Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đoạn 2

04 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8357)
Đoạn 2

TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU GIẢNG GIẢI

HT Thích Thanh Từ

ĐOẠN 2

CHÁNH VĂN:

Nhưng, chứng tâm này có nhanh chậm. Có người nghe pháp một niệm liền được vô tâm. Có người đến thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng mới được vô tâm. Dài hay ngắn được vô tâm mới trụ, lại không có thể tu, không có thể chứng, thật không sở đắc, chân thật không dối. Người chỉ một niệm mà được, cùng người đến thập địa mới được, công dụng tương đương, không có sâu cạn, chỉ là nhiều kiếp luống chịu khổ nhọc vậy.

GIẢNG:

Nói người chứng được chân tâm có nhanh chậm. Có người nghe pháp một niệm liền được vô tâm. Có người tu đến thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa mới được vô tâm. Tại sao thứ bậc khác nhau như vậy? Bởi vì nếu ngay đó trực nhận được bản tâm thì mạnh mẽ buông hết vọng niệm, chỉ còn một tâm hiện tiền, đó là nhanh. Nếu tu từ từ, mỗi ngày giảm một chút, lâu ngày bước lên từng cấp bậc, đó là chậm. Hai lối đi đến chỗ ngộ khác nhau vì tâm mạnh yếu của mỗi người, nên nói dài hay ngắn được vô tâm mới trụ.

Lại không có thể tu, không có thể chứng, không sở đắc, chân thật không dối. Nói không có thể tu, không có thể chứng, không sở đắc, chân thật không dối, đó là lẽ thật. Nghe đến đây có ai vui không? Tu mà không tu, không chứng, không đắc. Không tu, không chứng, không đắc thì làm gì đây? Nếu bỏ một thời khóa liền bị rầy, như vậy quí thầy bắt tu hay không tu? Bắt tu. Tại sao ở đây nói không tu? Quí thầy còn khuyên Phật tử cố gắng tu để chứng thành Phật quả là có chứng, tại sao ở đây nói không chứng? Nếu tu nhận được bản tâm là trụ là đắc, sao nói vô trụ vô đắc?

Chúng ta quen quan niệm chữ tu nghĩa là sửa, là chừa bỏ. Những gì xấu chúng ta sửa lại thành tốt, cái gì hư chúng ta bỏ không dùng nữa. Như vậy chừa bỏ cái xấu để tiến lên cái hay cái tốt, đó là tu. Tâm thể chân thật đâu có hư xấu mà sửa bỏ, chẳng qua chúng ta quên nó nên bây giờ chịu khó nhận nó. Nhận ra, nhớ lại đừng quên là được rồi, không nói tu gì cả. Nhưng bây giờ chúng ta lận đận lao đao trên đường tu là vì sao? Vì quên tâm chân thật, cả ngày chạy theo mấy chú vọng tưởng thành ra lao đao lận đận. Bảo tu là đừng chạy theo vọng tưởng nữa, chớ đâu phải tu cái chân thật sẵn có. Như vậy trên mặt chân thật không có tu, mà tu là sửa lại đừng chạy theo vọng tưởng điên đảo thôi. Không chạy theo vọng tưởng điên đảo là dừng lại, chớ có tu sửa gì đâu.

Như sân là một nghiệp ai cũng sợ. Nhiều vị tu năm năm, mười năm vẫn còn ngán cái sân. Lâu lâu bị thiên hạ kích động trái ý thì mặt mày đỏ hừng lên, miệng nói bậy nói bạ. Như vậy đáng sợ không? Nhưng qua cơn điên khùng rồi, ngồi lặng lại tìm xem cái sân hồi nãy ở đâu? Tìm không ra. Nếu nó thật thì khi lặng xuống phải có chỗ ẩn núp, nhưng tìm lại không có. Khi dấy động thì rối loạn lung tung, khi lặng xuống không còn dấu vết, cái đó thật hay giả? Giả, vậy mà lâu nay chúng ta vì khùng điên chạy theo nó. Khùng điên vì không có nền tảng trí tuệ. Người ta không trí tuệ nên nói bậy, mình cũng không trí tuệ mới chạy theo cái bậy ấy. Từ đó sanh ra đủ thứ hỗn loạn, đủ thứ đau khổ. Chúng ta tu là đừng lầm, đừng mê những lời điên khùng. Nghe việc gì cũng cười thì có chuyện gì xảy ra. Nhưng nghe trái tai chịu không nổi liền sanh đủ thứ chuyện. Một người điên cộng thêm hai người điên, rốt cuộc cả chùm điên hết thì khổ, rồi kêu Ta-bà khổ. Ta-bà khổ tại chỗ nào?

Nếu ngồi yên lặng nhìn lại sẽ thấy rõ ràng, tất cả chúng ta sống trong điên đảo, nên Bát-nhã gọi là vọng tưởng điên đảo. Cái tưởng điên đảo mà cứ chạy theo nó, vì vậy cả đời điên đảo. Điên đảo từ bé đến già đến chết, cho nên lộn lên lộn xuống làm người làm vật đủ thứ. Bây giờ mỗi lần vọng tưởng dấy lên, biết nó vọng không theo, thì hết điên đảo. Hết điên đảo mới nhớ cái thật của chính mình, như thế tạm gọi là tu, chớ sự thật có gì để tu.

Nói tu là chúng ta đừng chạy theo suy nghĩ lăng xăng, sống thật với cái sẵn có của mình. Không có gì để tu thì có gì để chứng không? Không có cái tu làm sao có cái chứng. Không có cái chứng nên cũng không có đắc. Do vậy ở đây nói “không có thể tu, không có thể chứng, thật không có sở đắc”. Không tu, không chứng, không đắc nhưng nhà Thiền dạy thường tỉnh, đừng mê, đừng quên. Vọng tưởng lên biết vọng tưởng không theo thì sống lại cái thật của mình. Đó là tỉnh và nhớ lại gốc nơi mỗi chúng ta. Người tu phải khéo nhận cho chín chắn, hiểu thật tường tận thì sự tu hành không khó lắm.

Ở đây nói “chỉ là nhiều kiếp luống chịu khổ nhọc vậy”. Tại sao? Vì chúng ta không nhận ra cái thật, cứ chạy theo thứ lớp, cấp bậc hình thức thành ra nhiều thứ nhọc.

CHÁNH VĂN:

Tạo ác tạo thiện đều là chấp tướng. Chấp tướng tạo ác luống chịu luân hồi; chấp tướng tạo thiện luống chịu nhọc nhằn, thảy đều không bằng một câu nói tự nhận được bản pháp. Pháp này tức là tâm, ngoài tâm không có pháp. Tâm này tức là pháp, ngoài pháp không có tâm. Tâm tự vô tâm, cũng không vô tâm, đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành có. Thầm khế hội mà thôi. Dứt các nghĩ bàn, nên nói dứt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành. Tâm này là cội nguồn thanh tịnh. Phật và người đều có. Các loài bò bay máy cựa cùng chư Phật, Bồ-tát một thể không khác. Chỉ vì vọng tưởng phân biệt tạo các thứ nghiệp. Trên quả Phật sẵn có, thật không một vật, rỗng suốt vắng lặng sáng sủa, nhiệm mầu an lạc. Phải sâu tự ngộ nhập, thẳng đó là phải, tròn đầy sẵn đủ không có thiếu sót.

GIẢNG:

Ngài nói tạo ác, tạo thiện đều là chấp tướng. Câu này bị người ta phản đối lắm. Tạo ác là chấp tướng, tại sao tạo thiện cũng chấp tướng? Vậy không cho làm thiện sao? Thật ra với cái nhìn đối đãi, tạo ác là tội lỗi, tạo thiện là phước lành. Tạo ác bị luân hồiđịa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Tạo thiện bị luân hồicõi người, a-tu-la, trời. Cả hai đứng về mặt luân hồi đều như nhau, chỉ khác luân hồi ở chỗ khổ và luân hồi ở chỗ ít khổ hơn.

Ví dụ được sanh về cõi trời như trời Đế Thích, lâu lâu cũng hết phước. Khi hết phước năm tướng suy hiện, lúc đó khổ hay vui? Cũng khổ như thường. Như vậy tất cả khổ vui trong vòng luân hồi tuy có khác nhưng gốc vẫn là luân hồi. Vì vậy ở đây nói tạo ác, tạo thiện đều là chấp tướng, một bên bị tướng luân hồi trong tam ác đạo, một bên được tướng luân hồi trong tam thiện đạo. Nên nói làm thiện thì luống chịu nhọc nhằn vì còn phải lên xuống trong các đường, không bằng một câu nói tự nhận bản pháp, pháp này tức là tâm.

Ngày nay thiên hạ chịu tạo thiện để đời sau sung sướng hơn đời này. Nói đời sau nhập Niết-bàn thấy xa vời quá, chỉ muốn sướng hơn đời này một chút là vui rồi. Hoặc nói mất không có đời sau thì buồn chết. Do đó người đời thích làm thiện, không thích tu giải thoát sanh tử. Vì vậy khuyến khích làm lành người ta dễ chấp nhận, còn bảo tu cho thoát khỏi sanh tử, người ta không biết sẽ ra sao nên không nghe theo.

Ở đây các Tổ dạy muốn ra khỏi sanh tử phải nhận được bản pháp. Pháp tức là bản tâm của mình. Khi tâm khởi nghĩ xấu đó là tạo nghiệp ác, nghĩ lành là tạo nghiệp thiện. Người mới tập tu phải bỏ nghĩ ác, nuôi nghĩ lành. Tuy nhiên nghĩ ác sanh ba đường dữ, nghĩ lành sanh ba đường thiện thì cũng là sanh. Còn có nghĩ là còn tạo nghiệp, chừng nào tâm không còn nghĩ hai bên, lúc đó ta vẫn biết mà không có niệm, đó chính là tâm chân thật. Không có niệm thì không có nghiệp, không có nghiệp thì thoát ly sanh tử. Cho nên muốn ra khỏi vòng sanh tử phải dứt cả hai bên. Cái nghĩ hai bên đều buông xả hết, rốt cuộc còn một tâm thể thanh tịnh hằng tri, hằng giác, không bị sanh tử. Không bị sanh tử thì nó có hay không? Không phải có, không phải không. Tại sao? Vì còn thấy có, thấy không cũng là hai bên.

Khi hai niệm thiện ác không nghĩ thì còn cái biết không? Biết rõ ràng là còn tâm, chớ đâu phải không tâm. Tâm ấy không bị nghiệp dẫn nên nói giải thoát. Điều này hết sức cụ thể, không phải chuyện mơ màng thiếu thực tế. Chúng ta không chịu nghiệm xét, cứ chạy theo nghĩ ác nghĩ thiện, như vậy mà tạo nghiệp luân hồi. Lục Tổ nói hết sức thẳng: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Câu này Ngài đã chỉ trắng ra, không còn một chút gì giấu giếm. Dứt cả nghĩ thiện, nghĩ ác thì hiện hữu Bản lai diện mục của mình, thoát ly sanh tử.

Như người tu theo hạnh Thanh văn chứng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Tới A-la-hán rồi tiến lên Diệt tận định, không còn niệm thiện ác. Vì Diệt tận định thì đâu còn niệm thiện, niệm ác. Rõ ràng không có vị A-la-hán nào còn niệm. Diệt tận địnhđịnh không còn một chút tâm dạng niệm khởi, như vậy mới tới vô sanh, nhập Niết-bàn. Ngay đây nếu chúng ta không còn hai niệm thiện ác thì dù chưa nhập Niết-bàn nhưng cũng như ở Niết-bàn. Quí vị chịu ở Niết-bàn không? Ai cũng mơ ước được giải thoát nhập Niết-bàn, trong khi Niết-bàn ngay trước mắt không chịu nhận.

Ở đây chỉ thẳng tâm sanh diệt tạo nghiệp luân hồi, tâm không sanh diệt đi đến Niết-bàn. Ai có gan không thèm nghĩ thiện, nghĩ ác thì gần Niết-bàn rồi, khỏi cần nhập Diệt tận định. Chúng ta hiểu cho tường tận mới thấy đường lối của Phật Tổ dạy, tuy khác nhau từ cấp bậc, nhưng chỗ cứu kính vẫn gặp nhau, không thể khác được. Nên nói “Tâm này tức là pháp, ngoài pháp không có tâm”. Thường thường nhà Phật hay dùng từ “pháp” để chỉ muôn sự muôn vật, mà cũng dùng từ “pháp” để chỉ cho chánh pháp của Phật dạy. Tất cả pháp đều từ tâm này mà ra nên biết tâm này tức là pháp, ngoài pháp không có tâm.

Tâm tự vô tâm, cũng không vô tâm, đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành có. Tâm này tự vô tâm. Tại sao? Vì đứng trên hai mặt, niệm hữu niệm vô hay niệm thiện niệm ác, người ta nói có tâm. Hết những niệm đó thì tâm mà vô tâm. Tâm là sao? Vì không có niệm mà vẫn biết, vẫn tri giác đó là tâm. Vô tâm là sao? Vì không có niệm thiện, niệm ác đó là vô tâm. Vô tâm mà không phải không ngơ, vô tâm tạo nghiệp nhưng tâm chân thật vẫn hiện tiền. Vì vậy nói tâm tự vô tâm.

Cũng không vô tâm là sao? Bởi vì tâm hằng tri giác làm sao vô được. Đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành có, nếu khởi tâm để tìm tâm chân thật, tâm ấy trở thành có rồi. Chỗ tâm này là tâm mà vô tâm. Tại sao? Vì hằng biết mà không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ phải, không nghĩ quấy v.v… đó là vô tâm. Vô tâm tức là tâm. Tại sao? Vì vô tâm sanh tử hay vô tâm tạo nghiệp, mà còn tâm chân thật. Cho nên vô tâm mà vẫn là tâm, không phải vô tâm là không có gì hết.

Tâm dấy niệm tìm thuộc về dấy động, lấy dấy động tìm tâm chân thật, làm sao tìm được? Cho nên nói nếu dùng tâm tìm tâm, tâm trở lại thành hữu, nghĩa là tâm bị tìm trở thành có. Trong mười mục chăn trâu, ban đầu còn trâu còn chăn, cuối cùng trâu mất chăn cũng không còn. Nếu còn một thằng chăn hay còn con trâu cũng chưa tới chỗ cứu kính, phải cả hai đều mất, mới đi tới chỗ viên mãn. Vì vậy nói tâm này chỉ thầm khế hội, thầm nhận thầm biết, chớ không tìm kiếm.

Dứt các nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn tới chỗ đó, nên dứt đường ngôn ngữ, chỗ ấy không nói năng gì được, diệt chỗ tâm hành, dứt tâm theo đuổi tìm kiếm. Câu nên dứt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành, là chỉ cho muốn đến nơi chân thật thì không còn ngôn ngữ, không còn tâm hành. Thiền sư Đả Địa khi có người hỏi “thế nào Phật”, Ngài chỉ cầm gậy đập dưới đất một cái, hỏi “thế nào pháp” cũng đập một cái, không trả lời gì hết. Tại sao? Vì Phật và pháp là chỗ không có ngôn ngữ, vừa có ngôn ngữ liền trật rồi. Ngài chỉ thẳng nhưng chúng ta không biết nên không nhận ra yếu chỉ của Thiền sư.

Ngài Lâm Tế tới hỏi Tổ Hoàng Bá “thế nào là đại ý Phật pháp”, ngài Hoàng Bá không nói mà chỉ đập thôi. Bởi vì đây là chỗ ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, bây giờ phải trả lời làm sao? Trả lời là có ngôn ngữ, thành ra Tổ cầm gậy đập. Như vậy thấy tàn nhẫn quá. Hỏi một câu có nghĩa có lý đàng hoàng, không chỉ lại đánh. Khi Lâm Tế tới ngài Đại Ngu, Ngài bảo: “Hoàng Bá thật là tâm lão bà vì ông mà chỉ chỗ tột cùng, ông còn nghĩ có lỗi không lỗi.” Bởi chỉ chỗ tột cùng nên không thể mở miệng, không cho hành giả suy nghĩ. Có nói là có suy nghĩ, vì vậy Ngài chỉ đánh, đó là tâm lão bà.

Bây giờ tôi cũng đánh, không nói gì hết, quí vị chịu không? Chắc ít tháng xách gói đi hết. Tâm lão bà không đúng chỗ thiên hạ cũng không chịu nổi. Chỉ người đến nơi rồi mới thấy được tâm lão bà, còn chưa đến thì thấy tàn nhẫn. Chúng ta nhìn hành động ấy cũng thật bất bình, cho nên Lâm Tế khóc là phải. Tức quá mà, hỏi có ý nghĩa đàng hoàng không dạy không trả lời, còn đánh nữa. Đâu phải đánh một lần, ba lần đều như vậy, không tức sao được. Chính chỗ dồn ép đó, sau này ngài Lâm Tế ngộ được mới truyền bá hơn ngàn năm. Đó là thủ thuật đại tài của những bậc đại Thiền sư, chúng ta bây giờ chỉ là tiểu Thiền sư nên không dám dùng thủ thuật ấy.

Tâm này là cội nguồn thanh tịnh. Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ phải, không nghĩ quấy mà thường biết thì cái biết đó thanh tịnh không? Thanh tịnh. Cái biết thanh tịnh này có người nào thiếu không? Nếu không, tại sao không dám nhận, phải chờ nhắc tới nhắc lui! Tại vì quên. Bây giờ nhờ thiện hữu tri thức nhắc nhở mới nhớ, mỗi lần nhắc tin thêm một chút, nhận ra một chút, lâu ngày thấm dần, chừng đó mới nhận toàn diện. Vì vậy phải chịu cực.

Phật và người đều có, chư Phật có tâm đó, chúng ta cũng có tâm đó, cho đến loài bò bay máy cựa cùng Bồ-tát đều có tâm ấy. Tại sao? Vì các loài đều có tánh biết.

Chỉ vì vọng tưởng phân biệt tạo các thứ nghiệp, chúng ta còn vọng tưởng nên còn tạo nghiệp, lên hay xuống thì tùy mỗi người. Muốn hết nghiệp phải hết vọng tưởng. Nếu hết vọng tưởng lúc đó chúng ta khùng hay sáng suốt? Không vọng tưởng biết nấu cơm ăn không? Cũng biết vo gạo, biết lặt rau vậy. Đợi vọng tưởng mới biết làm sao? Khi tất cả chúng ta đều hết vọng tưởng thì Thiền viện trở thành Cực Lạc rồi, không cần ai nhắc ai, ai rầy ai, cứ tự do làm việc theo tâm thanh tịnh bản nhiên thôi, không chuyện gì hết. Còn bây giờ phải nghe rầy tới, rầy lui, nhắc qua, nhắc lại là tại mỗi người đều khởi vọng tưởng, thi thố vọng tưởng của mình. Người này vừa vọng tưởng liền muốn thi thố ra, người khác cũng thi thố đối lại, riết thành cả đám cãi nhau hoài. Cãi là gốc từ vọng tưởng, không có cái nào ngoài vọng tưởng hết. Nếu tất cả Tăng Ni sống mà không vọng tưởng thì có chuyện gì phải cãi, phải rầy nữa. Thật nhẹ nhàng biết mấy! Nên con đường thành Phật không phải xa, xa là chỉ vì vọng tưởng mà ra.

Trên Phật quả sẵn có, thật không một vật, rỗng suốt vắng lặng sáng sủa, nhiệm mầu an lạc. Trên quả Phật sẵn có là sẵn có cái gì? Không một vật gì hết, bản lai vô nhất vật, rỗng suốt vắng lặng, nhiệm mầu an lạc. Bây giờ vị nào thử trong một ngày không vọng tưởng, từ sớm tới chiều ở Thiền đường ra ngoài làm công tác, đừng có một chút vọng tưởng, người đó có thể sống được với cái sáng suốt rỗng lặng của mình không? Nghe nói sáng suốt rỗng lặng, thiên hạ tưởng tới đó bế tắc, không hiểu biết, nhưng không ngờ đến đó mới được nhiệm mầu, an lạc. Cho nên đức Phật nhập định sâu, sau đó mới chứng Tam minh, Lục thông. Từ chân không mới có diệu hữu. Chân không là chỗ không tất cả vật, không tất cả nghiệp, rỗng suốt vắng lặng, đến đây rồi mới có Tam minh, Lục thông tức là diệu hữu.

Phải sâu tự ngộ nhập, thẳng đó là phải, tròn đầy sẵn đủ không có thiếu sót. Tất cả chúng ta ai cũng đủ, cũng sẵn có tâm Phật, tất nhiên ai cũng có quyền làm Phật. Cho nên Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng bái, nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật.” Đó là lời Bồ-tát nhắc khéo, chúng tađủ khả năng thành Phật mà quên nên phải nhắc. Nhiều người nghĩ Ngài nói câu đó với tư cách khiêm nhường, nhưng sự thật đó là bài pháp ngắn, đánh thức khả năng thành Phật nơi mỗi người, để chúng ta vững niềm tin tiến tu, chớ không phải câu nói khiêm nhường.

Học tới đây chúng ta đã biết vì sao mình đi trong luân hồi, làm sao để ra khỏi sanh tử. Như vậy có cần coi bói xem mình được giải thoát không? Chính thầy bói cũng luân hồi sanh tử, làm sao coi được. Phải tự thấy mình tường tận, nếu đang tạo nghiệp trong sanh tử thì sẽ đi đường sanh tử. Nếu nuôi dưỡng toàn những niệm xấu thì sẽ đi trong ba đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nếu thuần niệm thiện, thương người này giúp kẻ kia, thì biết mình sẽ đi trong ba đường lành. Còn cả ngày từ sớm tới chiều như ngây như ngu, tâm thanh tịnh không một niệm nào dấy khởi là biết ngang đây dứt đường sanh tử. Rõ ràng như vậy khỏi cần hỏi, khỏi cần cầu xin ai hết. Chúng ta đủ thẩm quyền để chọn lối đi. Lối thứ nhất xuống ba đường dữ, lối thứ nhì sanh ba đường lành, lối thứ ba ra khỏi sanh tử. Mỗi vị tự chọn lấy, không ai chọn thế được.

Vì vậy các Thiền sư nói tới nói lui, nói qua nói lại đều bảo đừng dính hai bên. Vì đó là gốc của luân hồi sanh tử. Chừng nào hai bên lặng, dù chúng ta ra vườn nhổ cỏ mà cũng là đang ở trong đại định. Lục Tổ dạy đại định là làm tất cả việc mà không có niệm dính hai bên. Trong đại định có tuệ, vì không dấy động là định, mà hằng tri hằng giác là tuệ. Đây gọi là định tuệ không hai. Còn định trước rồi lần lần sanh tuệ, không gọi là đại định. Đó là chỗ thâm sâu mà người học đạo cần phải biết cho rõ, mới thông cảm được với người xưa.

CHÁNH VĂN:

Giả sử người tinh tấn tu hành trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị, cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái sẵn có. Kỳ thật, trên Phật của mình không thêm được một vật gì, xem lại công dụng nhiều kiếp thảy đều là việc làm trong mộng. Cho nên Như Lai nói: “Ta đối với A-nậu Bồ-đề (Vô thượng Chánh giác) thật không có sở đắc, nếu có sở đắc, đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho ta.

GIẢNG:

Nếu tu hành theo kinh dạy thì phải trải qua ba vô số kiếp mới được thành Phật. Ở đây nói trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị thập tín, thập trụ v.v… cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái sẵn có của mình, kỳ thật trên Phật của mình không thêm một vật gì. Chừng đó mới thấy công phu tu hành qua ba vô số kiếp, thảy đều là việc trong mộng. Bởi vì tu khổ hạnh thế này, làm lợi ích cho chúng sanh thế kia, nhưng tất cả đều là sanh diệt. Vì vậy dẫn kinh nói: “Ta đối với A-nậu Bồ-đề thật không có sở đắc, nếu có sở đắc, đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho ta.” Bởi vì chân thật là cái sẵn có của mình, có thêm bớt gì đâu mà sở đắc. Nếu còn sở đắc là còn kẹt hình tướng, kẹt thứ bậc, Phật đâu thọ ký cho người kẹt chấp. Chừng nào chúng ta nhận chân được chỗ chân thật cứu kính, Phật mới thọ ký.

CHÁNH VĂN:

Lại nói: “Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp, ấy gọi là Bồ-đề.

GIẢNG:

Bởi vì trên tâm thể chân thật, Phật và chúng sanh không khác nên nói bình đẳng, ấy gọi là Bồ-đề.

CHÁNH VĂN:

Tức tâm bản nguyên thanh tịnh này, chúng sanh, chư Phật, núi sông, thế giới, có tướng, không tướng, khắp cả mười phương thế giới, tất cả đều bình đẳng không có tướng ta và kia.

GIẢNG:

Khi nhận được tâm bản nguyên thanh tịnh rồi, chừng đó chúng ta thấy chúng sanh, Phật cho tới tất cả muôn pháp ở thế gian đều không hai.

CHÁNH VĂN:

Tâm bản nguyên thanh tịnh này thường tự tròn sáng soi khắp, mà người đời không ngộ, chỉ nhìn cái thấy nghe hiểu biết làm tâm, bị cái thấy nghe hiểu biết che đậy, cho nên không thấy được bản thể tinh minh.

GIẢNG:

Chúng ta có tâm bản nguyên thanh tịnh tự tròn sáng soi khắp hết, mà không nhận, không ngộ được nó, chỉ nhận cái thấy nghe hiểu biết làm tâm. Vì vậy bị cái thấy nghe hiểu biết che đậy, nên không thấy được bản thể tinh minh. Bản thể tinh minh là cái trong sáng của chính mình. Chỗ này không khéo quí vị sẽ nhận lầm rằng tất cả cái thấy nghe hiểu biết không ảnh hưởng gì với bản thể tinh minh, vì Ngài nói chỉ nhìn cái thấy nghe hiểu biết làm tâm. Nhưng nhớ, thấy nghe hiểu biết tức là kiến văn giác tri, nó là giặc mà nó cũng là tâm mình. Đoạn dưới sẽ nói rõ.

CHÁNH VĂN:

Chỉ nên thẳng đó vô tâm thì bản thể tự hiện. Như vầng mặt trời lên trên hư không soi sáng khắp mười phương không có chướng ngại. Người học đạo chỉ nhận cái thấy nghe hiểu biết động tác thi vi; không dẹp cái thấy nghe hiểu biết tức là con đường tâm bặt dứt không lối vào. Chỉ nơi cái thấy nghe hiểu biết nhận bản tâm. Song bản tâm không thuộc cái thấy nghe hiểu biết, cũng không rời cái thấy nghe hiểu biết.

GIẢNG:

Nói đi nói lại, sở dĩ chúng ta lầm là vì quen cái thấy nghe hiểu biết là tội, mà không nhận ra cái thấy nghe hiểu biết cũng là công. Như vậy thấy nghe hiểu biết thế nào là tội, thấy nghe hiểu biết thế nào là công? Thấy bình hoa rồi khởi nghĩ bình hoa đẹp xấu đó là tội. Thấy bình hoa biết mình có cái hay thấy đó là công. Tội hay công đều do nơi mình. Nghe nói nhận cái thấy nghe hiểu biết, rồi bị nó che đậy nên bịt mắt, bịt tai… hiểu như vậy là lầm.

Đây nói chỉ nên thẳng đó vô tâm thì bản thể tự hiện, thẳng đó vô tâm tức là đối với tất cả sự việc xảy ra chung quanh, ngay đó chúng ta vô tâm. Được vô tâm thì như vầng mặt trời lên trên hư không, soi sáng khắp mười phương không có chướng ngại. Ngược lại, nếu có tâm thì như nhìn lên bầu trời thấy áng mây, chiếc máy bay hay cánh chim… lúc đó ta chú ý vào áng mây, máy bay, cánh chim… nên quên mất bầu trời thênh thang. Tâm mình cũng vậy, tự nó thênh thang, nhưng vừa dấy niệm, chạy theo niệm thì lặng mất tâm thênh thang.

Chúng ta thường cho cái nghĩ của mình đúng, rồi phê phán đủ chuyện. Cả ngày làm việc không công mà siêng lắm. Hết chuyện này tới chuyện kia, thấy người này phê bình, thấy người kia phê bình, đủ thứ. Chuyện họ mặc họ, mình có cái thật đây mà không nhớ. Tu đòi thành Phật, mà Phật ngay đây không nhớ, cứ nhớ hết chúng sanh này tới chúng sanh khác, cả ngày như vậy. Ông Phật ngồi trên bàn chắc cười hoài, mấy chú lạy tôi, muốn thành Phật như tôi, mà cứ chạy theo chúng sanh hoài thì chừng nào thành Phật? Rõ ràng chúng ta quá sức dại khờ.

Như người ta đi ngoài đường thì kệ người ta, mắc mớ gì mình mà suy gẫm xem tâm tư người đó thế nào, như vậy chắc gì đúng. Vậy mà cũng bám vào suy gẫm, có phải dại khờ không? Hoặc ai vô tình hay cố ý nói gì đó, thì thôi cho qua đi, tội gì phải suy nghĩ câu ấy khen hay chê cho cực. Chúng ta có bệnh cái gì cũng ôm vô hết, rồi than khổ than mất ăn mất ngủ. Chuyện ở đâu cũng cứ ôm vô làm sao ngủ được. Người tu phải sáng suốt khôn ngoan, việc gì đáng thì làm, không đáng thì bỏ qua, đừng bận rộn, đừng phiền hà, đừng can thiệp chuyện của người ta. Thấy huynh đệ đi chơi hơi lững thững, vô mách quí thầy lớn ông đó vầy kia. Như vậy là can thiệp chuyện của người ta rồi, mình tôn trọng tự do của mình, sao không tôn trọng tự do của người ta. Thấy người cắm đầu làm việc không nói năng gì hết, liền can thiệp vô “người đó làm việc buồn quá, không nói câu nào hết, thật là con người khó hiểu”. Người nói nhiều thì can thiệp theo nói nhiều, người không nói thì can thiệp theo không nói, cả ngày cứ can thiệp chuyện người ta. Chuyện của mình đang rối nùi nè, bảo bỏ đi đừng nghĩ nữa mà không nghe, cứ can thiệp chuyện người ta, rồi sanh phiền não đủ thứ. Đó là bệnh chung của chúng sanh, ai cũng mắc phải hết. Tu là gỡ bỏ những điên đảo, vô ích như vậy.

Người tu chỉ một việc là phải nhớ ông Phật thanh tịnh của mình, còn tất cả niệm tạo nghiệp hãy buông đi. Tu là cốt thành Phật, cả ngày giữ cho thanh tịnh trọn vẹn thì phước đức biết mấy, tu mau thành Phật biết mấy. Chúng ta nhớ câu kệ của ngài Trần Nhân Tông nói “đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”. Đối cảnh là mắt tai mũi lưỡi thân ý đều tiếp xúc với cảnh mà không có niệm phân biệt chạy theo, đó là vô tâm, đó là Thiền, là đại định. Hiện tại quí vị ngồi một chỗ ngó xuống mà còn nhớ chuyện này chuyện nọ, như vậy vô tâm chưa? Ngồi yên ngó xuống mà còn chưa vô tâm, chớ đừng nói đối cảnh. Bởi vậy chúng ta thấy thật xấu hổ, mình chưa xứng đáng là đệ tử của Tổ sư.

Tăng Ni ngồi thiềnkhông vô tâm là giết chết thời giờ vô ích. Khi ngồi thiền không cho phép suy nghĩ mà cũng cứ nghĩ, như vậy không phải giết chết thời giờ là gì? Cho nên chúng ta tu phải sáng suốt, quí báu thời giờ của mình, đừng để hoang phí một cách vô ích. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A-nan hỏi Phật về căn bản phiền nãocăn bản Bồ-đề Niết-bàn, bấy giờ mười phương chư Phật “dị khẩu đồng âm”, phát ra câu nói: “Này A-nan căn bản phiền não là sáu căn của ông, mà căn bản Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của ông.” Như vậy sáu căn là công mà sáu căn cũng là tội. Chúng ta phải dùng sáu căn thế nào cho nó thành căn bản Bồ-đề Niết-bàn, đừng dùng theo căn bản phiền não luân hồi sanh tử.

CHÁNH VĂN:

Cốt yếu là chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết khởi phân biệt, cũng chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết mà động niệm, cũng chớ lìa thấy nghe hiểu biết mà tìm tâm, cũng chớ bỏ cái thấy nghe hiểu biết mà nhận pháp. Không tức, không ly, không trụ, không trước, tung hoành tự tại đều là đạo tràng.

GIẢNG:

Chỗ này nói hết sức rõ. Cốt yếu là chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết khởi phân biệt, vì như vậy là bệnh. Thấy nghe hiểu biết cứ thấy nghe hiểu biết thôi, đó là Thiền, là trở về bản tâm. Cũng chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết mà động niệm, phân biệt là động niệm. Nên biết lỗi ở cái thấy nghe hiểu biết liền khởi phân biệt, khởi động niệm. Cũng chớ lìa thấy nghe hiểu biết mà tìm tâm, cũng chớ bỏ cái thấy nghe hiểu biết mà nhận pháp, chính cái thấy nghe hiểu biết là dụng của tâm, nên không thể lìa nó tìm tâm. Phật nói: “Nhất tinh minh sanh lục hòa hợp.” Lục hòa hợp là sáu căn. Từ một nhất tinh minh khởi ra sáu hòa hợp, thì sáu hòa hợp là dụng của nhất tinh minh. Nhất tinh minh là thể. Thấy nghe hiểu biết là dụng của nhất tinh minh, nó từ thể mà ra. Bỏ dụng tìm thể làm sao được?

Ví dụ ban đêm cái nhà có sáu cửa mở hoác, ở trong đốt đèn, ánh sáng phát ra nơi sáu cửa là ánh sáng của ngọn đèn. Nếu nhìn ánh sáng nơi cửa sổ thì ánh sáng vuông, cửa cái thì ánh sáng dài v.v… Nhìn qua cửa thì thấy khuôn thế này thế nọ, nhưng ánh sáng một hay nhiều? Dáng phát ra sai biệt là vì cửa lớn nhỏ khác nhau, chớ ánh sáng không hai. Muốn biết có đèn đang thắp sáng trong nhà thì phải từ ánh sáng ở cửa phát ra. Cũng vậy, muốn nhận được tâm thể thanh tịnh sẵn có của mình, phải nhờ sáu căn. Từ sáu căn có tánh biết mới nhận ra mình có tâm thể tròn đầy. Cho nên tu muốn được Bồ-đề Niết-bàn gốc từ sáu căn. Thấy cảnh vật biết vậy thôi chớ không động niệm, đó là Bồ-đề Niết-bàn. Nếu thấy người thấy cảnh khởi niệm suy nghĩ rồi thị phi, tham đắm v.v… đó là gốc của sanh tử.

Cho nên ở đây nói “không tức, không ly”, không tức nơi sáu căn mà cũng không rời sáu căn. “Không trụ, không trước” không ở một chỗ, không dính mắc một chỗ. Như vậy mới gọi “tung hoành tự tại đều là đạo tràng”. Phật, Tổ nói không khác, đều chỉ dạy đến nơi đến chốn chỗ trọng tâm, ngay cốt tủy cho chúng ta thấy.

CHÁNH VĂN:

Người đời nghe nói “chư Phật đều truyền tâm pháp”, cho là trên tâm riêng có một pháp có thể chứng có thể thủ, bèn đem tâm tìm pháp.

GIẢNG:

Người đời nghe nói chư Phật đều truyền tâm pháp, như Phật truyền tâm pháp cho ngài Ca-diếp v.v… rồi cho rằng trên tâm có một pháp, đó là lầm lẫn. Pháp đó tức là tâm, nói truyền tâm tức là ấn chứng người đó nhận bản tâm đúng như thật, như Phật đã nhận, ấy gọi là truyền, là ấn chứng.

CHÁNH VĂN:

Họ không biết tâm tức là pháp, pháp tức là tâm, không thể đem tâm lại cầu tâm, trải ngàn muôn kiếp trọn không có ngày được.

GIẢNG:

Pháp và tâm thật sự không hai. Tâm tức là pháp, pháp tức là tâm. Nếu chúng ta lầm không nhận ra tâm đó, đi tìm cầu pháp, tưởng pháp là cái gì khác, không ngờ cũng là tâm của mình. Như vậy tìm cầu đến muôn kiếp không biết chừng nào mới được.

CHÁNH VĂN:

Đâu bằng chính nơi đó vô tâm, tức là bản pháp.

GIẢNG:

Như vậy thì hết sức gọn, chính nơi đó vô tâm. Nơi đó vô tâm là sao? Tức là ngay khi duyên theo cảnh, duyên theo trần mà mình không dấy niệm chạy theo, không dấy niệm dính mắc thì ngay đó là vô tâm. Mà vô tâm là bản pháp, tức pháp gốc.

CHÁNH VĂN:

Như người lực sĩ quên hạt châu trên trán, hướng ra ngoài tìm kiếm, chạy khắp mười phương trọn không thể được. Người trí chỉ cho, liền đó tự thấy bản châu như cũ.

GIẢNG:

Thí dụ như lực sĩ trên trán có hạt châu. Người ấy bỗng quên hạt châu trên trán, cứ chạy đầu này đầu nọ tìm hạt châu. Nếu có người trí thấy rõ hạt châu trên trán, chỉ cho anh ta, bấy giờ anh rờ lên trán liền đụng hạt châu, khỏi phải chạy tìm kiếm nữa. Trong nhà Thiền, các Thiền sư dùng đủ cách chỉ hoặc Phật tức là ông, hoặc Phật ở dưới gót chân ông v.v… Nói thế nghe dễ quá người ta không chịu, nên phải nói Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thần thông này kia họ mới chịu. Như vậy chạy tìm cực khổ hay đứng một chỗ nhận ra cực khổ? Vậy mà thiên hạ chịu cái khổ, không chịu ngồi lại nhận ra, rốt cuộc tìm hoài không ra chỗ chân thật.

CHÁNH VĂN:

Người học đạobản tâm mình không nhận là Phật, bèn hướng ra ngoài tìm cầu khởi công dụng hạnh, y thứ lớp chứng, nhiều kiếp cần cầu hằng không thành đạo.

GIẢNG:

Ở trên là ví dụ, đến đây hợp pháp. Người học đạo quên mất bản tâm giống như chàng lực sĩ quên hòn ngọc. Không nhận mình là Phật, chàng lực sĩ không nhận ngay nơi trán có hòn ngọc. Chạy ra ngoài tìm cầu, dùng đủ thứ công, đủ thứ hạnh để tu, nhiều kiếp cần cầu mà hằng không thành đạo, vì cầu bên ngoài làm sao được.

CHÁNH VĂN:

Không bằng thẳng đó vô tâm, quyết định biết tất cả pháp vốn không sở hữu, cũng không sở đắc, không y không trụ, không năng không sở, không động vọng niệm, liền chứng Bồ-đề.

GIẢNG:

Như vậy chi bằng chúng ta được vô tâm, vô tâm thì quyết định tất cả pháp vốn không có sở hữu, không năng, không sở. Không sở hữu thì không sở đắc, không chỗ y trụ, không động vọng niệm, đó là Bồ-đề. Bồ-đề không phải chuyện ở xa, mà Bồ-đề là giác, là Phật của mình.

CHÁNH VĂN:

Đến khi chứng đạo, chỉ là chứng bản tâm. Phật nhiều kiếp dụng công đều là tu suông, như lực sĩ khi được châu chỉ được hạt châu sẵn trên trán, không quan hệ gì sức chạy ra ngoài tìm cầu.

GIẢNG:

Lực sĩ chạy cả ngày cả tháng cả năm tìm hạt châu. Nhưng tới chừng rờ lại thì thấy hạt châu sẵn trên trán. Như vậy anh có kể nhờ công chạy đầu này góc nọ mà được châu không? Chạy chỉ uổng công phí sức thôi, chớ thật hạt châu trên trán sẵn. Chúng ta cũng vậy, chạy nơi này, tìm nơi kia cho thấy Phật, thấy đạo. Thật ra Phật, đạo ngay nơi mình không ở đâu xa hết. Chịu khó nhận thì được, muốn nhận ông Phật của mình phải làm sao? Phải vô tâm.

Ở đây nói vô tâm, song tôi nói khác một chút là “nhớ tâm”. Nói vô tâm với nói nhớ tâm có mâu thuẫn không? Vô là vô tâm nào? Nhớ là nhớ tâm nào? Vô tâm là không có tâm lăng xăng điên đảo vọng tưởng. Nhớ tâm là nhớ nhận ra mình có ông Phật sẵn. Chúng ta vô mà không phải vô, vẫn có tâm chân thật hiện tiền. Nhớ tâm chân thật hiện tiền, đó là chúng ta nhận ra ông Phật của chính mình.

CHÁNH VĂN:

Cho nên Phật nói: “Ta đối với A-nậu Bồ-đề thật không sở đắc.” Sợ e người không tin nên dẫn ngũ nhãn đã thấy, năm câu đã nói, chân thật không dối là đệ nhất nghĩa đế.

GIẢNG:

Đây dẫn trong kinh Kim Cang. Phật vì sợ người không hiểu hoặc hiểu lầm nên nói: “Ta đối A-nậu Bồ Đề thật không sở đắc”, vì cái đó đã sẵn rồi còn gì sở đắc. Nhưng sợ người không hiểu nên Phật nói về ngũ nhãn v.v… cho tới năm câu, chân thật không dối là đệ nhất nghĩa.

CHÁNH VĂN:

Người học đạo chớ nghi tứ đại làm thân, tứ đại không ngã (không thường còn và làm chủ), ngã cũng không chủ, cho nên biết thân này không ngã cũng không chủ. Chớ nghi năm ấm làm tâm, năm ấm không ngã cũng không chủ, cho nên tâm này không ngã cũng không chủ. Sáu căn, sáu trần, sáu thức hòa hợp sanh diệt cũng lại như vậy. Mười tám giới đã không thì tất cả đều không, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch.

GIẢNG:

Ngài chỉ cho chúng ta phân biệt thân này do tứ đại giả hợp nên không có ngã, tức không có chủ thể. Nhưng đa số người đời không chịu như thế, vì thấy thân ràng ràng đây mà nói vô ngã làm sao chấp nhận. Bởi chúng ta mê nên lời dạy của bậc giác ngộ khó nhận được. Tứ đại là đất nước gió lửa, thân này do bốn chất đó kết hợp lại thành. Đã bốn chất kết hợp thành, làm sao có chủ. Nói tứ đại là nghiêng về sắc thân, nói ngũ uẩn thì gồm cả thân và tâm. Sắc thuộc về thân, thọ tưởng hành thức thuộc về tâm.

Xét thân năm uẩn, đứng về mặt sắc chất nó không có chủ thể, không có ta. Đứng về tâm, thọ tưởng hành thức cũng không có chủ. Hai thứ thân và tâm đều không có chủ thể. Nói tâm tôi đang nghĩ thế này thế kia, đó đều là thọ tưởng hành thức mà ra. Thân và tâm chúng ta đang chấp đây đều không có chủ thể, không thậtchúng ta bám vào đó cho là thật. Ở đây có người nào can đảm dám nói tôi tin chắc thân này không phải tôi và tâm lăng xăng không phải tôi không? Chỉ nói tôi hiểu mang máng, tin sơ sơ vậy, chớ không dám tin chắc, không dám hiểu thật. Bởi vì không can đảm nhận nó giả dối, tạm bợ, cứ ngỡ nó là thật mình. Cho nên nghe nói nó giả dối tạm bợ đau lắm, không ai chịu nổi.

Người mê mà chỉ cái thật cho, họ chịu nhận không? Không chịu nhận. Họ không chịu nhận, người chỉ có buồn có giận không? Chỉ bao nhiêu lần, nhắc bao nhiêu phen mà cứ nói thật hoài, có tức không? Nếu phàm phu thì tức, còn Phật không tức. Phật thương chúng sanh ngu mê nhiều đời, nghe tai bên này lọt qua tai bên kia. Bởi vậy nên cứ lạy Phật khóc hoài, Phật làm sao được bây giờ.

Sáu căn, sáu trần, sáu thức hòa hợp sanh diệt cũng lại như vậy. Mười tám giới đã không thì tất cả đều không, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch. Mười tám giới tức sáu căn, sáu trần, sáu thức. Sáu căn là thân, sáu trần là cảnh, sáu thức là tâm. Ba cái này đều là nhân duyên hòa hợp, là tướng sanh diệt. Như vậy mười tám giới không thật, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch mới thật thôi. Mười tám giớinhân duyên hòa hợp mà sanh nên nó giả hợp, còn tâm thênh thang trong sạch đó biết được mười tám giới giả hợp, nó mới là thật, thênh thang, trong sạch. Biết sáu căn, sáu trần, sáu thức như vậy nhưng cả ngày chúng ta đuổi theo căn trần thức mà không chịu nhận ra cái chân thật của mình.

Chư Tổ rút gọn chỉ thẳng, nghe hơi khó hiểu nhưng thấm được thì thấy đơn giản vô cùng. Ngồi lại học lời giảng của chư Tổ thế này mới thấy ba tạng kinh quá nhiều công phu, còn ở đây thật là đơn giản. Các ngài đem hết tâm can chỉ thẳng cho mình thấy, không để chúng ta phải lang thang trong Tam Tạng giáo điển mất thời giờ. Đôi khi nhiều quá, rộng quá chúng ta không biết pháp nào chỉ thẳng cội nguồn cho mình nhận ra để tu.

Bây giờ làm sao cho ông Phật của mình hiển lộ ra? Chỉ vô tâm thì Phật hiển lộ thôi. Chỉ cần nỗ lực thực hiện đúng như lời chỉ thẳng của chư Tổ, nhất định chúng ta sẽ thành công.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11385)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11549)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13541)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14123)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10307)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10771)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11322)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11275)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11436)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10169)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9968)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10694)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11314)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42191)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10482)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11860)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10008)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10451)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10614)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45747)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32107)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11321)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10693)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11316)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10630)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13455)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12371)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11017)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10616)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12308)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11167)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11842)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29268)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9215)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10537)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10232)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10581)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10909)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10803)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32129)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27389)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17779)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11856)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12284)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10441)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11697)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10422)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10784)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10144)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10282)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10646)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10767)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11220)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10399)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11473)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18247)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10517)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12843)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11751)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29174)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28584)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28284)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13316)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11566)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13804)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25716)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26075)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22306)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14479)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12071)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11801)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33180)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31841)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12024)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22479)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11956)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14226)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13346)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12070)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10393)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11224)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13305)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34513)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12619)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12224)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13529)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12618)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12966)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16298)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11741)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27387)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28426)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant