Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A. Ngài Long Thọtư tưởng Tịnh Độ

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 15006)
A. Ngài Long Thọ và tư tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


II- TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA ẤN ĐỘ

Những người tu theo Đại Thừa không còn thắc mắc gì nữa là ba bộ kinh căn bản bên trên do ai nói và nói ra lúc nào, nói cho ai nghe v.v… Nhưng những giáo phái khác của Phật Giáo như Thiền Tông, Mật Tông v.v… cũng có thể đặt ra câu hỏi như vậy. Đó là chưa kể giáo pháp căn bản của Tiểu Thừa, ngay từ đầu đã không chấp nhận những kinh điển có vào thời sau khi Đức Phật nhập diệt; hoặc giả những kinh điển nào do các vị Tổ Sư nương theo giáo lý để san định thành. Đây là những điểm chính yếu khi nghiên cứu về tư tưởng Phật Giáo Đại ThừaTiểu Thừa cần phải lưu tâm.

Dĩ nhiên là không ai có thể nói kinh và luật; ngoại trừ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy thế, có những bộ kinh xuất hiện tại Trung Quốc về những thế kỷ sau nầy, không phải do Đức Phật nói ra, nhưng chư Tổ vẫn gọi là Kinh. Ví dụ như Kinh: Lương Hoàng Sám, Kinh Thủy Sám, Kinh Vu Lan Bồn v.v… Sở dĩ các nhà nghiên cứu Đại Thừa vẫn đồng ý như vậy; nhưng nội dung của những kinh điển nầy không đi ngược lại những gì mà Đức Phật đã dạy cho hàng Đệ Tử tại gia cũng như xuất gia; nên họ đã chấp nhận một cách tự nhiên không cần biện hộ hay lý giải gì nữa. Bởi vì những loại kinh điển như vậy không đi ngược lại luân lý, đạo đức xã hội của con người; nên phái Đại Chúng bộ có thể chấp nhận được.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, có tất cả 4 kỳ kết tập kinh điển quan trọng, kể từ sau 100 ngày, cho đến sau 500 năm. Tiếp theo những kỳ kết tập thứ 5 và thứ 6 là những lần kết tập ở vào những thế kỷ gần đây sẽ được đề cập sau.

Chúng ta biết rằng thời cổ đại xa xưa ấy vấn đề chữ viết không được thịnh hành như ngày nay, cũng như nền văn minh của khoa học chưa tiến bộ; cho nên tất cả đều phải qua việc truyền miệng. Lời Phật dạy cũng được các vị Thánh Đệ Tử của Đức Phật tập hợp lại trong thanh tịnh để làm nhiệm vụ trùng tuyên nầy. Chúng ta cũng không nghi ngờ gì về khả năng ghi nhớ lời dạy của Đức Phật từ các Ngài. Vì lẽ đa phần những vị tham dự 4 kỳ kết tập đầu, đều là những vị chứng quả A La Hán, có trí tuệ siêu việt, thần thông diệu vợi; không như chúng ta ngày nay, mặc dầu có khoa học trợ giúp mọi phương tiện, nhưng sự hiểu biết của chúng ta cũng chỉ nằm trong giới hạn của việc nhận thức, không là trí tuệ.

“Chữ Kết Tập hay Kiết Tập tiếng Phạn và Pali gọi là: Samgiti. Cũng gọi là Tập Pháp, Tập Pháp Tạng, Kết Kinh, Kết Điển Kết Tập, Hợp Tụng. Tức là các vị Tỳ Kheo cùng tụ họp ở một nơi để đọc tụng, chỉnh lý và biên tập những lời dạy của Đức Phật sau khi Ngài nhập diệt, nhằm xác định giáo quyền và phòng ngừa giáo pháp lâu ngày bị tán thất; nên gọi là Kết Tập.

 

Nội dung các cuộc kết tập như sau:

I.- Kết tập lần thứ nhất.

Cũng gọi là ngũ bá kết tập (500 vị kết tập). Ngũ bách tập pháp, Ngũ bách xuất.

Vào năm Đức Phật nhập diệt (624 trước Tây lịch) dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế, 500 vị A La Hán tập hợp trong hang Thất Diệp ở vùng ngoại ô thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà, tôn Ngài Ma Ha Ca Diếp làm Thượng Thủ, cử hành kết tập kinh điển lần thứ nhất.

Cứ theo luật ngũ phần quyển 30 và Luật Ma Ha Tăng Kỳ quyển 32, thì trong lần kết tập nầy Ngài A Nan tụng kinh (Tu Đa La hay Pháp Tạng), Ngài Ưu Ba Ly tụng luật (Tì Ni Tạng), sau đó, các bậc Trưởng Lão xem xét chỉnh lý rồi biên tập thành các kinh, luật. Thuyết nầy được các nhà sử học cho là tương đối đáng tin. Ngoài ra còn có các thuyết như sau:

1.- Kết tập 3 tạng: Kinh, Luật, Luận. Theo luật Tứ Phần quyển thứ 54, luật Thập Tụng quyển 60 và luận Đại Trí Độ quyển 2, thì Ngài A Nan tụng Kinh, Luận (A Tỳ Đàm tạng), Ngài Ưu Ba Ly tụng Luật. Còn Phó Pháp Tạng nhân duyên truyện quyển 1 thì cho rằng: Ngài A Nan tụng Kinh, Ngài Ưu Bà Ly tụng Luật, Ngài Ca Diếp tụng Luận. Nhưng theo các bộ Ca Diếp Đế Kinh, Soạn Tập Tam Tạng và Tập Tạng Truyện v.v… thì nói 3 Tạng đều do Ngài A Nan tụng ra.

2.- Kết tập 5 Tạng: Kinh, Luật, Luận, Tạp Tập và Cấm Chú.

Cứ theo Đại Đường Tây Vức Ký quyển 9 và bộ Chấp Di Luận Sớ thì khi Ngài Ca Diếp triệu tập 500 vị A La Hán cử hành kết tập lần thứ nhất, còn có vài trăm ngàn người suy tôn Ngài Bà Sư Ba làm Thượng Thủ, cử hành kết tập thành 5 Tạng, gọi là Quật ngoại kết tập (kết tập bên ngoài hang động), Đại chúng bộ kết tập để phân biệt với Quật nội kết tập (kết tập bên trong động). Thượng Tọa bộ kết tập của Ngài Ca Diếp. Nhưng đối với thuyết nầy, ý kiến giữa các học giả không giống nhau. Có người cho rằng thuyết nầy có lẽ đã do chúng Tăng Thượng Tọa bộ hư cấu ra sau khi các bộ phái phân hóa; cho nên không thừa nhận.

3.- Kết tập Kinh Đại Thừa.

Theo phẩm xuất kinh trong Kinh Bồ Tát xứ thai quyển 7, thì Tôn Giả Ca Diếp sai Ngài A Nan tụng các tạng Bồ Tát, Thanh Văn, Giới Luật v.v… gồm tất cả 8 tạng là: Thai hóa tạng, Trung ấm tạng, Ma Ha diễn phương đẳng tạng, Giới luật tạng, Thập trụ Bồ Tát tạng, Tạp tạng, Kim cương tạng và Phật tạng.

Ngoài ra, theo luận Đại Trí Độ quyển 100 và luận Kim cương tiên quyển 1, thì đồng thời với Ngài Ca Diếp kết tập 3 tạng Tiểu Thừanúi Kỳ Xà Quật, các Ngài Văn Thù, Di LặcA Nan cũng cùng nhau kết tập kinh điển Đại Thừa ở núi Thiết Vi, gọi là Thiết Vi Sơn Đại Thừa Kết Tập; nhưng đây có lẽ là truyền thuyết sau khi Phật Giáo Đại Thừa hưng khởi.

II.- Kết tập lần thứ hai.

Cũng gọi là thất bách kết tập (700 vị kết tập), Thất bách tập pháp, Đệ nhị tập pháp tạng, Đệ nhị tập. Lần kết tập nầy lấy luật tạng làm chính, xác định 10 việc mà các Tỳ Kheo thuộc chủng tộc Bạt Kỳ thực hànhtrái phép. (Sau Phật nhập diệt độ 100 năm).

III.- Kết tập lần thứ ba.

Sau khi Đức Phật nhập diệt độ 236 năm, dưới sự hộ trì của Vua A Dục, 1.000 vị Tỳ Kheo nhóm họp ở thành Hoa Thị nước Ma Kiệt Đà, tôn Ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu làm Thượng Thủ, cử hành kết tập lần thứ ba. Lần kết tập nầy lấy 3 tạng kinh, luật, luận làm chính. Ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu tự soạn bộ “Luận Sư” để phê bìnhbác bỏ những dị nghị tà thuyết của ngoại đạo đương thời. Sau khi kết tập, một số vị Tỳ Kheo đã được Đại Hội lựa chọn và phái đến những địa khu ngoài lưu vực sông Hằng và ngoài biên thùy Ấn Độ để truyền bá Phật Pháp.

Cuộc kết tập lần thứ nhất và thứ hai đều được lưu truyền ở các Phương Bắc và Phương Nam; nhưng cuộc kết tập lần thứ ba nầy chỉ được lưu truyền ở Phương Nam mà thôi.

IV.- Kết tập lần thứ tư.

Có hai thuyết: Bắc truyền và Nam truyền.

1.- Phật Giáo Bắc truyền: Có 2 thuyết:

a) Cứ theo Bà Tẩu Bàn Đậu pháp sư truyện chép, thì sau khi Đức Phật nhập diệt 500 năm, Ngài Ca Chiên Diên thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ đến nước Kế Tân ở Tây Bắc Ấn Độ triệu tập 500 vị A La Hán và 500 vị Bồ Tát tiến hành kết tập, Bồ Tát Mã Minh ghi chép và soạn thành Thuyết Nhất Thiết hữu bộ A Tỳ Đạt Ma Tỳ Bà Sa (tức luận Đại Tỳ Bà Sa) gồm 100 vạn bài tụng.

b) Theo Đại Đường Tây Vức Ký quyển 3, thì sau khi Đức Phật nhập diệt 400 năm dưới sự hộ trì của Vua Ca Nị Sắc Tra (Kaniska), 500 vị Tỳ Kheo nhóm họp ở nước Ca Thấp Di La (Kasmir = Kế Đàn) suy tôn các Ngài Hiếp Tôn Giả (Parsva) và Thế Hữu (Vasumitra) làm Thượng Thủ, tạo luận giải thích 3 tạng. Trước hết tạp luận Ô Ba Đệ Thước 10 vạn bài tụng, giải thích tạng Tố Đát Lấm (Tạng Kinh); kế đến, tạo luận Tỳ Nại Da Tỳ Bà Sa 10 vạn bài tụng giải thích Tỳ Nại Da (Tạng Luật), sau cùng tạo luận A Tỳ Đạt Ma Tỳ Bà Sa 10 vạn bài tụng, giải thích A Tỳ Đạt Ma (Tạng Luận). Tất cả gồm 30 vạn bài tụng, 960 vạn lời, Vua Ca Nị Sắc Ca cho đàn mỏng đồng đỏ thành từng lá để khắc các bộ luận nói trên, rồi cất trong hòm đá và xây tháp để thờ.

Trong hai thuyết trên đây, thuyết của Đại Đường Tây Vức Ký đáng tin hơn; tuy nhiên Phật Giáo Nam Truyền thì hoài nghi.

2.- Phật Giáo Thượng Tọa Bộ Nam Truyền.

Theo Đại Sử, v.v… thì cuộc kết tập lần thứ 4 được cử hành trong động A Lô Ca ở thôn Mạc Đặc Liệt tại nước Tích Lan vào thời vua Bà Tha Già Mã Ni (Vattagamani) do Đại Thượng Tọa La Hi Đa chủ trì có 500 vị Tỳ Kheo tham dự. Trong hội đã tụng 3 tạng của Phật Giáo Thượng Tọa Bộ, sửa chữa các sách chú thích về 3 tạng, sắp đặt lại thứ tự các kinh điển, viết thành bộ Tam Tạng đầu tiên bằng tiếng Pali và các bản chú thích bằng tiếng Tăng Già La (Singhalese = tiếng Tích Lan).

V.- Kết tập lần thứ năm.

Theo chương thứ 6 trong giáo sử tiếng Pali và lịch sử Miến Đìện… thì vào năm 1871, vua nước Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon, ở ngôi 1853-1878) đã triệu tập 2.400 vị Cao Tăng, cử hành kết tập 3 tạng lần thứ 5 ở thủ đô Mạn Đức Lặc (Mandalay). Lần kết tập nầy lấy tạng Luật làm chủ yếu, hiệu đính đối chiếu chỗ đồng dị, trong nguyên văn Thánh Điển, cùng nhau hợp tụng suốt 5 tháng mới hoàn thành. Rồi đem toàn bộ văn tự của ba tạng đã kết tập khắc trên 729 phiến đá hoa đại lý hình vuông, dựng trong chùa tháp Câu Thu Đà (Kuthodaw) ở chân núi Mạn Đức Lặc; phía ngoài có 45 ngôi tháp Phật vây quanh, hiện nay vẫn còn ở cố đô Mạn Đức Lặc.

VI.- Kết tập lần thứ sáu.

Vào ngày 17 tháng 5 năm 1954, tức ngày Phật Đản (Vesak Day, ngày Phật Giáo Thế Giới) dưới sự giúp đỡ của nhà nước, Phật Giáo Miến Điện cử hành kết tập lần thứ sáu. Ý nghĩa của kỳ kết tập lần nầy là đoàn kết Phật Giáo đồ, đẩy mạnh sự phát triển Phật Giáo Thượng Tọa bộ, đề cao địa vị của nước Miến Điện độc lập. Địa điểm kết tập là trên sườn núi Nghệ Cố thuộc vùng ngoại ô phía Bắc thủ đô Ngưỡng Quang (Rangoon) của Miến Điện, được kiến trúc phỏng theo hang Thất Diệp nơi cử hành kết tập lần thứ nhất tại Ấn Độ. Lần kết tập nầy lấy văn bản được khắc trên 729 phiến đá hoa đại lý của lần kết tập thứ năm làm chỗ y cứ; đồng thời xử dụng tất cả các loại bản in tiếng Pali của “Hiệp Hội Thánh Điển Pali” ở Tích Lan, Thái Lan, Cao Miên, Luân Đôn và Miến Điện để khảo đích một cách rõ ràng tỉ mỉ. Sau khi kết tập hoàn thành, toàn bộ văn bản được ấn hành để lưu thông. Lần kết tập nầy, ngoài các vị Tỳ Kheo thuộc các nước Phật Giáo Nam Truyền, các vị Tỳ Kheo của các nước Phật Giáo Bắc Truyền cũng được mời tham dự, ròng rã hơn 2 năm, đến ngày lễ Vesak năm 1956 (Phật lịch 2.500) mới hoàn thành.

(Xem. Kinh Phật Ban Mê Hoàn quyển hạ; kinh Phúc Cái chánh hạnh sở tập quyển 3; Cao tăng Pháp Hiển truyện; Đại Thừa Pháp Uyển nghĩa lâm chương quyển 2 phần đầu; Tứ phần luật hành sự sao tư trì ký quyển trung phần 1 đoạn 2; Nguyên Thủy Phật Giáo Thánh Điển chi tập thành (Ấn Thuận). A Tỳ Đạt Ma luận nghiên cứu). (Xem tiếp Thập Sự Phi Pháp). (Trích Phật Quang Đại Từ Điển do Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch từ trang 2409 đến 2411).

Như vậy 4 kỳ kết tập đầu, sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt trong thời gian từ 400 đến 500 năm là quan trọng nhất. Vì lẽ lúc ấy chưa có chữ viết rõ ràng. Mãi cho đến kỳ kết tập lần thứ 4 thì văn hệ Pali đã rõ nét cũng như Phạn văn. Kỳ kết tập thứ tư có hai thuyết chúng ta cũng có thể chấp nhận được. Đó là Phật Giáo Bắc Truyền cho rằng kỳ kết tập nầy được tổ chức tại xứ Kasmir, thuộc miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Còn Phật Giáo Nam Truyền thì cho rằng kỳ kết tập lần thứ tư nầy xảy ra vào năm 85 trước Tây Lịch, văn tự tiếng Pali đã hình thành và nơi kết tập là xứ Tích Lan.

Cả hai truyền phái đều có lý cả. Vì lẽ tinh thần Đại Thừa được chuyển hướng qua phương Bắc Ấn Độ và từ đó mới tiếp tục được truyền sang Trung Hoa, Mông Cổ, Việt Nam, Đại HànNhật Bản. Thuở ấy vào thế kỷ thứ 1 và thứ 2 Tây Lịch đã có các Đại Luận Sư nổi tiếng của Đại Thừa như Ngài Vô Trước, Thế Thân, Mã Minh, Long Thọ v.v… và tinh thần Duy Thức cũng như Trung Quán Luận, Bát Nhã, Tánh Không đã được phát triển một cách mạnh mẽ. Do vậy kỳ kết tập lần thứ 4 nầy cũng có thể nằm ở ngoài xứ Ấn Độ; chứ không nhất thiết là nằm trong xứ Ấn Độ.

Sau khi Vua A Dục quy ngưỡng Phật Pháp, Ngài đã cho 2 người con là Công Chúa Sanghamitta và Hoàng Tử Mahinda xuất gia và chính hai vị nầy đã mang cây Bồ Đề cũng như giáo lý Nam Truyền đến đảo quốc Tích Lan vào thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch và Đảo Sử cũng như Đại Sử vẫn còn ghi rõ sự truyền bá nầy. Sau kỳ kết tập kinh điển lần thứ 3, chư Tăng theo sự yêu cầu của Vua A Dục, đã được gởi ra ngoài nước Ấn Độ 1000 vị đi về Trung Đông và Bắc Ấn cũng như các xứ Nam Phương khác để truyền đạo. Cho nên kỳ kết tập lần thứ tư theo sử bộ Nam Truyền cho rằng được hình thành tại Tích Lan, cũng là đìều có thể xảy ra. Vì Phật Giáo đã truyền vào Tích Lan lúc ấy đã hơn 100 năm rồi. Hoặc giả có 2 lần thứ tư được kết tập. Những vị nào thuộc Đại Chúng bộ thì đi về hướng Kasmir và những vị nào thuộc Thượng Tọa bộ thì đi về hướng Tích Lan. Đây là một giả thuyếttác giả sách nầy trộm nghĩ như vậy, đúng sai xin các bậc cao minh chỉ giáo.


A.- Ngài Long ThọTư Tưởng Tịnh Độ

Các nhà sử học Phật Giáo Âu Mỹ, sau khi nghiên cứu kỹ càng về sự phát triển Phật Giáo thời Vua A Dục (trước Tây Lịch vào thế kỷ thứ 3) thì cho rằng: Thuở ấy Phật Giáo đã truyền đến cả Trung Âu như Iran (Ba Tư); xứ ngàn lẻ một đêm; xứ Irak và ngay cả các xứ Bắc Phi như Ai Cập, Alexandria v.v… Gần đây có nhà học giả Đức Holger Kersten, thuộc Đại Học Freiburg có viết quyển bằng tiếng Đức nhan đề là “Jesus lebte 6 Jahre in Indien” (Jesus đã sống 6 năm tại Ấn Độ). Đây là một quyển sách có hình ảnh rõ ràng và được nhiều học giả cũng như khảo cổ học người Đức tin tưởng qua chứng cứ hình ảnh và sử liệu mà ông ta đã nêu ra.

Cuộc đời của Chúa có 12 năm không ghi rõ ràng trong Thánh Kinh. Theo ông Holger Kersten Đức Chúa thuở đó từ Israel đi sang xứ Alexandria để tỵ nạn và thuở ấy đoàn truyền giáo của Vua A Dục đã phát triển Phật Giáo tại đây; nên chư Tăng đã mang Đức Chúa về Ấn Độ và Đức Chúa Jesus đã học đạo tại Vanarasi 6 năm. Đây có thể cũng là một giả thuyết, mà cũng có thể là một sự thật mà người Thiên Chúa chưa sẵn sàng chấp nhận. Ông ta còn phân tích những câu chuyện như: Bà già và 2 quan tiền trong Thánh Kinh được sao chép lại từ Kinh Pháp Cú v.v… Chiếc áo mà Đức Chúa đang mặc cũng có liên hệ với Phật Giáo. Quả thật là một phát hiện mới lạ. Hãy cứ chờ xem từ nhiều phản ứngnghiên cứu để chúng ta có được những sử liệu cần thiết về sau nầy.

Ba Tư là xứ theo Bái Hỏa Giáo (Đạo thờ Thần Lửa); cho nên khi Đạo Phật được truyền vào đây vào thế kỷ thứ 3, thứ 2 trước Tây Lịch cũng phải chấp nhận Tôn Giáo vốn đã có sẵn tại bản địa nầy. Đây là tinh thần tôn trọng các tư tưởng khác; ngoài giáo điều của Tôn Giáo mình.

Theo Pháp Sư Ấn Thuận (người Trung Hoa) thì Phật Giáo Tịnh Độ bị ảnh hưởng bởi Đạo Bái Hỏa Giáo nầy. Mới đây (2011) khi chúng tôi dịch tác phẩm bằng tiếng Đức nhan đề là: Quellentexte des Japanischen Amida Buddhismus” (Những bản văn căn bản của Phật Giáo Di Đà (Tịnh Độ) Nhật Bản) của học giả Christian Steineck cũng quan niệm giống như Ngài Ấn Thuận vậy. Nghĩa là ông ta cho rằng: “Quan niệm về một cõi Phương Tây và một vị giáo chủthần lực như vậy là có sự ảnh hưởng của Bái Hỏa Giáo của Ba Tư”.

Đây có thể là những quan niệm về cũ, mới, Đông, Tây đã được hình thành qua các hệ tư tưởng khác nhau, cũng như qua tam tạng Thánh Điển. Vì thế cho nên chúng ta thấy vòng hào quang của Đức Phật A Di Đà giống như là những vòng lửa bao bọc chung quanh Ngài.

Từ Ba Tư di chuyển trở lại Ấn Độ và mấy trăm năm sau, Ngài Long Thọ mới ra đời để chủ trương về Trung Quán Luận; nhưng theo Phật Giáo Tịnh Độ Tông Nhật Bản căn cứ vào “Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận” của Ngài Long Thọ; nên cho rằng Ngài là vị Sơ Tổ Tịnh Độ Tông của Nhật Bản và cả Trung Hoa nữa.

Long Thọ hay Long Thụ tiếng Phạn gọi là Nagarjuna. Hán âm: Na Già Ứ Lạt Thụi Na, Na Già A Chu Đà Na. Cũng gọi là Long Mãnh hay Long Thắng.

 Tổ khai sáng của học phái Trung Quán thuộc Phật Giáo Đại ThừaẤn Độ, sanh vào khoảng thế kỷ thứ 2, thứ 3, thuộc dòng dõi Bà La Môn, Nam Ấn Độ.

Từ nhỏ Ngài đã thông minh đĩnh ngộ, học 4 Phệ Đà, thiên văn, địa lý, sấm vĩ, bí tạng và các đạo thuật đều thông suốt. Ngài từng cùng với 3 người bạn thân học phép tàng hình, lén vào cung vua chơi bời. Việc bại lộ, 3 người bạn bị vua chém đầu, riêng Ngài thoát khỏi. Do việc nầy, Ngài cảm ngộ, ái dục là gốc của sự đau khổ, liền vào núi đến trước tháp Phật xuất gia thọ giới.

Sau khi xuất gia, Ngài nghiên cứu tam tạng; nhưng thấy chưa đủ, lại đến núi Hy Mã Lạp Sơn, gặp một lão Tỳ Kheo trao cho Kinh Điển Đại Thừa, mặc dầu biết thực nghĩa nhưng chưa thông suốt. Lại vì Ngài từng phá giáo nghĩa của luận sư ngoại đạo; nên sinh tâm tà mạng, tự đặt ra giáo mới, mặc áo mới, ở riêng trong căn phòng thủy tinh tĩnh mịch. Bấy giờ có Bồ Tát Đại Long, thấy vậy thương xót, bèn dẫn Ngài vào long cung trao cho vô lượng kinh điển Đại Thừa, Ngài thấu hiểu hết giáo lý.

Bấy giờ, vua Nam Thiên Trúc tin theo Bà La Môn giáo, công kích Phật Giáo, Ngài đến đó giáo hóa, khiến vua bỏ tín ngưỡng Bà La Môn giáoquy y Phật Giáo. Từ đó về sau, Ngài tận lực hoằng pháp, soạn các sách để chú thích kinh điển Đại Thừa, thiết lập hệ thống giáo điển Đại Thừa, khiến cho học thuyết “Bát Nhã tánh không” được truyền bá rộng khắp trên toàn cõi Ấn Độ. Về già, Ngài trụ ở núi Hắc Phong thuộc miền Nam Ấn Độ, Ngài có người đệ tử tên Đề Bà.

Sự tích về Ngài Long Thọ theo Tây Tạng truyền có nhiều chỗ khác nhau với những điều được trình bày ở trên. Chẳng hạn như trong quyển “Thất Cao Tăng” (7 vị Cao Tăng) tiếng Tây Tạng, tác giả Đa La Na Tha nói rằng: Ngài Long Thọ từng tu tập các loại Thành Tựu (Tất Địa) như: Vô Lượng Thọ Đà La Ni, Thành Tựu Đại Không Tước Nữ, Cửu Dạ Xoa v.v… khiến cho con gái của Long Vương Đức Xoa Caquyến thuộc xây dựng chùa, tháp… Về sau, Ngài và các Nữ Dạ Xoa ở núi Cát Tường cùng tu Đát Đặc La v.v… Còn có thuyết cho rằng Ngài từng dùng 7 hạt cải trắng mở tháp sắt ở Nam Ấn Độ, lấy được Kinh Kim Cương Đính. Đại khái những truyện trên đây đều là truyền thuyết của đời sau mang nặng sắc thái Mật Giáo.

Về niên đại xuất thế của Ngài cũng có các thuyết khác nhau:

1.- Theo bài tựa của Luận Đại Trí Độ của Ngài Tăng Duệ và các bài tựa Đại Trí Luận sao của Ngài Lô Sơn Tuệ Viễn (chép trong Xuất Tam Tạng ký tập quyển 10) thì Ngài ra đời khoảng 900 năm sau khi Đức Phật nhập diệt (khoảng năm 276 sau Tây lịch).

2.- Theo Bách Luận Sớ quyển thượng, Ngài sinh vào khoảng 530 năm sau khi Đức Phật nhập diệt (năm 94 trước Tây lịch).

3.- Theo Tam Luận Du ý nghĩa, Nhị Giáo luận của Ngài Đạo An, Long Thọ Bồ Tát truyện v.v… thì Ngài ra đời vào khoảng 880 năm (256 sau Tây lịch) sau khi Đức Phật nhập diệt, tức là vào giữa thế kỷ thứ 3 Tây lịch. Các học giả hiện đại như PhápẤn Thuận, v.v… phần nhiều theo giả thuyết thứ 3.

Còn về việc nhập diệt của Ngài, theo Long Thọ Bồ Tát truyện, có một Pháp Sư Tiểu Thừa, vì ganh ghét, không muốn thấy Ngài sống lâu, Ngài biết được điều ấy liền vào tịnh thất thoát xác mà đi.

Theo điều Kiều Tát La Quốc trong Đại Đường Tây Vức Ký quyển 10, thì vua nước nầy là Sa Đa Bà Ha quy y với Ngài, Ngài đem diệu dược tặng cho, 2 người cùng sống lâu không suy yếu. Con vua muốn lên ngôi sớm; nên thỉnh Ngài tự tận, Ngài dùng lá cỏ tranh khô tự cắt cổ chết, vua quá buồn rầu thương tiếc, nên không bao lâu cũng chết theo.

Về tuổi thọ của Ngài, theo Thập Nhị Môn Luận Tông Trí Nghĩa Ký quyển thượng và Pháp Uyển Châu Lâm quyển 53, thì Ngài thọ đến 100 tuổi, thuyết nầy khó tin. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào điều Triêu Trước Xỉ Mộc trong Nam Hải Ký quy nội pháp truyện quyển 1 và các sách khác nói về việc Ngài chuyên về thuật trường sinhsuy đoán, thì tuổi thọ của Ngài cũng có thể ở mức 100 tuổi trở lên.

Về tên tiếng Phạn và tên dịch của Ngài, theo Long Thọ Bồ Tát truyện, Đại Đường Tây Vức Ký quyển 8, Thập Nhị Môn Luận Tông Trí Nghĩa Ký quyển thượng, kinh Bồ Đề Hạnh, Trung Luận thích của Ngài Nguyệt Xứng, Bát Nhã thích của Ngài Sư Tử Hiền, v.v… đều ghi tên Phạn của Ngài là Nagarjuna. Nhưng kinh Nhập Lăng Già bằng tiếng Phạn thì ghi tên Phạn của Ngài là Nagahvaya, phải dịch là Long Khiếu, Long Mãnh, Long Danh. Nhưng trong chương 17 trong Ấn Độ Phật Giáo sử của Đa La Na Tha thì cho rằng Long Thọ và Long Khiếu là hai người khác. Long Khiếu và Đề Bà (Đệ tử của Ngài Long Thọ) là người đồng thời đại, trụ ở chùa Na Lan Đà.

Trong tác phẩm “Không Chí Thám Cứu” chương 4, phần 1, Pháp Sư Ấn Thuận căn cứ vào thuyết trên, cho rằng Long Khiếu (hoặc Long Mãnh) không phải là Long Thọ; niên đại muộn hơn so với niên đại Ngài Long Thọ, có thể vào thời đại vua Chiên Đà La Cấp Đa (từ 320 sau Tây Lịch).

Ngoài ra, Ngài còn là Tổ Phó Pháp Tạng thứ 13 của Thiền Tông Ấn Độ, đồng thời, tại Trung QuốcNhật Bản xưa nay Ngài cũng được suy tôn làm Tổ của 8 Tông (Chú thích: trong đó có Tịnh Độ Tông, theo chủ trương Tông Tịnh Độ của Nhật).

Ngài có các tác phẩm: Trung Luận tụng, Thập Nhị Môn luận, Không Thất Thập luận, Lục Thập tụng như lý luận, Đại Thừa phó hữu luận, Đại Trí Độ luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận, Đại Thừa Nhị Thập tụng luận; Bồ Đề Tư Lương luận (Chú thích: Tác phẩm nầy tác giả đã dịch ra Việt Ngữ), Bảo Hành Vương chánh luận, Nhân Duyên Tâm luận tụng, Bồ Đề Tâm Ly Tướng luận (đã dịch ra Việt ngữ), Phước Cái Chánh Hạnh Sở Tập kinh (đã dịch ra Việt ngữ), Tán Pháp giới tụng, Quảng Đại Phát Nguyện tụng (Chú thích của tác giả: Đa phần những luận nầy nằm trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, đã được chính tác giả dịch từ Hán văn và Việt ngữ có đăng trên Website của viengiac.de phần dịch thuật).

(Xem kinh Nhập Lăng Già quyển 9; Đại Thừa huyền luận quyển 5; Hoa Nghiêm kinh truyện ký quyển 5; Phó Pháp Tạng nhân duyên truyện quyển 5; Truyền Pháp Chánh Tông ký quyển 3; Phật Tổ thống ký quyển 5; Pháp Uyển châu lâm quyển 38; The life of Nagajuna from Tibetan and Chinese Sources (M. Walleser).

(Trích từ Phật Quang Đại Tự Điển trang 2837 đến trang 2839).

Xem qua tiểu sử của Ngài Long Thọ, mặc dầu niên đại vãng sanh của Ngài có đôi điều sai khác về năm sanh; nhưng Ngài là một vị Tổ Sư của Đại Thừa gồm 8 Tông Phái khác nhau. Từ Mật Tông cho đến Thiền Tông, Trung Quán, Hoa Nghiêmcho đến Tịnh Độ nữa. Quả Ngài là bậc xuất trần thượng sĩ, ra đời nhằm cứu độ chúng sanh và giúp cho chúng sanh tỏ ngộ; đồng thời Ngài cũng đã tuyên dương giáo nghĩa Đại Thừa để bát bỏ những giáo nghĩa khác của Bà La Môn giáo và những tà thuật khác.

Như vậy kể từ thời kỳ sau Đức Phật nhập diệt gần 800 năm ấy (624 trước Tây lịch + 256 hoặc 276 năm sau Tây lịch thành 800 năm) không có một vị Tổ Sư nào chấn hưng pháp môn Tịnh Độ; trong khi đó Thiền Tông thì được truyền liên tục từ Sơ Tổ Ca Diếp đến Ngài Long Thọ là 13 đời. Trong 800 năm ấy biết bao nhiêu là phế hưng của lịch sửbộ phái chia cắt trong nội bộ của Tăng Đoàn, từ Ấn Độ đến Kasmir và Ba Tư. Có lẽ trong thời gian nầy phải nói là thời gian tranh chấp của Bộ Phái. Cho đến sau thời của Ngài Long Thọ vào thế kỷ thứ 3 thì tính cách bộ phái mới được rõ rệt và Tịnh Độ Tông của Nhật Bản, bắt đầu từ thế kỷ thứ 13 cũng đã căn cứ vào Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của Ngài Long Thọ trước tác mà tôn vinh Ngài là Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản. Ở đây cũng xin mở dấu ngoặc để cho các Phật Tử Việt Nam chúng ta được tường rằng: Nếu Nhật Bản chấp nhận như vậy được thì Việt Nam chúng ta cũng có thể chấp nhận Ngài là Sơ Tổ Tịnh Độ Tông của Việt Nam một cách dễ dàng. Từ đó chúng ta sẽ nối kết việc truyền thừa về sau nầy ở quê hương Đại Việt cũng không khó mấy.

“Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận tiếng Phạn gọi là Dasabhamika–Vibhàsa–sastra. Gọi tắt là: Thập Trụ Luận. Luận nầy có 17 quyển, do Bồ Tát Long Thọ soạn, Ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đời Hậu Tần, được thu vào Đại Chánh tạng tập 26.

Nội dung luận nầy giải thích đại ý phẩm Thập Địa (Kinh Thập Địa) trong Kinh Hoa Nghiêm. Trong bản Hán dịch, Ngài La Thập gọi Thập ĐịaThập Trụ. Thập Địa là chỉ cho 19 giai đoạn tu đạo của hàng Bồ Tát Đại Thừa. Nhưng Ngài Long Thọ chưa chú thích hoàn chỉnh kinh Thập Địa, mà chỉ mới chú thích Sơ Địa (Hoan Hỷ Địa) và một nửa địa thứ 2 (Ly cấu địa), đây vì nguyên điển không đủ, hay vì phiên dịch chưa hoàn thành?

“Phẩm tựa của luận nầy trước nói về Bồ Tát, sau đó trình bày ý nghĩa của Thập Địaphân biệt Tam Thừa. Toàn văn chia làm 35 chương (phẩm); từ chương 1 đến chương 27 lược hành là chú thích Sơ Địa; từ chương 28 trở đi mới nói về Địa thứ 2. Phần Sơ Địa thì trước thuyết minh về nội dung Hoan Hỷ Địa, kế đó nói về lý tưởng (nguyện), thực tiễn (hành) và quả báo (quả) của Bồ Tát. Đến Địa thứ hai thì tận lực trình bày về tính chất quan trọng của 10 tâm phương tiện, đồng thời nói rõ về Thập Thiện nghiệp đạo của Bồ Tát Đại Thừa, Phẩm dị hành trong thiên thứ 9 thuộc 35 chương của luận nầy là phần trọng yếu của pháp môn Tịnh Độ”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 5573).

Đây là một đại tác phẩm của Ngài Long Thọ mà tiếc rằng ngày nay chúng ta chỉ mới tham cứu được có 2 Địa trong 10 Địa trong kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên đến nửa Địa thứ 2, Ngài Long Thọ đã giúp cho hành giả tu theo pháp môn Tịnh Độ về việc dị hành (dễ thực hiện) và nan hành (khó thực hiện); để từ đó hành giả tu theo Pháp Môn Tịnh Độ có cơ sở mà thực hành.

“Dị hành nghĩa là dễ làm; đối lại với nan hành (khó làm). Nghĩa là trong 2 pháp tu Nan hànhDị hành để đạt đến giai vị không trở lui, thì Dị hành là pháp tu mau được mà dễ thực hiện.

Ngài Long Thọ cho rằng pháp tu xưng niệm danh hiệu Phật là không trở lui, mau thành mà dễ làm; nhưng tu pháp nầy, điều kiện tiên quyết là phải có lòng tin vững mạnh.

Vãng Sanh luận chú quyển thượng của Đàm Loan (Đại 40, 826 trung) nói: Dị hành đạo, nghĩa là chỉ có nhân duyên tin Phật, phát nguyện vãng sanh, nương nhờ nguyện lực của Phật, được sanh về cõi thanh tịnh”.

Tông Tịnh Độ nhật Bản cho rằng xưng niệm danh hiệu Phật với đầy đủ 3 tâm (trực tâm, thâm tâmhồi hướng phát nguyện tâm) là Dị hành; Chân Ngôn Tông thì không những cho niệm danh hiệu Phật là Dị hành mà còn cho niệm danh hiệu với niềm tin sâu xa vào tha lực hồi hướng của Phật A Di Đà cũng là Dị hành”. (Xem Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa quyển 5 phẩm Dị hành). (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 1247).

Như vậy, chúng ta thấy rằng: Pháp môn xưng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đã có sẵn trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà và nhờ chính bổn nguyện lực của Ngài mà chúng sanh có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc một cách đương nhiên và dễ hơn các pháp môn khác. Nơi đây trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận, Ngài Long Thọ muốn nhắc nhở lại cho chúng sanh đời sau y cứ vào kinh Hoa Nghiêm cũng như 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà để được dễ dàng vãng sanh về thế giới Tịnh Độ.

Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Phổ Hiền thứ 81 qua 10 Đại Nguyện của Ngài Phổ Hiền, chúng ta cũng thấy rằng ở Đại Nguyện thứ 10 sau khi Ngài hồi hướng đến tất cả pháp giới chúng sanh thì Ngài cũng đã phát đại nguyện rằng: Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Đà; tức đắc vãng sanh an lạc sát (Nghĩa: Nguyện con khi đến lúc lâm chung, dứt sạch tất cả những chướng ngại, đối mặt Đức Phật A Di Đà; liền được vãng sanh cõi Cực Lạc).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9799)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9965)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9943)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20531)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10362)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9970)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10356)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9943)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34437)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9638)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8718)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9288)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11109)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8532)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9810)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9188)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20464)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19208)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8766)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8877)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12119)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9610)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23016)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9012)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9275)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9978)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9909)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10634)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10937)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12496)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9353)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9208)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9329)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10461)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22020)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22268)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16622)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9551)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10218)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8408)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8294)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9459)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8845)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8638)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12277)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9142)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9618)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8625)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9468)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8637)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8372)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8491)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10196)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23647)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9588)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9421)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9015)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8357)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8538)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7895)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7985)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8811)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8943)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10077)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8648)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8638)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30428)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30109)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24192)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9280)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9650)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9524)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9517)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7865)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9083)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28239)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23742)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12255)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8895)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14251)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9666)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9358)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9660)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30924)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27137)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32742)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34025)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27776)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10584)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12479)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58733)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10671)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9413)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9575)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13955)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14227)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10775)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28183)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23297)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant