Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý nghĩa giải thoát trong bảy bước hoa sen

24 Tháng Tư 201200:00(Xem: 17667)
Ý nghĩa giải thoát trong bảy bước hoa sen
Ý NGHĨA GIẢI THOÁT
TRONG BẢY BƯỚC HOA SEN


blankLời nói đầu:

Thật chẳng có gì mỉa mai hơn khi giới thiệu một vị thầy đã nhìn rõ cái giả tướng, hư vọng của đời sống và truyền trao cho đời những giáo pháp từ đơn giản, dễ hiểu, lên đến những thâm sâu, uyên áo bằng những lời chỉ dạy có giải đáp rõ ràng, mà lại được giới thiệu, bắt đầu bằng một câu chuyện thần thoại, hoang đường, có đầu mà không có kết: Một hài nhi vừa mới ra đời đã vươn dạy, đi đứng quen thuộc, tuyên bố lời dị thường, rồi sau đó không lẽ lại rùng mình ngã trở lại vào vòng tay nâng đỡ của thường nhân? hay là gì khác (chẳng thấy kể ra)? hay chỉ tan vào hư ảo như lúc nó xuất hiện?

Đức Thích Ca nếu có dịp trở lại ghé thăm thế giới của chúng ta, chắc ngài cũng phải quở: “Đạo của ta là đạo của sự thật, đạo của trí tuệ, thế mà các ông không thấy sự giới thiệu của các ông khởi đầu về ta là hư ảo, là thần thoại như vậy chẳng phải là mâu thuẫn lắm sao?”

Nay với khung cảnh tiến bộ, hiện đại của xã hội, cộng đồng, trình độ của các Phật tử đòi hỏi phải giải thích các giáo pháp của Phật theo chiều hướng có quy luật và duy lý, ta nên xem tất cả các giải thích thần thoại về Đức Phật như là một loại lịch sử bên lề, thích hợp với thời đạicon người còn lo ngại bóng tối và hứng thú với những chuyện dị thường, thì sự trưng dẫn chuyện tích phải cung ứng những giá trị đại loại như vậy để tồn tại, thích hợp và phát triển trong khung cảnh đó. Vậy nay đã đến lúc chúng ta phải có bổn phận tách biệt vị thầy của trí tuệ ra khỏi những chuyện hoang đường, có đầu mà chẳng có kết như xưa đã từng làm, bằng cách giải thích hình cảnh bẩy bước hoa sen một cách hợp lý, hầu mang lại cho nó một giá trị mô phạm thích hợp, và xứng đáng làm biểu tượng đẹp đẽ ngay nơi tiền diện của các chùa. Song song với việc biến nó thành một trình tự theo đúng với quy luật nhân quả: Ai gieo một chủng tử Phật Pháp nơi đất tâm là đã thành một vị tiểu Phật vừa mới ra đời (cũng đồng nghĩa là thành một Phật tử), sau đó tin sâu, theo học một cách chuyên cần, rồi sau cùng cũng sẽ đạt được quả Phật (cái ta giải thoát), biến cái ta vô minh, mờ tối khi xưa trở thành một cái ta quý giá, trên trời dưới đất không có gì quý bằng.

***

Mỗi năm gần đến ngày Phật Đản, trên mạng lại xuất hiện một số bài viết về đề tài này nhằm giới thiệu Đức Phật và nhân đó quảng bá Phật Pháp, tùy cái “thấy” khác nhau của người viết. Tựu trung tất cả đều dựa trên những chuyện tích cũ của Đức Phật là ngài mới sinh ra đã trỗi dậy, đứng và đi trên bảy hoa sen hiện ra trước mặt, dừng ở hoa sen thứ bảy, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và tuyên bố lời dị thường.

Chấp nhậnlướt qua sự giới thiệu thần thoại này với sự dễ dãi, thì ngay sau đó lại đối mặt với nhiều mâu thuẫn hiển nhiên, dẫn đến bế tắc như nêu trên trong “Lời nói đầu” mà ta không cần dông dài liệt kê ra đây.

Với những mục đích trên đây, phật tử Ngẫu Hồ xin được trở lại đề tài, với sự giải thích cẩn trọng hơn về thức thứ bảy và thức thứ tám đã dùng để liên kết bảy bước hoa sen trong dịp kính mừng Phật Đản 2556, nhằm vào tháng tư 2012 dương lịch:

  1. Nhằm đưa Đức Thích Ca ra khỏi sự gán ghép, khiên cưỡng không cần thiết, và chấm dứt vĩnh viễn sự liên kết ngài với khởi đầu bằng một chuyện huyễn hoặc, mơ hồ, vì ngài đã và mãi mãi là một bậc thầy về trí tuệ của nhân loại.
  2. Sự hiểu đúng giá trị, ý nghĩa của câu chuyện bảy bước hoa sen, rồi phổ biến nó đến những Phật tử chưa hiểu là đóng góp một pháp lành vào điều dạy của Đức Thích Ca “Theo ta mà không hiểu ta là hủy báng ta”.
  3. Nhằm đề phòng những sự hiểu biết sai lạc, sẽ dẫn đến biến tấu, hạ thấp giá trị của chánh pháp.
  4. Nhằm tạo thiện cảm, tâm phục cho những người ở ngoài văn hóa Phật giáo, trong ngay lần tiếp xúc đầu tiên với Phật giáo, đồng thời giúp cho mọi người dù ở trong hay ở ngoài văn hóa Phật Giáo khi nhìn thấy hình cảnh của vị tiểu Phật đứng trên hoa sen, thì ai ai cũng thọ hiểu trong sự hoan hỉ.

Biết bao trang sách biện giải, biết bao lý luận tỷ giảo để sau cùng cũng để chỉ ra cái tối hậu giải thoát này, vậy mà nó được gói ghém trọn vẹn trong hình cảnh bảy bước hoa sen mà ta lại đem giải thích nó sai hẳn với giá trị thật của nó, cùng lúc biến Đức Thích Ca thành một nhi thần mới sinh, xuất xuất, nhập nhập, giống như trong một chuyện đồng bóng, nhập hồn, xuất hồn tầm thường thì thật là đau lòng.

Sau đây là phần chi tiết:

Một người bất kể ai, khuynh hướng nào, tuổi tác bao nhiêu, khi được tiếp xúc với Phật Pháp, bỗng dưng bùng vỡ một cái “thấy”, thì ngay đó, mình trở thành một vị tiểu Phật vừa mới sinh ra đời. Hàm nghĩa một chủng tử Phật vừa mới được gieo nơi đất tâm của mình (tức thức thứ tám hay còn gọi là A Lai Da thức, hay còn gọi là ngã thức). Thành một vị tiểu Phật vừa mới ra đời, cũng đồng nghĩa là thành một Phật tử sẽ quyết tâm đi tìm hiểu thêm về giáo pháp.

Theo thiển ý, đây là một giải thích mang tính chiêu dụ rất trang trọng, rất tâm lý. Người nghe được ví mình là một vị tiểu Phật sẽ làm cho họ phấn chấn, hãnh diện, tuy thế, cũng nên giải thích sau đó, là thành một vị tiểu Phật không có nghĩa là đã thành đạt được quả vị Phật ngay. Tiểu Phật được dụ cho một mầm hạt vừa đã được gieo trồng và phải được chăm sóc một cách đúng mức, kỹ lưỡng, thì sau đó, hạt mầm mới nảy lên thành cây (cây Phật) được.

Trở lại, tại sao tôi lại nhấn mạnh đến sự bùng vỡ một cái thấy là vì muốn ám chỉ một cái thấy gây kinh ngạc, một cái thấy chưa bao giờ mình tiếp xúc được từ trước đến giờ, nhờ đó mà sau sẽ đem đến sự chuyển hóa nội tâm, biến cái tâm lang thang, không định hướng trước đây của ta, nay thành một khuynh hướng rõ nét: khuynh hướng Phật tử và ngang đây ta trở thành một Phật tử, có niềm tin sâu vào Phật pháp.

Sự chăm sóc mầm Phật để nên cây là dụ cho công lao tìm học một cách nghiêm túc các pháp Phật, sự lớn lên dần, vững chãi của cây với thời gian dụ cho sự thấm nhập các pháp cao hơn (chiều cao của cây và sự đâm rễ sâu hơn). Cây càng cao, rễ càng sâu, tư duy Phật pháp càng trưởng thành, dần dần hoa sen đầu tiên đã bắt đầu ló dạng.

Đức Thích Ca đã dùng hoa sen để biểu trưng cuộc sống và giáo lý của ngài (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa), vì thế, hoa sen thường được dùng trong các chuyện tích của Phật giáo, ám chỉ đặc biệt của sự không nhiễm ô, vì hoa sen tuy xuất hiệntrưởng thành trong bùn tanh tạp chất, vẫn đứng thẳng lên và tỏa hương thơm tinh khiết.

Bùn tanh tạp chất là dụ cho đời thường, trần gian; hoa sen đứng thẳng lên từ bùn, dụ cho hình ảnh một hành giả Phật tử sống trong đó, mà không bị ảnh hưởng, lôi cuốn, trì kéo bởi những cám dỗ, lậu uẩn, mà vẫn hướng đến giải thoát cao thượng.

Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát. Đây là lời giảng khẳng định của Đức Thích Ca trong kinh Lăng Nghiêm cho ngài A Nan. Các đạo hữu Phật tử có thể tìm thấy trên các website của Phật giáo hay ngay trên Thư Viện Hoa Sen cũng có đầy đủ.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý và mạt na thức, đã được thanh sạch, tượng trưng cho bảy hoa sen thơm ngát. Đứng và đi được trên bảy hoa sen, dụ cho sự làm chủ được các thức tình này, tức là giải thoát rốt ráo, trọn vẹn. Việc đứng trên thức thứ bảy mới tuyên bố lời chung kết là được dụ cho sự sạch hết hoàn toàn các lậu uẩn vi tế, tiềm ẩn sâu xa nơi tâm thức, vì thức thứ bẩy nằm sâu hơn ý thức như sự giải thích dưới đây. Khi bẩy thức được giải thoát, thì thức thứ tám là ngã thức (tức là A Lai Da thức) cũng được giải thoát thành hoa sen thứ tám, vô hình, vô tướng. Đây cũng chính là Chân Ngã tôn quý nhất trần gian, được tượng trưng bởi câu:

blankTrên trời, dưới đất, chỉ có ta (ngã) là tôn quý.”

Dịch từ câu:

Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”

Ta (ngã) trong đây, chính là Chân Ngã, chính là Phật Tánh của mỗi hành giả Phật tử sau khi đã “xong việc nhàn ca”.

Tóm lại, khởi đi từ một chủng tử Phật, thành một vị tiểu Phật mới ra đời, công phu kiên cố, để sau cùng đạt được quả Phật, thì cái ta trong lời tuyên bố chung kết nọ mới có ý nghĩa là cái Ta giải thoát (Phật tánh). Đó chính là cái mục tiêu tối hậu của tất cả các hành gỉa tu theo Phật nhắm đến.

Vì là Phật tánh, nên trên trời, dưới đất mới không gì quý bằng. Ý nghĩa này đã thật rõ ràng.

Sau đây, tôi xin được bổ túc một cách tóm tắt về thức thứ bảy và thức thứ tám. Đây là hai thức nằm sâu hơn ý thức, nên hơi khó thấy. Xin được dùng 2 thí dụ làm đơn cử có thể nêu lên được hai thức này:

Thí dụ 1: Anh A đã thay xong quần áo để sẵn sàng đi làm, anh thấy trên bàn có chùm chìa khóa, anh vơ lấy, sau đó, anh đi tìm cái cặp da, ra tới cửa, tính xỏ chân vào giày, nhưng lại nhớ tới chưa lấy chìa khóa, anh hốt hoảng đi tìm, vì do hốt hoảng phóng chiếu chế ngự trên ý thức (thức thứ sáu) nên quên là mình đang cầm chùm chìa khóa trong tay, trong đầu lúc đó chỉ nghĩ phải đi tìm chìa khóa, mắt dáo dác nhìn khắp nơi trong sự căng thẳng và hoảng hốt, sợ trễ giờ đi làm.

Trong trường hợp này, thức thứ sáu nhớ đến chùm chìa khóa mà hoảng hốt đi tìm. Thức thứ bẩy “chạy” đây đó giúp thức thứ sáu đi tìm chùm chìa khóa (thức thứ tám). Bạn nghĩ sao? Khi nào thì anh A tìm thấy chùm chìa khóa? Câu trả lời là, chỉ khi nào anh A ngưng đi tìm, thì nhìn thấy ngay chùm chìa khóa đang trong tay mình.

Vậy khi hỏi thức thứ 8 nằm ở đâu, thì cũng tương tự như ta đang đóng diễn cái hoạt cảnh trên đây, cái ta đang hỏi, nó chính là cái đang là. Chính cái sinh diệt, cái tâm phan duyên, cái tâm chạy theo sống trong trần cảnh, còn được gọi là ngã thức, hay A Lại Da thức, nó chẳng ở trong, nó chẳng ở ngoài. Khi ta sinh ra một niệm ưa thích, thì nó chính là cái ưa thích đó, và ngược lại, khi ta chê bai, thì nó chính là cái chê bai đó. Nó theo ta và xuất hiện cùng tất cả nơi pháp giới mà ta có mặt cho đến ngày chung cuộc của ta tức là khi ta nhắm mắt lìa đời, thì nó trở thành nghiệp thức đưa ta về với duyên mới!

Thí dụ 2: Một người nhận được một cú điện thoại và họ dùng điện thoại di động nói chuyện, đang trong câu chuyện, họ nhớ là cần phải đi chợ, và theo thói quen, khi ra bên ngoài, là phải mang theo điện thoại, nên vừa nói chuyện, vừa đi tìm điện thoại để mang theo, trong trường hợp này, thức thứ sáu vừa để ý tới cuộc nói chuyện, vừa nghĩ tới việc phải tìm điện thoại, thức thứ bảy “đi” khắp nơi trong nhà để giúp thức thứ sáu tìm điện thoại (thức thứ tám).

Chuyện cưỡi trâu đi tìm trâu cũng tương tự chuyện cầm chìa khóa mà đi tìm chìa khóa hoặc chuyện cầm điện thoại mà đi tìm điện thoại. Bạn nghĩ sao? Khi nào thì tìm thấy chìa khóa, điện thoại? Chỉ khi nào chấm dứt sự đi tìm, thì người đó mới nhận ra rằng, chùm chìa khóa, chiếc điện thoại mình đang cần tìm chính là đang ngay trong tay mình.

Thức thứ bảy khi được giải thích đơn lẻ sẽ dễ thấy hơn. Thí dụ như lúc nào các bạn có dịp phải đếm một số lớn lên đến vài trăm, như lúc tập thể dục, dịch cân kinh, vảy tay chẳng hạn. Lúc đếm được tới lúc nào đó, đầu bỗng nghĩ miên man sang một chuyện khác, một lát sau quay lại, vẫn thấy sự đếm số không bị lộn xộn, nghĩa là vẫn theo thứ tự, thì đó là nhờ mạt na thức hoạt động thay cho ý thức. Để ý vài lần, bạn sẽ thấy mạt na thức thể hiện rõ hơn.

Riêng thức thứ 8, khi còn phan duyên, còn sinh diệt thì gọi là ngã thức, nhưng khi đã được sạch rỗng, chấm dứt chạy theo trần cảnh, chấm dứt sinh diệt thì gọi là Chân Ngã, hay Phật Tánh cũng thế.

Tùy lúc, tùy nơi mà gọi nó là gì.

Kết luận

Phật tử Ngẫu Hồ tôi chỉ mong giải thích câu chuyện bảy bước hoa sen bằng Phật pháp, hy vọng nêu lên được một quy luật nhân quả rằng, ai gieo một chủng tử Phật, với một lòng tin sâu, sau đó tìm học và hành Phật pháp, thì sau cùng sẽ được một quả vị Phật, không sai chạy, và sự đính chính rõ rệt là vị tiểu Phật lúc sinh ra đời đi bảy bước không nhất thiết là Đức Thích Ca Mâu Ni. Sở dĩ, tôi phải nhắc đi, nhắc lại hai điều này, vì các chùa thường hay đặt hình cảnh này ở ngay mặt tiền, mà nếu không giải thích khế hợp, hoặc lảng tránh sự giải thích, ý nghĩa câu chuyện khi được hỏi đến, thì có khi biến cuộc tao ngộ đầu tiên thành một buổi trà đàm ngắn ngủi. Vậy, điều cẩn thận này, nếu được đánh giáquá đáng thì xin quý vị Phật tử cho tôi được xin lỗi (3 lần).

Nếu các bạn đồng thuận sự giải thích như trên, thì xin được phổ biến khi thuận duyên.

Ngoài mục đích đơn giản, rõ rệt nêu trên trong bài, tôi không mong đề tài dắt đến sự tranh luận đúng sai của các pháp Phật. Đa tạ.

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Phật tử Ngẫu Hồ.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31661)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10526)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11225)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12755)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10807)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16658)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10816)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22965)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12024)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11492)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10684)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12336)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11196)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10020)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10330)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11907)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10698)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12373)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9813)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11272)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13841)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12629)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9702)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10459)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10551)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10321)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9903)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11058)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12017)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10144)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10785)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9899)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9497)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14520)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8780)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12554)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10425)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9087)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10560)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9337)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8799)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10514)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9192)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8365)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10230)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19133)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9416)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8986)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9589)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14761)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10093)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8351)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8951)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8975)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8741)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9370)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14597)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9036)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8774)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9048)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10532)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8641)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9991)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24287)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10177)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11028)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9002)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8003)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9267)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10339)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9583)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21398)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12165)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7977)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14806)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10633)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11351)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9534)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18680)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12360)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10753)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13343)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10001)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9270)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9380)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15901)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant