Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Tự Do Nội Tại (lnner Freedom)

26 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14627)
Sự Tự Do Nội Tại (lnner Freedom)

Sự Tự Do Nội Tại (lnner Freedom)

Phạm Công Thiện dịch


I. Lời Giới Thiệu

Những ngày đầu tiên trở lại Los Angeles sau gần hai chục năm, tình cờ tôi có mua được một số sách của một vị Ðại Lạt ma Tây Tạng tên là Tarthang Tulku viết thẳng bằng tiếng Anh và xuất bản tại Califomia từ khoảng năm sáu năm nay thôi; cảm giác đầu tiên là một niềm vui mừng khôn tả khi nhìn thấy một vị tu sĩ Phật giáo viết văn thuyết giảng Phật Pháp qua một văn khí hùng mạnh và ngôn ngữ giản dị trong sáng như lưu ly và những vấn đề trầm trọng nhất của nhân loại hiện nay đã được đặt ra và giải quyết một cách triệt để.

Những quyển sách của sư trưởng Lạt ma Tarthang Tulku đã ảnh hưởng sâu đậm mãnh liệt đến thế giới đại học ở Hoa kỳ và đã được giảng dạy trong gần 40 viện đại học ở Hoa kỳ và đã được dịch ra tiếng Ðức, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nhật, tiếng Hòa Lan, Phần Lan và Bồ Ðào Nha và nhiều thứ tiếng khác nữa. Chẳng hạn quyển Time, Space and Knowledge (thời gian, không giantrí thức) đã được dùng làm sách thi cử cho sinh viên trong gần 35 trường đại học Hoa kỳ. Ngay cả đại học đường nổi tiếng ở Ðức, đại học đường Heidelberg cũng dùng sách này cho sinh viên học thi trong chương trình giảng dạy về Toán Hình Học và Thuyết Tương Ðối. Sách của Lạt ma Tarthang Tulku đã được cho sinh viên học trong những chương trình bộ môn khác biệt hẳn nhau như Không gian và Toán học. (Ðại học State U. of N.Y Oswego) Vật lý học (Đại học Trinity U. Texas), xã hội học (Ðại học U. of Idaho, Ðại học Salem State College Mass), Tâm lý học (Ðại học Indiana University, Ohio State U. U. of S Carolinia) và rất nhiều lãnh vực nghiên cứu học vấn khác ở đại học (Tôn giáo học, Thần học, Tri thức luận, Quản trị, Cố vấn nghề nghiệp v.v...).

Cách đây mấy chục năm, những quyển sách bằng tiếng Anh của D.T. Suzuki viết về Thiền tông Phật giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ sâu đậm đến bao nhiêu thế hệ học giả tri thức văn nghệTây phương; sau đó gần mười năm nay thì có những quyển sách tiếng Anh của vị đại Lạt ma Tây Tạng thuộc tông phái Kagu tên là Chogyam Trungpa ở Colorado, cũng đã từng ảnh hưởng lớn lao mạnh mẽ đến giới trí thức văn nghệTây phương chẳng hạn như quyển Cutting througth Spritual Materialism và The Myth of Freedom những thi sĩ nổi tiếng nhất Hoa kỳ như Allen Ginsberg và Gary Snyder đều là môn đệ của Lạt ma Chogyam Trungpa (cách đây năm, sáu tháng khi gặp tôi tại đại học đường Toulouse ở Pháp, Allen Ginsberg đã không tiếc lời ca tụng Lạt ma Chogyam Trungpa như là một vị Phật sống đại nghệ sĩ). Ngoài Chogyam Trungpa, hiện nay tôi thấy Tarthang Tulku đang trên đà ảnh hưởng mạnh mẽ sâu đậm hơn nữa, nhất là với giới giáo sư đại học Hoa kỳ và những nước Tây phương khác.

Tarthang Tulku mới đến Hoa Kỳ vào năm 1968 và hiện nay được coi như “Vị đạo sưảnh hưởng lớn nhất ở Hoa Kỳ” (theo tờ Brain-Mind Bulletin).

Bây giờ tôi xin giới thiệu sơ lược về tiểu sử của vị Lạt ma Tarthang Tulku (chữ Tulku, theo tiếng Tây Tạng có nghĩa là Hóa thân Bồ Tát hay Bồ Tát Thị hiện, hay nói nôm na là: một vị đại sư lúc chết hóa thân đầu thai lại trên đời này để tiếp tục hóa độ chúng sanh thể theo đại hạnh nguyện Bồ Tát).

Trong lời Tựa (Preface), Time, Space and Knowledge: (Dharma Publishing 1977), Tarthang Tulku có in giới thiệu một cách như sau: Tôi sinh tại A-skyong, miền Trung ở Golok tại Ðông Tây Tạng, cư dân ở vùng đó đều là dòng dõi của những vị vua đầu tiên của Tây Tạng. Thân phụ tôi, Sog-po Tulku một vị Lạt ma Bồ Tát hóa thân, đã được huấn luyện trong nhiều truyền thống tâm linh chính yếu của Tây Tạngđồng thời cũng là vị thầy thuốc cho dân làng. Tôi được kỳ vọng nối tiếp truyền thống gia đình và cũng như bao nhiêu con trẻ trong trường hợp tương tự như tôi được chăm sóc dạy dỗ rất kỹ càng. Mẹ tôi dạy tôi đọc và viết lúc tôi còn thơ dại, và từ lúc 6 tuổi cho đến 12 tuổi, tôi được học riêng với nhiều bậc thầy tài giỏi. Cha tôi cũng là thầy dạy tôi, ông dạy tôi nhiều kỷ luật khán tâm và chỉ tôi con đường thâu nhiếp tâm linh; cha tôi quả thực là người đầy lòng từ bi nhứt mà tôi đã gặp trên đời. Sau đó tôi được gửi đi tu họctu viện Tarthang lúc tôi được 12 tuổi dưới sự trông nom hướng dẫn của anh tôi. Vì liên hệ mật thiết với tu viện qua dòng Bồ Tát hóa thân và qua sự trực thuộc tông hệ của cha tôi với tu viện, tôi được vị trưởng pháp sư chỉ dạy hướng dẫn đọc tụng bao nhiêu kinh sách nội điển truyền thống. Ngoài ra tôi lại được học thêm nhiều lãnh vực đạo lý đặc biệt chỉ thuộc độc nhất về tông phái Nyingma (truyền thống lâu đờicổ kính nhất của Phật giáo Tây Tạng); tôi cũng lại được dịp học thêm những chủ đề đa dạng như văn chương nghệ thuật, thi ca, thảo bút, và y học. Mặc dù kỷ luật tu họctu viện lúc đó quả thực là quá khó khăn, nhưng sau này tôi mới thấy được đúng mức tầm quan trọng cái giá trị của kỷ luật tu học ấy. Khi sự tu học của tôi về Phật Phápthực hành thiền học đang trên đà tăng trưởng thì lúc 17 tuổi tu viện bỗng quyết định gởi tôi đi học với những đạo sư khác ở những vùng xa xôi ở Tây Tạng. Tôi đã là khách tăng của khoảng bốn mươi đại tu viện và đã được thụ giáo với rất nhiều đại sư lão luyện và đã được học qua những dạng thái tổng quát của những truyền thống thiền định ở từng nơi trung tâm tu viện. Lúc tôi lớn tuổi hơn nữa, tôi lại được tiếp tục tu học sâu thẳm hơn và bao nhiêu là lãnh vực đạo lý triết lý và hành trì được mãi mở rộng thêm ra, và tôi được dịp may hy hữu - hy hữu ngay cả ở Tây Tạng là được thụ giáo riêng với những bậc đại sư chứng ngộ, những bậc trao truyền trực tiếp những truyền thống đạo lý bằng khẩu truyền và kinh truyền, những hệ phái gần như mất hẳn ở Tây Tạng. Vị đạochính yếu của tôi. Khentse chokyi Lodro, là một trong những vị đại Lạt ma được kính phục nhứt trong toàn thể đất Tây Tạng, vừa nổi tiếng về sự liễu đắc mênh mông của Ngài, vừa được mọi người biết đến lòng từ bi sâu thẳm bát ngát của ngài. Sự hiểu biết của tôi quả thực là có giới hạn; nhưng nhờ vào lòng thương quảng đại của những sư phụ tôi, tôi mới có được khả năng hiểu biết đại khái tầm vóc liễu đắc vô hạn nơi những sư phụ tôi. Và nguyện ước lớn nhất của tôi là giữ gìn và chia sẻ với mọi người khác những gì tôi đã được nơi những giáo lý sâu thẳm này. Vừa học xong trải qua bao nhiêu năm mãnh liệt tu hành thì cảnh hỗn loạn của Tây Tạng lúc đó khiến tôi cần phải lìa bỏ Tây Tạng làm kẻ tỵ nạn vượt biên di tản lúc 25 tuổi. Năm 1963, nhờ sự giúp đỡ, che chở của chính phủ Ấn Ðộ, tôi được biệt phái dạy học về triết lý Phật Gìáo ở đại học đường Sanskrit (Phạn ngữ) ở Benares, Ấn Ðộ.

Rồi sau đó, Tarthang Tulku dạy học trên sáu năm ở đại học Benares và năm 1968 vị đại Lạt ma Bồ Tát hóa thân lên đường qua Hoa kỳ cùng với vợ. Năm 1973, ngày thành lập tu viện Phật giáo Nyingma ở Berkeley tại Califomia và rất nhiều giới trí thức Mỹ trong nhũng ngành như Tâm lý học, Khoa học và những khoa học nhân văn đã đến Phật học viện Nyingma Institute of Berkeley để nghiên cứu khảo học.

Từ khoảng sáu bảy năm gần đây Tarthang Tulku đã cho xuất bản khoảng chừng năm sáu quyển sách bằng tiếng Anh để truyền bá Phật Pháp cho giới học giả trí thức Tây phương như những quyển sau đây:

· Time, Space, And Knowledge, A New Vision of Reality (Dharma Publishing, Emeryville, Califomia, 1977).

· Gesture of Balance (Dharma Publishing, Oakland, Califomia 1977).

· Operress Mind (Dharma Publishing, Oakland, Califomia 1978).

· Kum Nye Relaxation (Dharma Publishing, Berkeley, California 1978).

· Skillful Means (Dharma Publishing, Berkeley, Califomia 1978).

Quyển sách sâu sắc nhất của Tarthang Tulku là Time, Space, and Knwoledge gồm ba trăm lẽ sáu trang. Phạm vi của tập sách không cho phép tôi trình bày giới thiệu quyển này. Nơi đây tôi chỉ xin giới thiệu độc giả quyển Skillful Means (Phương Tiện Thiện Xảo) gồm 136 trang, quyển này đã được tôi dịch ra trọn vẹn chữ Việt nhan đề “Phương Tiện Thiện Xảo” do nhà Xuất bản Thanh Văn xuất bản tại Califomia năm 1993, gồm 225 trang và quyển “Phương Tiện Thiện Xảo” của Tarthang Tulku thì rất giản dị dễ hiểu cho mọi trình độ trí thức của Phật tử và có thể coi đây là những bài thuyết phápmọi người đều có thể áp dụng mỗi ngày trong đời sống. Dưới đây, tôi xin dịch chương thứ nhất của quyển sách này nói về sự Tự Do Nội Tại (lnner Freedom) trang 3-9. 

II. Niềm Tự Do Bên Trong Tâm hồn

Mỗi khi bản chất nội tại chúng ta được thực sự tự do thì chúng ta tìm thấy ngay bên trong tâm hồn chúng ta cả một kho tàng phong phú: tình thương, tình yêu, niềm vui sướng thảnh thơi và sự thanh bình thoải mái trong tâm thức. Ta có đủ tâm hồn để thưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời của đời sống, đón nhận từng mỗi một kinh nghiệm xảy đến với ta, mở rộng trái tim ra cho từng kinh nghiệm ấy và tận hưởng trọn vẹn kinh nghiệm ấy. Thể hiện những phẩm chất này trong tận đáy lòng chúng ta quả là niềm tự do vĩ đại nhất khả dĩ đạt được trên đời này.

Tuy thế thực ra chúng ta có thể tự nhận niềm tự do nội tại này đến được mức độ nào? Thực ra chúng ta có thể cởi mở đón nhận thế nào đối với những ý tưởngcảm giác sâu thẳm nhất của chúng ta. Ðối với bản chất tích cực của bản thể nội tại chúng ta? Dù có những lúc chúng ta cảm nhận niềm giàu sang nội tâm này, thế mà chúng ta lại thường khi dong bỏ sự phong phú ấy ra ngoài tâm hồn và chỉ nuôi dưỡng hứng khởi trong lòng mình những cảm giác bất mãn, bất đắc chí, tế nhị kín đáo.

Ðôi lúc chúng ta cũng không để cho chúng ta được yêu đời hạnh phúc thoải mái mà phải bị vướng bận đâu đó cảm thức tội tình nào đó, hoặc là chúng ta cảm nhận sự hài lòng thỏa dạ mà không phải cảm thấy hoài nghixao xuyến. Chính những cảm giác này đã đưa đẩy chúng ta ra ngoài nguồn tài nguyên nội tại của chúng ta, khiến cho chúng ta hướng nhìn ra ngoài để lấp đầy sự trống rỗng tâm tư. Bị lôi kéo vào những biến cố hấp dẫn sôi động xảy ra chung quanh, chúng ta cứ mải miết đeo níu chúng, tưởng rằng những thứ ấy sẽ đem sự thỏa mãn đến cho chúng ta. Những lúc chúng ta chỉ tập trung mọi tinh lực ra bên ngoài tâm hồn mình thì chúng ta dễ đánh mất bỏ quên những thông điệp nội tại phát ra từ những cảm quan từ những ý tưởng, rung cảm và trực nhận. Không có đủ được sự hiểu biết nội tại này và niềm tự do phát khởi từ đó thì thái độ của chúng ta đối với những kinh nghiệm của chúng ta trở nên nông cạn, và trực thức chúng ta càng mất đi sự sâu thẳm và trong sáng. Dù ngay lúc ta có thể thành công trong đời sống, chính sự xa lìa ra khỏi bản chất thực thụ của chúng ta sẽ làm cho ta mất đi một căn bản cơ sở nội tại lành mạnh khả dĩ dựng lập cuộc đời mình một cách vững chắc. Ðiều đó sẽ đưa dần ta đến những cảm giác kín đáo khó nhận về nỗi bất an trùng điệp của đời sống, và đời sống có thể tự do bắt đầu trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Lúc chúng ta không tìm nhận được lương thực khởi phát từ sự hiểu biết bản chất mình một cách đàng hoàng thì chúng ta thường quay đi tìm kiếm những kẻ khác để được vui sướng thỏa mãn. Nhưng vì chúng ta không thực sự biết được điều gì đang mất mát trong đời sống mình, cho nên ta không thể trao đổi cảm thông những nhu cầu chúng ta một cách rõ ràng trong sáng và do đó chúng ta chỉ cảm nhận lòng mình đầy sự bực dọc bất mãn đau đớn xót xa. Càng lúc ta càng rơi tuột vào những cảm giác bất mãn thì càng lúc lại càng cảm thấy nghẽn tắt tâm thầnbất an, bất ổn định tâm tư: những tiếp xúc liên quan, giao thiệp với cuộc đời trở nên chua đắng và chúng ta không thể nào làm việc phục vụ một cách hữu hiệu được. Chúng ta không còn thấy tự do thoải mái và bị đóng nhốt bưng bít trong tâm tư vì mình đã đánh mất sự trực thức linh động (awareness) bị lôi kéo vào những chu kỳ dường như bất tận, những chu kỳ xao xuyến khắc khoải bàng hoàng sảng sốt và đầy sự bất hạnh vô phúc. Chúng ta phải bị đi quẩn quanh lòng vòng cứ tìm mãi sự tràn đầy tâm thức, mà chẳng bao giờ tìm thấy được, và chính sự tìm kiếm này trở nên khuôn thước định mẫu của đời sống mình.

Chúng ta sống trong một thế giới di động, quá ư nhanh chóng và mọi sự đều thôi thúc bức ép ta chạy đuổi cho kịp lúc. Phần đông chúng ta không muốn sống như vậy nhưng chúng ta vẫn bị kẹt buộc vào những yêu sáchxã hội đã đặt để trên đời sống chúng ta. Trên mặt ngoài, chúng ta có vẻ như tự do, nhưng bên trong tâm hồn chúng ta phải đau đớn chịu đựng bao nhiêu căng thẳng áp lực giằng co do nhịp bước vội vã nhanh chóng đời sống áp đảo trên số phận mình.

Chúng ta di động quá nhanh chóng, chúng ta sống quá vội vã hấp tấp đến nỗi chúng ta không còn đủ thời gian để thưởng ngoạn đánh giá đích thực bản thân mình, chúng ta đã dánh mất liên lạc trực tiếp với những phẩm chất tích cực cao quí và sức mạnh nội lực khởi phát từ đó. Những chướng ngại ngăn cản cho việc thoải mái tự do trong tâm hồn thường được tạo thành ngay từ lúc bé nhỏ. Lúc chúng ta còn con nít, chúng ta còn biết cảm nhận thế nào với những sự vật, và chúng ta ít khi lưỡng lự chia sẻ bộc phát cảm giác mạnh cho kẻ khác. Nhưng sự bức ép áp lực do gia đình bạn bè gây ra khiến cho ta phảỉ chịu thủ thế với những thiên kiến hẹp hòi và những khuôn khổ thiển cận để thích ứng theo những gì thiên hạ người đời trông ngóng mong đợi nơi mình. Khi những ý tưởng cảm giác tự nhiên của mình bị hất hủi không ai hăng hái đón nhận, không được nuôi dưỡng phấn khởi thì mình dễ đánh mất sự liên lạc mật thiết với những cảm quan của mình, giòng phát lưu giao thông giữa thân tâm mình bị nghẽn tắc ngăn chặn; mình không còn biết được hiểu được những gì mình thực sự cảm nhận. Khi những khuôn thức chà đạp bức áp càng trở nên mạnh mẽ và cố định thì những cơ hội để tự khai diễn đạo đạt cuộc đời mình càng lúc càng sút giảm đi. Chúng ta trở thành quá quen thuộc với những khuôn mòn sáo cũ, công thức ước lệ thích ứng, đến nổi lúc trở nên lớn tuổì, chúng ta cứ để những khuôn mòn sáo cũ này thống trị đời sống chúng ta; thế là chúng ta trở nên kẻ xa lạ đối với bản thân mình.

Làm thế nào có thể trở lại va chạm trực tiếp, bắt lại liên lạc mật thiết với chính tâm hồn mình? Chúng ta có thể làm gì để trở nên thực sự tự do? Lúc mà chúng ta có thể bắt đầu nhìn ngó vào bản chất nội tại mình một cách rõ ràng minh bạch thì lúc ấy chúng ta mới có được cái nhìn quán xuyến về sự phát triển tâm thức khả dĩ giải phóng mình trưởng thành lớn mạnh. Sự sáng tỏ minh bạch này là bước đầu của sự tự hiểu biết bản thân và điều sáng tỏ này có thể được phát triển một cách đơn giản bằng cách ngắm nhìn sự vận hành hoạt động hành vi của tâm thứcnhân thể chúng ta.

Chúng ta có thể thực hành sự quan sát nội tại này bất cứ ở nơi nào, ở bất cứ mọi hoàn cảnh nào, với bất cứ những gì ta đáng làm, bằng cách trực thức, tỉnh thức với từng tư tưởng và từng cảm giác tiếp nối sau đó. Ta có thể cảm nhạy với cách thức hành động của mình tác động thế nào đến tư tưởng mình, thân thểgiác quan mình. Khi mình làm như thế thì mình lại mở lại được con đường thông thương giữa thân xác và tâm thức mình, và đạt được một sự trực thức linh động hẳn lên về thực tính bản chất mình, mình trở nên quen thuộc thân thiết lại với phẩm chất cao quý của tính thể nội tại của mình. Thân xác và tâm thức mình bắt đầu hỗ trợ nâng đỡ lẫn nhau và đem lại một tính chất tràn trề sinh khí cho mọi cố gắng nỗ lực của mình. Chúng ta được bước vào một tiến trình học hỏi về bản thân một cách sống động thân tình, và sự tự hiểu biết này tăng trưởng tinh khí thần vào tất cả mọi hành động, hành vi của mình.

Khi mà chúng ta quan sát bản chất nội tại của mình một cách ý tứ đàng hoàng thì ta sẽ thấy rõ mình đã đè nén chận áp, đến độ nào, đã đóng khép bưng bít cảm giácthực tính bản chất mình đến độ nào. Từ đó mình mới có thể bắt đầu cởi mở ra nhưng cảm giác này và giải phóng tinh khí thần mà chúng ta đã nén giữ lại trong ta. Với tâm thức trầm lặng thanh bình và tư thái trung thực trực tính không lường gạt dối trá, với việc chấp nhận bản chất thực sự của mình, mình trưởng thành lớn mạnh trong niềm tin tưởng vào cuộc đời sẽ học được những phương cách mới mẻ và tích cực hơn để nhìn thẳng vào bản tính mình. 

Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết. Sự tập trung tư tưởng này không có tính cách cưỡng bách; nó rất thong dong bình thản và gần như vô tâm thoải mái tình cờ. Sự quan tâm chú ý của mình được tập trung một cách nhẹ nhàng thú vị, chứ không cứng nhắc khó chịu. Mình có thể phát triển sự tập trung tư tưởng tâm thần hưng động này bằng cách chỉ làm một việc cho một lúc, một cách thấu đáo dâng hiến tất cả tinh thần chú ý mình vào những gì mình đang làm, vừa trực thức, tỉnh thức với từng chi tiết liên hệ. Giữ gìn trì thủ sự tập trung tư tưởng tâm thần mình vào một việc làm duy nhất cho đến khi được hoàn tất, và cứ như thế tiếp tục làm tròn bổn phận trong việc kế tiếp và cứ như vậy tiến triển mãi trong tiến trình. Ta sẽ tìm thấy sự sáng suốt minh bạchnhập kiến của mình được sâu thẳm thêm lên và trở thành một cái gì tự nhiên trong bất cứ hành động, hành vi nào của mình.

Cùng với khả năng tập trung tư tưởng tâm thần lớn mạnh thêm lên thì sự thức tỉnh tâm ý phát hiện ra một sự trực thức về mỗi sắc thái vi tế của từng tư tưởng từng cảm giác, từng hành động thể hiện. Sự thức tỉnh tâm ý (Mindfulness) là sự hòa hợp của sự tập trung tâm tưởng, sự sáng suốt tâm trí và sự trực thức càng được tác động thể hiện đối với ngay cả những chi tiết bé nhỏ nhất của mọi kinh nghiệm. Thiếu mất sự tỉnh thức tâm ý (mindfulness) dù mình có tập trung tâm thức hay sáng suốt đi nữa thì đó cũng chỉ là như đứa con nít xây dựng lâu đài trên cát mà không biết rằng thủy triều sẽ cuốn trôi sạch mất đi. Sự tỉnh thức tâm ý giữ vững cho bất cứ những gì ta làm đều được làm đến tận cùng khả năng tinh lực của ta. Ta có thể phát triển sự tỉnh thức tâm ý mình bằng cách tập trung sự sáng suốtthông minh mình vào việc mình đang làm.

Chỉ thử giản dị quan sát mình làm việc thế nào trong một công việc bổn phận đơn sơ nhất. Mình bắt đầu như thế nào? Mình tiến hành thế nào? Ta có thực sự hiểu biết những gì ta muốn làm không? Ta có ngó tới đằng trước cứ điểm ta đang muốn đạt tới? Hãy nhìn kỹ những hiệu quả hành động ta từ một cái nhìn thẩm thấu lớn rộng đồng thời quan sát mọi chi tiết của hành động mình. Mình có trực thức về những hiệu quả của mỗi bước vận hành mình đang đi?

Khi mình khai triển sự tỉnh thức tâm ý, mình trở nên có khả năng nhận xét những sơ suất lơ đễnh trong việc trực thức đã tác động ảnh hưởng thế nào đến nhịp điệu, tiết điệu công việc mình. Lúc mình làm việc với tất cả sự thức tỉnh tâm ý những cử động vận hành của mình đều được xuôi chảy nhịp nhàng đẹp đẽ và những tư tưởng mình trở nên trong sáng và được sắp xếp trật tự đàng hoàng và những cố gắng nỗ lực mình trở nên rất hữu hiệu. Vì nhờ mình đồng điệu sâu thẳm với từng giai đoạn việc làm của mình và với hậu quả của từng hành động cho nên mình cũng có thể tiên đoán ngay cả những kết quả của việc làm. Ta trở nên trực thức về duyên do động lực thúc đẩy những hành động của ta, và học cách nắm lấy ngay bất cứ khuynh hướng quên lãng hay lầm lẫn. Lúc mà chúng ta trở nên thuần thục trong việc tỉnh thức tâm ý chúng ta có thể đi sâu vào sự hiểu biết bản năng ta và những hành động ta.

Việc phát triển sự trong sáng, sự tập trung tâm thần và sự thức tỉnh tâm ý có thể giáo dục ta trong mọi đường hướng không thể thấy xảy ra trong một lớp học, vì đối tượng của sự thẩm sát ở đây là chính bản chất nội tại của ta mỗi một bước tiến của tiến trình dẫn đến sự tự trị lớn rộng hơn lên, dẫn đến một phẩm chất chính xác tinh tế quán triệt khả dĩ hỗ trợ nâng đỡ thêm nữa sự tự khám phá bản thân. Sức mạnh và sự trực thức đạt được theo cách ấy giúp ta kiểm soát hướng đi và mục đích đời sống mình. Tất cả mọi hành động của chúng ta phản ảnh lại một mềm vui sướng tự nhiên, và đời sống cùng việc làm mang chứa một phẩm chất nhẹ nhàng thỏa thích, khả dĩ tiếp liệu nuôi dưỡng ta trong tất cả mọi việc ta làm. Cuộc đời trở thành một nghệ thuật, một sự hiển đạt việc tương hành ứng đáp luân lưu của thể xác ta, tâm thức ta và cảm quan ta đối với mỗi một kinh nghiệm trong đời sống ta. Ta có thể tin cậy nơi chính ta để thành tựu những nhu cầu nội tại nhất của ta, và như thế ta trở thành thực sự tự do giải thoát.

Sự tự do nội tại cho ta dùng được trí thông minh ta một cách khôn ngoan; chỉ một lần học được cách sử dụng trí thông minh ấy, thì chúng ta không thể bao giờ đánh mất sự sáng suốtlòng tin tưởng nó mang đến cho ta. Niềm tự dosinh lực tràn trề này đều ở trong tầm tay ta. Lúc ta trực thức được những khả tính phát trỉển niềm tự do nội tại, ta có thể bắt đầu cởi mở đón nhận sự vui sướng khỏe mạnh và thỏa mãn bao quanh ta. Việc tự hiểu biết mình sẽ xui khiến ta được nhập kiến sâu thẳm hơn nữa, được thông cảm hiểu biết nhiều hơn nữa và một cảm trạng thanh bình tâm thức. Ta sẽ lớn mạnh, lành khỏe trong thể xác cũng như tinh thần, công ăn việc làm ta, gia đình và những giao tế ta trong đời sống trở nên có ý nghĩa hơn nữa. Ta sẽ có thể thành tựu những mục đích vạch sẵn một cách dễ dàng thư thái. Lúc ta đạt được niềm tự do nội tâm ta sẽ khám phá một niềm vui sướng khoái cảm sâu thẳm và trường cửu trong tất cả những việc làm của mình.

Tôi đã dịch trọn chương đầu của quyển Skillful Means (Phương Tiện Thiện Xảo). Bản dịch này thì khác với bản dịch đã xuất bản năm 1993, và đó là lần dịch đầu tiên vào năm 1983; (Bản dịch đã xuất bản năm 1993 đã được tôi dịch vào sáu năm sau, 1989). Thực ra những gì Tarthang Tulku thuyết giảng ở đây cũng chẳng có gì gọi là mới lạ. Ðạo lý ngàn đời của nhân loại quanh đi quẩn lại cũng mấy điều vô cùng giản dị, nhưng nếu chúng ta có đủ sự thức tỉnh tâm ý bén nhạy thì chính đôi điều vô cùng giản dị ấy sẽ chuyển hóa đời sống ta một cách toàn triệt. Ðời sống con ngưòi càng lúc càng trở nên khó khăn, thỉnh thoảng đâu đây được nghe lời bình dị đi thẳng vào trực thức đời sống thì chúng ta cảm thấy những gì cao siêu nhất thật ra chỉ là những gì mình đã vô tình quên lãng một cách vô ý thức trong những mong đợi bất tận của ý thức điên đảo.

Sự giải thoát tự do từ bên trong tâm hồn chỉ xuất hiện khi nào chúng ta đánh thức lại từng cử chỉ, từng ý tưởng nhỏ nhặt nhất thoáng hiện trong lòng, từng cảm giác tế nhị, kín đáo len lỏi trong tâm thức ta, từng hành động hành vi vô tình nhất, từng hơi thở mong manh, từng cái nhìn, từng dáng đi, từng lời nói vô nghĩa nhất,... mỗi giây phút trong đời sống đều bất ngờ mới lạ; tất cả mọi tuyệt vọng đều phát khởi từ sự đánh mất cảm nhận thức tỉnh về sự chuyển hóa liên tục của vũ trụ và của tâm thức, khi mà chúng ta bình thản lắng lòng đi sâu vào sự im lặng sâu thẳm của thể tính.

Hãy nghe lời nhắc nhở vô cùng đơn giản sau đây của Tarthang Tulku trong lời Tựa quyển sách: “Thực ra không hề có giới hạn nào đối với những gì ta có thể thành tựu được trên đời này, nếu ta thực sự biết đoán nhận tán thưởng tất cả những cơ hội mà đời sống đã cung hiến cho ta”.

Trên đây là “Bước Chân Thứ Năm Lên Ðường Thực Hiện Việc Trở Về Sự Im Lặng: Sự Chuyển Ðộng Toàn Diện Của Tâm Thức Trong Tư Tưởng Phật Giáo Mật Tông Của Hóa Thân Tây Tạng Tarthang Tulku.” của Sư Trưởng Lạt ma Tây Tạng Bồ Tát Hóa Thân Tarthang Tulku, thuộc Tông Thuyết Hệ Phái Cổ Truyền Nyingma ở Hoa kỳ Hiện Nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10119)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10520)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10139)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20418)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11658)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13798)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19143)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46722)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12098)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11677)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23094)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17859)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10163)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17770)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13941)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14053)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15114)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20310)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18301)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17426)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18182)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12730)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12866)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13431)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17046)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11489)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18299)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18606)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21392)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22177)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16885)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12568)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15338)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24628)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14240)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11650)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19747)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13429)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22814)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19010)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18467)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21631)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20534)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20040)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14082)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15012)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13802)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15116)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17247)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15302)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12822)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15891)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13010)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13141)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15030)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22660)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7166)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19370)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37716)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9183)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8688)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17907)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14878)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27064)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19954)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15277)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15492)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26798)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14572)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19718)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14641)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18664)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15940)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16359)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19376)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19744)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19911)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18612)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29840)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14585)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17771)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32442)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15278)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17316)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29778)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31556)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64724)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32816)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20242)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18535)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30828)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19931)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45913)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32606)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39365)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40463)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50155)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19104)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18566)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20698)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant