Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật và Nền Văn Hóa Giác Ngộ

30 Tháng Chín 201000:00(Xem: 11267)
Đức Phật và Nền Văn Hóa Giác Ngộ

Đức Phật và Nền Văn Hóa Giác Ngộ

(Bài Tham Luận Đại Lễ Phật Đản Giáo Hội Phật lịch 2551, tại Houston, Texas)

Kính lạy Đức Thế Tôn, Ngài đã thị hiện vào cõi nhân gian nhiều khổ đau, phiền lụy này, bằng hạnh nguyện độ sinh, bằng trí tuệ siêu việt, để từ đó Đức Thế Tôn xây dựng một nền văn hóa người trong sáng, một nếp sống hướng thượng, tâm linh siêu thoát, bằng giáo pháp giác ngộ, bằng nếp sống văn hóa cao đẹp, lành mạnhlợi ích cho tha nhâncon người thời bấy giờ đã xưng dương, tán thán Đức Phật:

“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Phật, quy y Phápquy y tỳ kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”

Đây chính là tam đức: Trí đức, Đoạn đứcÂn đứcĐức Phật đã thể chứng nơi tự thân và quyền bày phương tiện hóa độ, đem sự bình anhạnh phúc đến cho mọi loài chúng sinh.

Để thấy được “những gì Đức Phật ban bố cho thế gian” qua phương diện Phật pháp và nền văn hóa giác ngộ, chúng ta thấy giáo pháp là những lời thuyết giảng của Đức Phật trong những pháp hội, khi thì ở trên các cung Trời, khi thì ở chốn nhân gian và có khi ở dưới Long cung. Tất cả những lời thuyết pháp này sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn được Tôn giả A Nan, người thị giả của Đức Phật, kiết tập gọi là Tạng Kinh. Tôn giả Ưu Ba Ly kiết tập Tạng Luật và riêng về Tạng Luật là do sự khai triển lý giải, sớ sao của chư vị Thánh đệ tử cũng như các vị Luận sư, Tôn giả Ca Chiên Diên tập thành, tổng hợp ba bộ gọi là Tam Tạng Kinh Điển: Kinh, Luật, Luận. Đó là Phật pháp, được lưu truyền suốt một dòng lịch sử Phật giáo hơn 2,500 năm qua và cho đến hôm nay, Phật pháp đã mang đến cho từng người, cho từng gia đình, cho từng quốc gia, dân tộc trên thế giới.

Phật pháp đã đóng một vai trò không nhỏ trong đời sống con người qua hai phạm trù: thế gianxuất thế gian. Nơi thế gian thì Đức Phật thiết lập một nền Phật pháp để xây dựng một đời sống bình an hạnh phúc cho hàng nam nữ cư sĩ tại gia. Phạm trù xuất thế gian thì Đức Phật giảng dạy một hệ thống Phật pháp tu tậpchứng đắc thánh quả ngay trong đời này cho các vị tỳ kheo xuất gia.

Để hiểu được phần nào về hai chữ văn hóa, trong quyển Văn Hóa Việt Nam, phần II - Tinh Hoa Văn Hóa, tác giảThái Ất định nghĩa hai chữ văn hóa như sau:

“Văn hóa là cái đẹp riêng của con người, thể hiện lề lối sống hằng ngày, con vật không có văn hóa. Sinh hoạt văn hóa có tính hướng thượng, tạo thành cái đẹp cao quý của con người. Khi văn hóa phát triển tiến bộ đến một trình độ đáng kể trong đời sống thực tế gọi là văn minh. Khi nếp sống văn minh được sắp xếp hài hòa thành những định chế quy định cuộc sống tập thể xã hội đem lại sự thịnh trị, phồn vinh và hạnh phúc cho mọi người, khi đó gọi là văn hiến. Đó chính là tinh hoa văn hóa.”

Qua định nghĩa trên, chủ đề Phật PhápVăn Hóa được đề cập đến hôm nay, chúng ta hiểu Đức Phật xây dựng một đời sống văn hóa thanh cao, thánh thiện cho hàng đệ tử trong tinh thần Phật pháp giác ngộ giải thoát.

I. Phật PhápVăn Hóa cho Chúng Tỳ Kheo Tăng:

Chúng tỳ kheo tăng là những trang thiện gia nam tử, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, chấp nhận đời sống tập thể trên tinh thần hòa hiệp thanh tịnh trong cộng đồng Tăng lữ, để từ đó thăng tiến trên con đường tu tập.

Trong Kinh Thừa Tự Pháp, Đức Phật dạy:

“Này các tỳ kheo, hãy là những người thừa tự pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các người và Ta nghĩ: Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật.”

Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài và các hàng Thánh đệ tử, vật dụng cần có chỉ được ba tấm y, một bình bát, một đãy lọc nước, một túi kim chỉ, một tích trượngtọa cụ. Độ nhật nuôi thân bằng cách đi khất thực, ngày chỉ ăn một bữa, tối ngủ dưới gốc cây, trong khu nhà trống, trong đống rơm. Từ nếp sống này, các chúng tỳ kheo không phiền, không nhiệt, không vướng bận và ràng buộc, dành nhiều thời gian cho sự tu tập thiền định. Phần đầu bộ Kinh Kim Cang đã diễn tả phong thái, nếp sinh hoạt thường nhật của Đức Thế Tôn và các hàng đệ tử:

“Một thời, Đức Phật ở nước Xá Vệ, trong rừng của Thái tử Kỳ Đà, vườn Trưởng giả Cấp Cô Độc, cùng với chúng đại tỳ kheo tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị. Lúc ấy gần đến giờ ngọ Đức Thế Tôn, đắp y mang bình bát vào đại thành Xá Vệ khất thực. Trong thành ấy, Ngài theo thứ tự đi khất thực. Khất thực xong, Ngài trở về lại tịnh xá thọ trai. Thọ trai xong, Ngài cất y bát, rửa chân, trải tọa cụ thiền định.”

Và nếu có một ngày nào đó, đàn việt phát tâm cúng dường trai tăng thì Đức Thế TônThánh chúng mang y bát đến thọ trai, xong rồi thuyết pháp và chúc lành cho vị đàn việt ấy. Cứ thế đời sống tu hành đơn sơ, nhàn tịnh, không quá khổ cực ép xác, mà cũng không quá hưởng thụ, phóng túng. Đó là phương pháp tu hànhĐức Thế Tôn gọi là con đường Trung Đạo. Nơi đây được gọi là nền Văn Hóa Trung Đạo trong Phật pháp:

“Này chư Hiền, con đường Trung Đạo ấy là gì? Con đường khiến tịnh nhãn sanh, khiến chân trí sanh, hướng đến tịch tĩnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn. Đó là con đường Thánh tám ngành – Bát Chánh Đạo.”

Để đi vào cảnh giới nội tâm tịch tĩnh, tạo niềm an lạcchánh niệm trong tứ oai nghi, trong từng hơi thở, trong mọi cảm thọ cho một vị tỳ kheo sống đời thiền định, Đức Phật đã trình bày tinh thần giáo pháp Tứ Niệm Xứ mà nơi đây được gọi là văn hóa tự tri. Chính nền văn hóa tự tri tỉnh giác này đã thực sự có một hương vị sống, thanh thản tự tại giữa núi rừng u tịch, một đời sống độc cư thiền định.

Nền văn hóa tự tri tỉnh giác, cũng là tinh thần giáo dục thiền định, một phương pháp giáo dục đặc biệt của đạo Phậtxã hội hôm nay chưa được phổ cập vào nền giáo dục hiện đại cho con người.

Nguyên tắc giáo dục thiền định mang tính chất rất người và đưa đến kết quả khá quan trọng về lãnh vực tâm lý, tình cảm, kiện toàn tinh thần giáo dục tự tri, tự chủ, tự tíntrách nhiệm cá nhân, đồng thời cũng mở ra những hướng sáng tạo.

Tình cảm, thiền định xây dựng nền hỷ lạc hân hoan, tịch lặng, buông xả và đầy lòng thương yêu.

Tâm lý, thiền địnhđiều kiện làm chuyển hướng tâm lý con người, từ tâmtiêu cực, thành tích cực, từ tham sân si thành vô tham, vô sân, vô si, từ thất niệm trở thành tỉnh giác.

Cảm thọ, thiền định mang vào cảm thọ lạc và nhiếp phục cảm thọ khổ nơi thân tâm. Trong cảm thọ lạc này con người bắt gặp một niềm hỷ lạc, an nhiên, tự tạithực tế đời sống khó thể có.

Thiền định còn giúp con người có một sự nhớ nghĩ rõ ràngtrí năng mẫn tiệp. Nếu nền văn hóa thiền định được đưa vào xã hội con người một cách thiết thực thì đó chính là điều kiện tốt để con người gạn lọc thân tâmtăng tiến kiến thức.

Tinh thần tự chủ, độc lập, giác tỉnhsức mạnh của ý chí tự nguyện là yếu tố thuận lợi cho những tư tưởng trong sángý thức hướng thượng được phát triển tốt đẹp hơn. Thiền định là một cảnh giới hoàn toàn mới mẻ do sự sáng tạo của tâm thức, là điều kiện xây dựng an toàn cho con người trên nền tảng trí tuệ mà không bị lệch lạc hay vướng vào những không tưởng. Thiền địnhphương pháp thích hợp cho những người mang tinh thần sáng tạo trên lộ trình thiền quán. Sự thực tập thiền định là một pháp môn giúp đời sống tâm linh thanh thoát, tịnh lạc, bình an, làm con người thêm năng động, tích cực làm việc, yêu đời không bị những khổ đau, phiền muộn ảnh hưởng đến bản thân.

Văn hóa thiền định của Đức Phật biểu hiện cụ thể qua giáo pháp Tứ Niệm Xứ.

Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ hay bốn trú xứ mà một hành giả thiền quán phải chú tâm quán sát và buộc tâm mình nơi đó:

1. Thân Niệm Xứ: Quán sát hơi thở ra vào và giữ chánh niệm tỉnh giác, xả trừ tham ưu ở đời.

2. Thọ Niệm XứQuán sát các cảm thọ bên trong và bên ngoài, cảm thọ lạc, khổ, phi lạc khổ và giữ chánh niệm tỉnh giác, xả trừ tham ưu ở đời.

3. Tâm Niệm XứQuán sát sự hoạt động của tâm đang sanh khởi là tham, sân, si hay vô tham, vô sân, vô si và giữ chánh niệm tỉnh giác, xả trừ tham ưu ở đời.

4. Pháp Niệm XứQuán sát năm triền cái, ngũ uẩn, lục xứtứ thánh đế, giữ chánh niệm tỉnh giác, xả trừ tham ưu ở đời.

Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ như sau:

“Này các tỳ kheo, con đường độc đạo nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt qua mọi sầu não, khổ ưu, thành tựu chánh trí, hiện chứng niết bàn, đó là con đường Tứ Niệm Xứ.”

Để cho chúng ta thấu rõ cách sốngsinh hoạt của chúng tỳ kheo tăng, và nền văn hóa tương lân, hỷ xả, hòa đồng và tôn trọng, Phật pháp đã hiển bày một nếp sống cao đẹp, vị tha, quên mìnhhy sinh những tình cảm riêng tư để phụng sự cộng đồng, xã hội. Đức Phật đã thuyết giảng trong Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò cho chúng tỳ kheo hành trì:

“Bạch Thế Tôn, do vậy, chúng con nghĩ như sau: “Ta hãy từ bỏ tâm của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn giả này.” Bạch Thế Tôn, con từ bỏ tâm của con và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân, nhưng giống như đồng một tâm. Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau bằng cặp mắt thiện cảm.”

Chúng ta thường nghe tinh thần giáo pháp lục hòa, một nếp sống có lợi cùng chia, có kiến thức cùng luận bàn, có giới đức cùng tu của một đoàn thể tăng già, chính nếp sống này làm tăng trưởng bản thể của tăng.

Cũng trong Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò, chúng tỳ kheo đã sống chung với nhau trong một trú xứ, đã cùng sống với nhau trong một lý tưởng, đã cùng sinh hoạt chia sẻ những việc hàng ngày trong ý thức trách nhiệm, bổn phận của từng mỗi cá nhân mà không ai phải nhắc nhở, thúc đẩy. Đây là tinh thần Phật pháp chan hòa, sống thực trong mỗi tâm tư hay nói cách khác hơn đó là tinh thần văn hóa tự giác, tự nguyện được tựu thành một cách linh hoạt từ nơi mỗi tâm hồn trong sáng của chúng tỳ kheo. Đây là giá trị Phật pháp tuyệt vờiĐức Phật đã ban bố cho thế gian, cho loài người, cho tất cả chúng sinh.

“Này các Anuruddha, như thế nào, các thầy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần?

Ở đây, Bạch Thế Tôn, chúng con, ai đi làng khất thực về trước, thì người ấy sắp đặt các chỗ ngồi, soạn sẵn nước uống, nước rửa chân, soạn sẵn một bát để bỏ đồ dư. Ai đi làng khất thực về sau, thì người ấy, còn đồ ăn thừa nếu muốn ăn thì ăn, nếu không muốn thì bỏ vào chỗ không có cỏ xanh hay đổ vào chỗ nước không có côn trùng và người ấy xếp dọn lại các chỗ ngồi, cất đi nước uống, nước rửa chân, cất đi cái bát để bỏ đồ dư và quét sạch nhà ăn. Ai thấy ghè nước uống, ghè nước rửa chân, hay ghè nước trong nhà cầu hết nước, trống không thì người ấy lo liệu nước. Nếu ai làm không nổi với sức mình, thì người ấy dùng tay ra hiệu gọi người thứ hai: “Chúng ta cùng lo liệu nước.” Dầu vậy, Bạch Thế Tôn, chúng con không vì vậy mà gây ra tiếng động và đến ngày thứ năm, Bạch Thế Tôn, suốt cả đêm chúng con đàm luận về đạo pháp. Như vậy, Bạch Thế Tôn, chúng con không sống phóng dật, chúng con nhiệt tâm, tinh cần.”

Những gì Đức Phật ban bố cho thế gian nhiều vô kể, sự ban bố đó về nhiều lãnh vực: từ văn hóa đến giáo dục, kinh tế, xã hội ... từ cá nhân đến tập thể, từ địa vị của người nghèo đến những bậc trưởng giả giàu có, từ kẻ nông nô đến vua chúa, triều đình. Tùy hoàn cảnh, môi trường, tùy căn cơ trình độ, Phật pháp được đem đến cho tất cả, và nền văn hóa giác ngộ được thiết lập khắp mọi nơi.

Phật pháp được trình bày cho một vị tỳ kheo để tôi luyện tự thân tâmtiến tu, chứng đắc thì đồng thời Phật pháp cũng thuyết giảng cho tất cả, dù đó là một kẻ sát nhân như Angulimala, dù đó là một kỹ nữ như Ampabali, dù đó là anh chàng gánh phân như Nan Đề, hay dù đó là hàng ngoại đạo, ác ma. Phật pháp được tuyên thuyết một cách cặn kẽ, kỹ lưỡng, ngõ hầu đem lại niềm tịnh lạc cho đời sống thăng hoa thánh thiện.

Thành tựu của sự tu tập Phật pháp đã cho thấy bao nhiêu vị thánh giả tên tuổi còn lưu lại trong Kinh, cấp độ tu chứng quả vị đạt thành ngay trong đời hiện tại; mà cứ mỗi lần nghe được Phật pháp, ý tâm khai mở rũ sạch bụi trần sinh tử thì bậc thánh giả ấy nói bài kệ:

“Sự sanh dĩ tận

Phạm hạnh dĩ lập

Sở tác dĩ biện

Bất thọ hậu hữu”

Sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã thành tựu. Việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau.

Như một hôm Ngài Xá Lợi Phất khi chưa xuất gia nghe được bài kệ:

“Chư pháp tùng duyên sinh

Diệt phục nhơn duyên diệt

Ngã Phật đại sa môn

Thường tác như thị thuyết.”

Các pháp từ duyên sinh, diệt cũng từ duyên diệt. Phật, bậc đại sa môn, thường thuyết giảng như vậy.


Nơi đây chúng ta có thể nói, chính giá trị Phật pháp đó là nền văn hóa tu chứng, hay nền văn hóa tâm linh được khai triển, phủi sạch những vô minh, cắt đoạn sinh tử. Đức Phật đã ban bố cho thế gian là như vậy.

Hay một nơi khác, Phật pháp được tác thành làm giềng mối cho cộng đồng tăng lữ và chính giềng mối kỷ cương ấy đã là điều kiện hưng thịnh trong chúng tăng. Đó là bảy pháp không bị suy giảm của một chúng tỳ kheo.

Có lần Đức Phật ở tại Vương Xá, núi Linh Thứu, nơi đây Đức Phật đã dạy các thầy tỳ kheo hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Đức Phật sẽ dạy bảy điều làm hưng thịnh cho chúng tỳ kheo:

1. Khi nào chúng tỳ kheo thường hay tụ họptụ họp đông đảo với nhau, thời này các tỳ kheo, chúng tỳ kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

2. Khi nào chúng tỳ kheo tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc tăng sự trong niệm đoàn kết, sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

3. Khi nào chúng tỳ kheo không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành. Sống đúng với những giới đã được ban hành, sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

4. Khi nào chúng tỳ kheo tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc tỳ kheo trưởng lão. Những vị này là những vị giàu kinh nghiệm, niên cao lạp trưởng, bậc cha của chúng tăng và nghe theo những lời dạy của những vị này thời sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

5. Khi nào chúng tỳ kheo không bị chi phối bởi tham dục, tham dục này tác thành một đời sống khác, thời này các tỳ kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

6. Khi nào chúng tỳ kheo thích sống những chỗ nhàn tịnh thời này các tỳ kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

7. Khi nào chúng tỳ kheo tự thân an trú trong chánh niệm, khiến các bạn đồng tu thiện chí chưa đến muốn đến ở và các bạn đồng tu thiện chí đã đến ở được sống an lạc, thời này các tỳ kheo, chúng tỳ kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

Bảy điều kiện này là yếu tố xây dựng một hội chúng lớn mạnh, cũng như bảy điều kiện hưng thịnh một quốc gia.

II. Phật PhápVăn Hóa cho Nhà Vua, Hội Đồng Nội Các của một Quốc Gia:

Mười pháp cho nhà Vua, cho dân và vì dân:

1. Vua độ lượng, từ bi, bố thí.

2. Giữ giới: Có đạo đức cao, không sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, uống rượu.

3. Hy sinh tất cả vì lợi ích của toàn dân.

4. Đức tính thẳng thắn, thành thậtliêm khiết.

5. Lòng từ ái, hiền hòa.

6. Khổ hạnh trong nếp sống.

7. Không sân hận thù hiềm.

8. Bất hại: Không giết người, phải tạo lập hòa bình, chối bỏ chiến tranh và tinh thần bạo động.

9. Nhẫn nhục trước mọi khó khăn, bị chỉ trích vẫn bình tĩnh.

10. Không chống lại ý muốn của dân, thuận theo ý dân.

Có người quan niệm rằng, Phật pháp chỉ nghiêng về lãnh vực triết lý cao siêu, xa rời thực tế không có một nền văn hóa sống lành mạnh cho con người. Đây không phải là cái nhìn đúng trên tinh thần Phật pháp và nền văn hóa giác ngộ. Phật pháp là chất liệu xây dựng một đời sống hạnh phúc cho cá nhân cũng như nhân quần xã hội.

Trong đời sống con người, không thể tìm đâu ra một hạnh phúc chân thật nếu đời sống con người không lành mạnh, trong sáng, không đạo đức, thuần hậu, không có các thiện sự và tâm tốt. Chính những nhân tố giàu lòng yêu thương, từ tâm độ lượng, mở rộng vòng tay đến kẻ khác là điều kiện tác thành mà ngay trong Phật pháp đã hàm tàng đầy đủ chất liệu ấy. Có nghĩa là sự có mặt thường trực của một nếp sống đẹp, cao thượng, một nền văn hóa vị nhân sinh.

Phật pháp đã trình bày mười điều kiện cho một vị vua thực hành đúng những lời dạy của Đức Phật để áp dụng vào đời sống hàng ngày trong phương cách điều hành đất nước cho có hiệu quả tốt đẹp, cho việc giữ gìn xã tắc sơn hà, được bình an hạnh phúc.

Từ cái nhìn qua mười vương pháp của người lãnh đạo quốc gia, một hội đồng nội các, chúng ta lại thấy Phật pháp còn giảng dạy cho người dân ý thức bổn phận, trách nhiệm của mình đối với quê hương, trong sự hưng vong của đất nước.

Phật pháp cho thấy sự thịnh suy của đất nước không phải là việc làm riêng của người lãnh đạo mà là trách nhiệm chung của tất cả. Điều kiện tiên quyết để xây dựng một quốc gia hưng thịnh thái hòa trong đó có sự đóng góp đôi tay, tâm huyết của tất cả mọi người dân.

Tinh thần đoàn kết là một sức mạnh, chính tinh thần này nói lên sự hưng thịnh của một quốc gia, ý chí xây dựng của người dân là chất liệu kiện toàn để làm vững mạnh quốc gia, dân tộc. Nếu ý chí đó được chia sẻ với mọi người trên tinh thần phát triển vận mạng quốc gia thì đó là sức mạnh thăng tiến, giữ vững dân giàu nước mạnh. Đây chính là sức mạnh của tập thể, của một dân tộc đã ý thức vai trò làm dân của mình. Chữ “dân” ở đây phải hiểu là tập thể những người cùng sống chung trong một quốc gia và được quyền đóng góp khả năng của mình về mọi phương diện. Cơ quan chính phủ với người dân không thể tách rời vì các viên chức chính phủ là những đại diện cho dân trong mọi hệ thống cơ cấu lãnh đạođiều hành đất nước. Đời sống, sinh hoạt của người dân gắn liền với guồng máy lãnh đạo quốc gia, các nhà lãnh đạo phải hiểu rõ nguyện vọng của người dân hầu mang lại phú cường thịnh trị cho đất nước để quốc gia dân tộc thoát khỏi nạn diệt vong.

Nơi đây, Phật pháp đã giảng giải cho mọi người cùng thấy, có bảy điều kiện để tạo thành một quốc gia hưng thịnh, xây dựng một nền văn hóa giàu đẹp với một nhân sinh quan thật người:

1. Hòa hiệp trong dân chúng:

“- Này A Nan, con có nghe dân Vajji thường hay tụ họptụ họp đông đảo với nhau không?

- Bạch Đức Thế Tôn, con có nghe dân Vajji thường hay tụ họptụ họp đông đảo với nhau.

-Này A Nan, khi nào dân Vajji thường hay tụ họptụ họp đông đảo với nhau, thời này A Nan, dân Vajji sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.”

2. Dân chúng đoàn kết.

3. Phật pháp công minh và có truyền thống dân tộc.

4. Dân chúng sống đạo đức, biết kính thương.

5. Xã hội an ninh.

6. Có tín ngưỡngtôn trọng truyền thống tín ngưỡng.

7. Kính trọngủng hộ các Thánh Tăng.

Qua bảy điều kiện để một quốc gia hưng thịnh, Phật pháp được giảng dạy trong Tăng Chi Bộ Kinh là những điều kiện vô cùng quan yếu, hữu ích cho dân, vì dân và của dân. Qua 7 điều kiện trên, chúng ta không thấy có một điều nào năm ngoài sự sinh hoạt của cộng đồng dân chúng. Mỗi điều kiện là một bức tường thành kiên cố để dựng nước và giữ nước. Một quốc gia cách đây hơn 2550 năm mà đã hội đủ bảy điều kiện vững chắc này, tưởng chừng cũng rất hiếm thấy trong thời đại hôm nay. Điều đó cho ta thấy, vào thời Đức Phật, Phật pháp đã được giảng dạy thật kỹ lưỡng, tường tận đến từng người dân, từng nhà, từng xã hội, từng quốc gia dân tộc. Một nền văn hóa từ bi, bình đẳng được tuyên thuyết cho tất cả dể từ đó con người vui sống trong chân hạnh phúc của chính mình. Quan niệm về nền văn hóa tự tồn, an ninh quốc gia, giữ vững sự tự chủ độc lập, Phật pháp cho thấy bảy phương pháp trang bị và bốn loại lương thực cho một thành trì nơi biên địa được kiên cố:

1. Trung tâm điểm của thành:

“Ở đây này các tỳ kheo, trong thành trì biên địa của vua có một cột trụ, đâm sâu vào đất, khéo đào sâu không bị giao động, không bị lay chuyển, với trang bị thành trì thứ nhất nay là thành trì biên địa của vua được khéo trang bị để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự với những người bên ngoài.”

2. Có giao thông hào bao bọc.

3. Con đường liên lạc.

4. Vũ khí chống quân địch.

5. Các loại binh chủng.

6. Người thủ thành dõng kiện, trí tuệ.

7. Thành trì kiên cố.

Ngoài ra còn có bốn loại lương thực để nuôi quân dân, mà không phải lo cơm ăn nước uống, có nghĩa là tích trữ đầy đủ các nhu yếu phẩm, lương thực, đầy đủ quân trang, quân dụng...

1. Tích trữ nhiên liệu.

“Ở đây, này các tỳ kheo, trong thành biên địa của vua, có nhiều cỏ, củi, nước được tích trữ để những người dân trong thành được an vui, khỏi sự lo ngại, được lạc thú và để chống cự những người bên ngoài.”

2. Tích trữ lương thực.

3. Tích trữ đậu, ngũ cốc.

4. Tích trữ thuốc men.

Phật pháp và nền văn hóa Phật giáo đã tích cực đóng góp nhiều phương tiện để tạo dựng cho con người có một cuộc sống đúng nghĩa, nếu là ngôi vị của vua thì phải giữ đúng cương vị của vua. Nếu là cương vị của dân thì phải giữ đúng bổn phận của người dân. Phật pháp đã giảng giải rõ ràng từng cương vị, từng trách nhiệm, từng lãnh vực hoàn cảnh trong cuộc sống loài ngươi, dù thời Đức Phật còn tại thế hay sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn cũng vậy. Tất cả đều hướng đến một đời sống lành mạnh, an vui để tạo điều kiện sống thăng hoa giữa thế gian này.

III. Phật PhápVăn Hóa Cho Chúng Nam Nữ Phật tử

Tinh thần Phật pháp cao siêu giải thoát thế gian, nhưng sự cao siêu và giải thoát thế gian này không có nghĩa là xa rời thế gian để tự tồn. Theo quan niệm của một số ít người cho rằng đạo Phậtxuất thế gian nằm ngoài tầm tay của con người và chẳng có sự tương quan nào thiết thực với con người. Nhận định này hoàn toàn không đúng với Phật pháp, không thông hiểu Phật pháp.

Đạo Phật là đạo cho con người và của con người cho nên đã là con người thì có khả năng lãnh hội mà không nhất thiết phải dành cho hạng người này mà không đem lợi ích cho người khác. Trong những lời dạy của Đức Phật chúng ta thấy nhiều nơi đã nói lên tinh thần chứng đắc của hàng tại gia cư sĩ. Chẳng hạn như trong Tăng Chi Bộ Kinh đã cho thấy một nữ đệ tử Phật, trong khi làm bếp, nhìn thấy thức ăn đổi màu trong chảo dầu sôi, và ngộ được giáo pháp vô thường, sự vật vô ngã. Hay trong một dịp khác tu sĩ Vacchagatta trong khi du hành và đến chỗ Phật, ông ta đã hỏi Phật, có ai sống đời thế tục, vợ con gia đình, theo giáo pháp Đức Phật, thực hành tu tậpchứng đắc bậc Thánh ngay trong cuộc đời này? Đức Phật giải đáp rằng không phải chỉ có một người, mười người, hai mươi người mà có cả trăm ngàn người khác đã y theo Phật pháp hành trìchứng ngộ. Từ đây chúng ta có thể hiểu sự tu tập chứng đắc của hàng nam nữ cư sĩ tại gia, chính là nền văn hóa giác ngộ được tựu thành trong tận cùng mỗi thâm tâm con người.

Phật pháp đã đi thẳng vào lòng người, đến từng cá nhân, Phật pháp đã vì “hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài trời, loài người.” Phật pháp đã thể nhập mọi giai tầng chúng sinh, trong đó Đức Phật đã không xem nhẹ vai trò tu tập của hàng nam nữ cư sĩ Phật tử sống đời thế tục. Đức Phật đã bằng tinh thần khế lý, khế cơ, bằng mọi phương tiện thiện xảo đã giáo hóa rất nhiều các nam nữ cư sĩ đủ mọi giai cấp và lứa tuổi. Giáo pháp và nền văn hóa ấy được dẫn ra từ Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt, trường hợp của Singàla – Thiện Sanh. Một chàng trai trẻ tuổi cứ mỗi buổi sáng thức dậy, tắm rửa sạch sẽ, thay áo quần mới, rồi lễ bái sáu phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Thượng, Hạ. Chàng làm điều này theo lời di chúc của Cha trước khi chết. Chàng làm một cách kính cẩn, nghiêm túc. Đức Phật thấy một người thanh niên có lòng thuần hậu, có niềm tin vững chắc y theo lời nói của Cha mà thực hành. Do vậy, Đức Phật đã giáo hóa người thanh niên đó, từ ý nghĩa đảnh lễ sáu phương theo cái nhìn thường tục trở thành đảnh lễ sáu phương trong Thánh pháp luật của bậc Thánh đã nói lên mối tương quan của con người.

Phương Đông quan hệ Cha Mẹ đối với con cái; phương Nam quan hệ thầy với trò; phương Tây quan hệ vợ với chồng; phương Bắc quan hệ với bạn bè quyến thuộc; phương Dưới quan hệ chủ nhân với tôi tớ; phương Trên quan hệ tu sĩ với cư sĩ.

Như vậy, chúng ta thấy rằng vai trò người cư sĩ Phật tử, có một đời sống bình thường gia đình con cái cũng được đề cập một cách thân thiết trong Phật pháp. Đức Phật đã nâng caotôn trọng khả năng hành trì, tu tập của người tại gia cư sĩ trong Thánh pháp luật của Ngài.

Nói đến hàng nam nữ cư sĩ, trong Phật pháp, có lần Trưởng giả Cấp Cô Độc đến viếng thăm Đức Phật và cung thỉnh Tôn giả A Nan bạch Phật tạo phương tiện để Phật tử được nghe Phật pháp, được học hỏi Phật pháp, được tu tập Phật phápchứng đắc Phật pháp. Như vợ Trưởng giả là Punnalakkhana là người thuần hậu đạo đức và ba người con gái là Mahà Subhaddà, Cùla Subhaddà và Sumana tất cả đều học hỏi, hành trì Phật phápchứng đắc quả vị Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm. Đây chỉ là tiêu biểu một số người sống đời cư sĩ tại gia có khả năng tiếp thọ Phật pháp và thể chứng Thánh quả.

Giáo pháp được Đức Phật thuyết giảng không phân biệt hàng thính giả hay bất cứ một giai cấp nào. Đức Phật đã mang hương vị giải thoát đến cho tất cả chúng sinh. Đức Phật đã niềm nở, ân cần, khuyến khích từ mỗi cá nhân hãy tinh tấn tu tập theo con đường giáo pháp. Giáo pháp của Phật là giáo pháp công truyền, giáo pháp của vị giáo chủ mở nắm tay cho tất cả chúng sinh đều thấy. Giáo pháp của Phật đã thể hiện tinh thần tu chứng tuyệt đối đến cho con người. Giáo pháp ấy đã đi sâu vào đời sống của người dân và là chất liệu để xây dựng, gắn bó mối tương quan tốt giữa người và người: Mẹ biết yêu thương con, chồng biết kính nhường vợ, tôi tớ trung thành, thầy trò có nghĩa. Đây chính là nền văn hóa nhân bản. Để thấy rõ hơn về đời sống hiện thực hạnh phúc, đời sống của người cư sĩ hạnh phúc trong hiện tại và tương lai, giáo pháp đã đề bạt bốn điều đem lại hạnh phúc trong hiện tại:

1. Đầy đủ sự tháo vát.

“Ở đây, này Byagghapàjja, thiện nam tử, phàm làm nghề gì để sinh sống, hoặc nghề nông, hoặc đi buôn, hoặc nuôi bò, hoặc là nghề bắn cung, hoặc làm nghề cho vua, hoặc bất cứ nghề gì, trong nghề ấy, người ấy thiện xảo, không biết mỏi mệt, biết suy tư, hiểu phương tiện vừa đủ để tự làm và điều khiển người khác làm.”

2. Đầy đủ phòng hộ.

3. Làm bạn với thiện.

4. Sống thăng bằng điều hòa.

Bốn điều đem lại hạnh phúc trong tương lai.

1. Đầy đủ lòng tin.

“Ở đây, này Byagghapàjja, thiện nam tửlòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: “Đây là Thế Tôn bậc Đạo Sư của chư Thiênloài người, Phật, Thế Tôn... Đây gọi là đầy đủ lòng tin.”

2. Đầy đủ giới đức.

3. Đầy đủ bố thí.

4. Đầy đủ trí tuệ.

Tóm lại “những gì Đức Phật ban bố cho thế gian” thì nhiều vô cùng, không thể đem tâm lượng, ngôn từ hạn hẹp của thế gian mà lượng định, vì Phật pháp như đại hải thủy lưu nhập A Nan tâm. Phật pháp nhiều như nước bốn đại dương. Không thể nghĩ bàn, nơi đây chỉ nêu lên một vài ý niệm tiêu biểu trong buổi hội thảo nhân mùa Khánh Đản Phật lịch 2551 này. Phật pháp được thuyết giảng từ kim khẩu của Đức Thế Tôn hầu chuyển hóa sự khổ đau thành tịnh lạc. Sự tham, sân, si, thành vô tham, vô sân, vô si. Sự phàm phu thành Thánh giả. Và nền văn hóa giác ngộ thực thụ là chất dinh dưỡng ươm mầm để trưởng thành một đời sống người trong sáng, mầu nhiệm, thanh thoát, mà suốt trong thời gian hơn 2500 năm qua, nền văn hóa giác ngộ ấy vẫn tiếp tục lưu lộ, truyền thừa, là dấu ấn kim cương in đậm trong tâm thức của vạn loài sinh linh, để được sống trong ý vị từ bi, trí tuệ, trong tinh thần hùng lực của Bồ Đề Tâm.

San Diego, ngày 30 tháng 5 năm 2007

Thích Nguyên Siêu

lotus_pattern2-content

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11380)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11542)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13532)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14121)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10296)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10765)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11315)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11268)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11419)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10160)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9955)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10688)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42183)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10474)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11846)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10006)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10450)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10611)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45733)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11314)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11315)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10617)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13453)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12363)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11013)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10606)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12306)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11156)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11834)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29240)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9202)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10531)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10222)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10570)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10904)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10798)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32117)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27373)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11850)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12274)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10436)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11695)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10417)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10769)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28053)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10140)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10272)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10636)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10761)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10390)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11462)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18239)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10514)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12838)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11748)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29165)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13313)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22760)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11556)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13799)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25693)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26055)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22291)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12058)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11790)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33161)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31829)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12013)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22468)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11954)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14212)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13343)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12057)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10387)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11223)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13290)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34502)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12608)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12217)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13526)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12617)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12961)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16288)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11730)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27372)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28418)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant