ có thể từ nơi pháp môn này mà ngộ nhập, đích thực là giáo đạo trí tuệ cứu cánh viên mãn. Hay nói cách khác, chúng ta từ tin sâu nhân quả, bạn chân thật tin tưởng, nhân thiện có quả thiện, nhân ác có ác báo, đối với sự việc này, một chút hoài nghi cũng không có thì bạn liền ngộ. Người có thể tin tưởng nghiệp nhân quả báo thì nhất định đoạn ác tu thiện, vì sao vậy? Đoạn ác thì ta sẽ không bị quả báo, ta tu thiện thì ta nhất định được quả thiện, vậy là nhập rồi, nhập vào cảnh giới của Phật Bồ Tát. Việc này ở vào thời kỳ mạt pháp, đối với quảng đại chúng sanh hữu duyên mà nói, là một học tập rất tốt. Bởi vì ở vào thời đại này của chúng ta, cơ hội để học sách xưa đã không còn nữa, đại khái những người 60-70 tuổi trở lại đều không có học qua sách xưa. Tuổi tác như tôi đây học sách xưa cũng không đến một năm, lúc nhỏ chỉ có học qua mấy tháng, về sau thì không còn nữa, trường học không có dạy, cho nên trong khoảng 70 tuổi đều không có học qua sách xưa. Nếu nói những đại đạo lý của của thánh hiền, chúng ta cho dù nghe cũng nghe không hiểu. Cách làm này của Đại sư Ấn Quang, chúng ta có thể nghe hiểu, chúng ta có thể tiếp nhận, cho nên đây là giáo học trí tuệ cứu cánh viên mãn, chúng ta từ nơi đây mà bắt tay vào.

Đoạn ác tu thiện, lão thật niệm Phật, quyết định sanh về nước Phật, đây là đem cảnh giới tu học của chúng ta nâng lên cao hơn, không phải là nâng cấp thông thường, mà là một nâng cấp vượt trội hơn bình thường. Thế nhưng các vị phải ghi nhớ, tuyệt đối không phải nói mỗi ngày chúng ta niệm Phật thì có thể vãng sanh. Pháp môn nay tuy là nói dễ hành, dễ hành là so sánh với các pháp môn khác, nó dễ hơn so với các pháp môn khác, tuyệt nhiên không phải ở ngay trong tưởng tượng của chúng ta dễ dành đến như vậy. Vậy phải niệm thế nào mới có thể vãng sanh? Người xưa thường hay dạy bảo chúng ta: “Một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”, bạn phải niệm được tương ưng. Tương ưng với đâu vậy? Mức độ thấp nhất phải tương ưng với phước thứ nhất trong tam phước, cũng chính là nói “hiếu thân tôn sư, thập thiện nghiệp”. Mỗi câu Phật hiệu đều tương ưng với đây, có thể tương ưng với bốn câu này, vậy mới có thể vãng sanh.

Nếu như chỉ niệm Phật còn tâm hạnh đều bất thiện, thân còn tạo sát đạo dâm, miệng còn vọng ngữ, nói hai lời, nói thêu dệt, nói lời ác, trong tâm còn có tham sân si mạn, như vậy một ngày niệm mười vạn danh hiệu Phật cũng không thể vãng sanh. Bạn muốn hỏi vì sao vậy? Ở trên kinh Phật tường tận nói với bạn, thế giới Tây Phương Cực Lạc là “chư thượng thiện nhân tụ hội nhất xứ”, tuy là bạn niệm Phật niệm được rất nhiều, tâm hạnh của bạn đều bất thiện, không thể tương ưng với thế giới Tây Phương Cực Lạc, chính là bạn niệm Phật hiệu đó không tương ưng. Thế giới Cực Lạc thuần thiện không ác, cho nên chúng ta chính mình cần phải bồi dưỡng chính mình, tâm thuần thiện, hành vi thuần thiện, nhất định không có chút gì tổn hại đến người khác, tổn hại tất cả chúng sanh, con muỗi, con kiến, chúng ta cũng đều không có ý niệm tổn hại chúng, vậy mới có thể tương ưng. Trên kinh nói rất hay, chỉ sợ người tụng kinh chúng ta đại khái qua loa xem thường. Cho nên người niệm Phật, mỗi câu Phật hiệu thức tỉnh chúng ta, phải hiếu thân tôn sư, phải tu mười thiện. Người niệm Phật như vậy thì vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư Độ.

Nếu như có thể đem cảnh giới của chính mình nâng lên cao thêm một bậc, vậy phải làm cho được điều thứ hai của tam phước là “Thọ trì Tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”. Nội dung ba câu này sâu rộng vô tận. Thọ trì tam quy, cái gì gọi là tam quy? Đối với người với việc với vật, đối với thế gian pháp, đối với xuất thế gian pháp giác mà không mê, vậy gọi là quy y Phật, chánh mà không tà gọi là quy y pháp, tịnh là không nhiễm gọi là quy y Tăng. Hay nói cách khác, đối với người với việc với vật, đối với thế gian, đối với xuất thế gian đều phải dùng Giác-Chánh-Tịnh, quyết định không có Mê-Tà-Nhiễm, như vậy niệm Phật mới có thể sanh cõi Phương Tiện Hữu Dư.

Lại nâng lên thêm một bậc nữa, đó là đại thừa, học Phật A Di Đà phát tâm Bồ Đề. Phát tâm Bồ Đề là như thế nào vậy? 48 nguyện trong Kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta đọc rồi, 48 nguyện của Phật A Di Đà. Chúng ta phải phát ra đại nguyện giống như Phật A Di Đà vậy, không phải mỗi ngày tụng lời nguyện của ngài, mà phải biến nguyện của ngài thành nguyện của chính mình, như vậy mà niệm Phật vãng sanh đến thế giới tây phương Cực Lạc sẽ sanh cõi Thật Báo Trang Nghiêm, Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Bạn xem ở trên kinh Phật rõ ràng tường tận, cẩn thận thấu đáo dạy bảo chúng ta, chúng ta phải hiểu, nhất định phải làm cho được. Mức độ thấp nhất phải làm tốt được mười thiện, phải đoạn mười ác, phải tu mười thiện thì cõi Đồng Cư Độ của thế giới Cực Lạc chúng ta mới có phần. Nếu không thì bạn sẽ sai lầm. Nếu lần này sai rồi, thì thật vô cùng đáng tiếc, không biết phải sanh đến nơi nào, một kiếp nào, bạn mới có thể gặp được duyên phận như thế này nữa. Cái cơ duyên này, người xưa nói là “trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp”.

Vì sao tu hành gian nan đến như vậy? Lúc trước khi chúng tôi đang cầu học, lão sư thường hay nói thời gian huân tập của chúng ta không đủ. Lời nói này chúng ta càng nghĩ càng có đạo lý. Thời đại của Thích Ca Mâu Ni Phật, những người học sinh của ngài vì sao mỗi mỗi đều thành tựu? Có gì khác hơn [chúng ta]? Mỗi ngày huân tập, mỗi ngày nghe Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh. Phật giảng kinh 49 năm, trong số học trò có rất nhiều người trong 49 năm không sót một thời nào thì sao họ không thành tựu chứ? Đương nhiên thành tựu. Chúng ta sanh vào thời đại này, cơ hội nghe kinh quá ít, thỉnh thoảng nghe được một lần, nên gọi là “một ngày ấm lên mười ngày lạnh đi”. Cho dù ngày ngày nghe kinh, ngày ngày nghe cũng không được, mỗi ngày nghe hai giờ đồng hồ, một ngày 24 giờ đồng hồ, hai giờ đồng hồ nghe kinh Phật, 22 giờ khởi phiền não thì làm sao có được thành tựu chứ? Về sau chúng ta mới hiểu được, năm xưa Thế Tôn còn ở đời, mỗi ngày giảng kinh tám giờ đồng hồ, dạy người niệm Phật, ngồi tham thiền tám giờ đồng hồ, một ngày làm hết 16 giờ đồng hồ, mỗi ngày làm thì thành công, đạo lý chính ngay chỗ này, như vậy chúng ta mới đem tu học của chính mình tìm ra được chướng ngại không thể thành tựu

Cô Ngộ Thiên ở đây, các vị đều quen biết. Khi cô đến ở trên núi Toowoomba, tôi nghe nói mỗi ngày cô nghe kinh sáu giờ đồng hồ, sớm tối lạy Phật ba trăm lạy, khi làm việc thì học kinh Vô Lượng Thọ, cho nên cô có được chút thành tựu. Hiện tại lần này tôi đến xem thử, cô đã lui sụt rồi, vì sao vậy? Mỗi ngày nghe kinh không còn sáu giờ đồng hồ nữa, một ngày không làm thì thoái lui, ba ngày không làm thì không còn như trước nữa. Mỗi ngày phải làm, mỗi ngày phải giữ gìn, giữ chặt không rời, một môn thâm nhập, vậy mới có thể thành tựu. Thế nên hiện tại trên núi có một đạo tràng nhỏ, mọi người đều đang cố gắng dụng công học tập. Chúng ta phải bắt đầu từ đâu vậy?

Phải bắt đầu từ tiểu học, bổ túc lại. Về trước không có học qua, hiện tại bắt đầu lại, phải học từ Đệ Tử Qui. Hiện tại Đệ Tử Qui họ đã học xong rồi, thì học Tam Tự kinh. Chúng ta yêu cầu phải học thuộc lòng, phải có thể giảng, phải có thể hành. Học rồi phải làm mới được, làm không được thì đó là chưa học, học cũng như chưa học, nhất định phải làm được. Thế nên Đệ Tử Qui, Tam Tự kinh này, sau khi học xong, tôi yêu cầu họ học cổ văn. Mở đầu cổ văn học cái gì? Học Liễu Phàm Tứ Huấn. Liễu Phàm Tứ Huấn có bốn thiên, chính là bốn thiên cổ văn, là văn chương rất hay, đem nó xem thành cổ văn để học. Liễu Phàm Tứ Huấn học xong rồi, học Du Tịnh Ý Ngộ Táo Thần Ký, cũng là một thiên cổ văn rất hay. Chân thật ở chỗ này mà hạ công phu, đem những thiên văn chương này hoàn toàn thực tiễn rồi, thì chúng ta đã có được nền tảng tu học. Từ nơi nền tảng này lại chọn lựa kinh giáo, một môn thâm nhập, nhất địnhthành tựu.

Hy vọng đồng tu chúng ta, mọi người cùng nhau cố gắng nỗ lực tu học, chúng ta cùng nhau khích lệ. Cái đạo tràng này có duyên phận rất sâu với tôi. Trên núi ở Toowoomba cùng ở đây là một nhà, không nên phân trên núi dưới núi. Ngày nay chúng ta đề xướng đa nguyên văn hóa, cùng với các chủng tộc tôn giáo khác đều không phân biệt, còn phân ra trên núi dưới núi thì thành ra thứ gì chứ?

Chúng ta phải làm ra một gương tốt để cho người khác xem, phải làm ra cho người khác xem mới được. Có thể nói mà không thể làm thì không những chính mình không có lợi ích, mà còn không thể giúp đỡ người khác. Nhất định phải làm rồi sau đó mới có thể nói. Cổ thánh tiên hiền dạy bảo chúng ta như vậy, chúng ta phải nên cố gắng nỗ lực mà học tập. Ngày mai tôi đến Hong Kong, ngày mốt ở đài truyền hình Hong Kong, chúng ta đã hẹn trước 20 giờ đồng hồ, lần này thu một bộ Liễu Phàm Tứ Huấn. Sau khi thu xong sẽ làm thành đĩa VCD để lưu thông. Thế nên tôi cũng muốn tương lai có cơ hội, chúng ta ở nơi đây đem Liễu Phàm Tứ Huấn làm thành quốc văn, chúng ta giảng giải tỉ mỉ để mà học tập. Tôi nghĩ năm nay chúng ta sẽ tranh thủ thời gian.

Hôm nay tôi chỉ giảng đến đây, cám ơn các vị! A Di Đà Phật!

Phật giáogiáo dục chí thiện viên mãn của Phật Đà đối với chúng sanh chín pháp giới.

Nội dung của tất cả kinh điểnThích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong 49 năm, chính là nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Nhân sanh chính là chính mình, vũ trụ chính là hoàn cảnhchúng ta sinh sống.

Tri giác gọi là Phật Bồ Tát, bất giác gọi là phàm phu. Tu hành chính là sửa đổi lại cách nhìn, cách nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm của chúng ta đối với vũ trụ nhân sanh.

Cương lĩnh tu hành của Phật giáo là Giác-Chánh-Tịnh, giác mà không mê, chánh mà không tà, tịnh mà không nhiễm, và còn y theo Giới-Định-Huệ tam học để cầu đạt đến mục tiêu này.

Nền tảng của tu họcTam phước, đối đãi với người thì y theo sáu phép hòa, xử thế thì tu Lục độ, tuân thủ mười nguyện Phổ Hiền, quy về Tịnh Độ, việc giáo hóa của Phật không ngoài như vậy.

Người giảng: Lão Pháp sư Tịnh Không
Địa điểm: Học Hội Tịnh Tông Úc Châu
Thời gian: Ngày 14 tháng 04 năm 2001
Chế tác: Học Hội Tịnh Tông Úc Châu
Cẩn dịch: Vọng Tây Cư sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25656)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37872)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19594)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14259)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20101)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9504)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14375)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35568)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10654)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19704)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23202)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10747)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20225)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10605)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9966)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14879)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17658)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17603)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13191)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31169)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25763)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13982)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17509)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10979)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12292)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10471)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12273)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11758)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9615)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12354)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9197)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8494)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9961)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12035)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14420)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9903)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11207)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8296)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10969)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14088)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9907)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15207)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13039)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23079)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23988)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12572)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15429)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17789)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15054)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16556)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16092)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17639)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11596)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11620)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17827)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10782)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10519)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11322)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12078)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11049)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36419)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8961)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9679)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34716)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17265)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10244)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10472)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12199)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13635)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14670)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9150)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24806)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11637)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10316)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15943)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15576)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14519)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12447)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14580)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18358)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9570)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18522)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18588)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19020)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13346)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47990)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11067)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13549)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13040)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12555)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31775)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11671)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant