Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

C. Ngài Thiện ĐạoTư Tưởng Tịnh Độ

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 15376)
C. Ngài Thiện Đạo và Tư Tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


III. TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA TRUNG HOA

C.- Ngài Thiện ĐạoTư Tưởng Tịnh Độ

Ngài Thiện Đạo sinh năm 613 và viên tịch năm 681, là Cao Tăng Trung Quốc, sống vào đời nhà Đường, người huyện Lâm Chung, tỉnh Sơn Đông (có thuyết nói người ở Hu Di, tỉnh An Huy), họ Chu, hiệu Chung Nam Đại Sư. Sư là Tổ thứ 3 của Tông Tịnh Độ; cũng chính là người tập đại thành phái Đàm Loan, Đạo Xước thuộc Tông Tịnh Độ.

Lúc tuổi nhỏ, Sư theo Ngài Minh Thắng ở Mật Châu xuất gia, tụng các kinh Pháp Hoa, Duy Ma… Sau Sư được đọc kinh Quán Vô Lượng Thọ, vui buồn lẫn lộn; Sư liền tu tập 16 pháp quán nói trong kinh nầy.

Năm Trinh Quán thứ 15 (641) đời vua Thái Tông nhà Đường, Sư đến chùa Huyền Trang ở Hà Tây yết kiến Ngài Đạo Xước, tu học Phương Đẳng sám pháp và nghe giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ. Từ đó về sau, Sư chuyên việc niệm Phật, dốc lòng tinh tấn, khổ hạnh, chứng được Niệm Phật Tam Muội; ở trong định thấy được cảnh trang nghiêm của Tịnh Độ. Về sau, Sư vào Trường An trụ ở chùa Quang Minh, truyền bá pháp môn Tịnh Độ. Sư hành trì tinh nghiêm, hằng ngày chắp tay ngồi theo kiểu của người Hồ (người các nước Tây Vực), nhất tâm niệm Phật đến khi mỏi mệt mới thôi.

Trong hơn 30 năm, Sư không có chỗ ngủ nhất định nào khác, không nhận sự lễ bái của Sa Di. Sư dùng của cúng dường vào việc viết chép 10 vạn quyển kinh A Di Đà và vẽ 300 bức tranh Tịnh Độ biến tướng, sửa chùa, làm lại các tháp miếu, già lam đã hư hoại. Sư đi hóa độ ở các châu, mọi người đều ngưỡng mộ đức của Sư; hoặc có người tụng kinh A Di Đà 10 vạn đến 30 vạn biến; hoặc có người trong thời khóa hàng ngày xưng danh hiệu Phật A Di Đà từ 1 vạn đến 10 vạn biến; hoặc có người chứng được Niệm Phật Tam Muộivãng sanh Tịnh Độ.

 Ngày 14 tháng 3 năm Vĩnh Long thứ 2 (681) Sư thị tịch, thọ 69 tuổi; Đệ tử có các vị Hoài Cảm, Hoài Huy, Tịnh Nghiệp…

Sư có các tác phẩm: Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ 4 quyển; Tịnh Độ pháp sự tán 2 quyển; Quán Niệm Pháp Môn 1 quyển; Vãng Sanh lễ tán kệ 1 quyển; Bát Chu tán 1 quyển; Ngũ Chủng tăng thượng duyên nghĩa 1 quyển. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 5826-5827).

(Xem Tục Cao Tăng truyện quyển 27; Vãng Sanh Tịnh Độ thụy ý san truyện; Niệm Phật kinh; Phật Tổ thắng ký quyển 26, 27; Tịnh Độ Vãng Sanh truyện quyển trung; Long Thư tăng quảng Tịnh Độ văn quyển 5; Lạc Bang văn loại quyển 2; Thần tăng truyện quyển 5; Vãng Sanh tập quyển thượng; Thích Thi kệ cổ lược quyển 3; Tịnh Độ Thánh Hiền lục quyển 2; Loại tụ Tịnh Độ Ngũ Tổ truyện; Kim Thạch tụng biên 73, 86).

Thời nhà Đường là thời văn hóa Phật Giáo được phát triển mạnh. Các loại kinh điển được phiên dịch chú giải ra tiếng Trung Hoa rất nhiều; nhất là cuộc đời của Ngài Thiện Đạo lại sinh ra cùng thời với Ngài Huyền Trang. Sau khi Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh về (645) và chú dịch tại Trường An, Ngài Thiện Đạo vẫn còn tại thế và đang hành trì Pháp môn niệm Phật; bằng cách mỗi ngày niệm Phật nhiều lần cũng như viết kinh, dịch sách. Kinh A Di Đà không dài; tuy nhiên chép tay 10 vạn quyển (tức là 100.000 bản) thời ấy phải cần rất nhiều thời gian. Vì ngày ấy không có máy in, ấn, sang chụp như ngày nay. Như vậy so ra ý chí của người xưa và người nay khác nhau một trời một vực.

Trong Tiểu Sử của Ngài cũng được cho biết rằng: Nếu Ngài có được của cúng dường thì thường đem đi sửa chùa, vẽ tranh, chép kinh để tán phát cho mọi người theo tu pháp môn Tịnh Độ. Đồng thời trong 30 năm hành đạo không có chỗ nghỉ ngơi nhất định và không nhận sự lễ bái của Sa Di. Quả là một công hạnh cao tột; do vậy sau nầy Tịnh Độ Tông Nhật Bản mới sắp đặt và cung thỉnh Ngài ở vào vị Tổ Sư Tịnh Độ thứ 5 (kể từ Ấn Độ) và đặc biệt chuyên tâm hành trì lễ bái lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà. Sau nầy, vào thế kỷ thứ 13 ở tại Nhật và ngay cả ngày nay tại Việt Nam, đa phần những người tu theo Pháp môn Tịnh Độ đều thực hành các lời nguyện quan trọng 18, 19, 20 nầy.

Tư tưởng là những gì được cấu thành bởi sự hành trì tu tập một pháp môn mà mình đã trải qua. Do vậy những trứ tác tiêu biểu của một vị Tổ Sư, một vị Đại Sư chính là tư tưởng tiêu biểu của vị ấy. Sau đây chúng ta thử tìm hiểu một vài tác phẩm của Ngài Thiện Đạo viết về Tịnh Độ.

“Vãng sanh lễ tán kệ gọi cho đủ là Khuyến nhứt thiết chúng sanh nguyện sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật quốc lục thời lễ tán kệ”.

Cũng gọi là: Lục thời lễ tán kệ, Vãng sanh lễ tán, Lễ tán.

Tác phẩm nầy gồm một quyển, do Ngài Thiện Đạo soạn vào đời Đường, được thu vào Đại Chánh tạng tập 47.

Soạn giả dùng kệ lễ tán của các Ngài Long Thọ, Thế Thân làm nền tảng mà định ra pháp 6 thời lễ tán, tức vào 6 thời: Lúc mặt trời lặn, đầu hôm, nửa đêm, cuối đêm, sáng sớm và giữa trưa… thực hành lễ tán khác nhau. Như vào lúc nửa đêm tụng bài kệ 12 lễ, thực hành 16 lạc của Ngài Long Thọ; vào lúc cuối đêm thì tụng kệ Vãng Sanh luận thực hành 21 lạy của Ngài Thế Thân. Đây là pháp tu của hành giả niệm Phật”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 7055).

(Xem Khai nguyên thích giáo lục quyển 13)

Trú dạ lục thời. Nghĩa là ngày đêm 6 thời, lúc nào cũng có lễ tán, tụng niệm,, sám lạy v.v… Đây là sáng kiến của Ngài Thiện Đạo thuộc đời nhà Đường vào thế kỷ thứ 7. Mãi cho đến 700 năm sau tại Việt Nam cũng có một vị Vua bỏ ngôi đi xuất gia lấy hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (Vua Trần Nhân Tông) vào đầu thế kỷ thứ 14 cũng đã lập nên Kinh lục thời khóa tụng như Ngài Thiện Đạo bên Trung Quốc; nhưng lục thời khóa tụng của Vua Trần Nhân Tông Việt Nam chuyên về Thiền học; còn lục thời khóa tụng của Ngài Thiện Đạo của Trung Hoa chuyên thực hành Pháp môn niệm Phật.

Tiếp đến chúng ta có thể nghiên cứu về tư tưởng của Ngài Thiện Đạo qua tác phẩm “Ngũ chủng tăng thượng duyên”. Cũng gọi là ngũ tăng thượng duyên, ngũ duyên.

Năm thứ duyên tăng thượng của người niệm Phật cầu vãng sanh gồm:

1. Diệt tội tăng thượng duyên, cũng gọi là hiện sinh diệt tội tăng thượng duyên. Niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà làm duyên tăng thượng để tiêu trừ tất cả các nghiệp chướng.

2. Hộ niệm đắc trường mệnh tăng thượng duyên; cũng gọi là hộ niệm tăng thượng duyên. Hiện sinh hộ niệm tăng thượng duyên. Tức được Đức Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Thế ÂmBồ Tát Đại Thế Chí giữ gìn, che chở.

3. Kiến Phật tăng thượng duyên, cũng gọi là kiến Phật tam muội tăng thượng duyên. Hành giả niệm Phật, nhờ sức bản nguyện của Đức Phật A Di Đà mà được thấy Phật.

4. Nhiếp sinh tăng thượng duyên: chúng sinh nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà mà được vãng sanh.

5. Chứng sanh tăng thượng duyên: Người niệm Phật, nhờ nguyện lực của Phật, sau khi mệnh chung nhất định được vãng sanh.

(Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 3373). (Xem Quán niệm Pháp Môn; Quán niệm Pháp môn tư ký quyển hạ; Luận Thích Tịnh Độ quần nghi quyển 7; Quán kinh Huyền nghĩa phần truyền thông ký quyển 3).

Theo như 5 loại tăng thượng duyên trên, loại nào cũng quan trọng cả. Vì đây chính là những trợ lực thuộc về tha lực của Đức Phật A Di Đà để chúng sanh niệm Phật, sau khi lâm chung sẽ được tiếp dẫn về Tây Phương Tịnh Độ. Nhưng xét cho kỹ về Tăng Thượng Duyên thứ 3 quan trọng hơn cả. Vì lẽ sự vãng sanh của chúng sanh có được là nhờ vào bản nguyện của Đức Phật A Di Đà chứ không phải là tự lực của chúng sanh niệm mà được vãng sanh. Bản nguyện tiếng Đức gọi là Ursprüngliches Gelobnis. Nghĩa là lời thệ nguyện căn bản, gốc rễ. Chính từ đó phát sinh ra tha lực để giúp đỡ cho các chúng sanhmười phương vô biên thế giới siêu sanh về được Lạc Bang. Do lý do nầy mà tư tưởng của Ngài Thân Loan khác với Ngài Pháp Nhiên vốn là Sư phụ của mình; nhưng Ngài Thân Loan thì hoàn toàn giống với Ngài Thiện Đạo. Một người sinh ra ở Nhật Bản vào thế kỷ thứ 13, chưa biết Trung Quốc là gì; nhưng tư tưởng của Ngài Thiện Đạo cách hơn 600 năm sau đã có người truyền thừa một cách trực tiếp và vững vàng tại Nhật Bản; không những chỉ có từ thế kỷ thứ 13 ấy, mà mãi cho đến tận ngày nay, cho những ai thực hành theo Pháp Môn Tịnh Độ nầy.

Lịch sử Phật Giáo Trung Quốc là một lịch sử có thật; ít thêu dệt. Thỉnh thoảng vẫn có những câu chuyện thần thoại về một vị Tổ nào đó. Ví dụ như Ngài Bồ Đề Đạt Ma chẳng hạn; khi đến và khi đi đều không để lại dấu tích, hoặc như Ngài Long Thọ (Ấn Độ) xuống Long Cung; Ngài Liên Hoa Sanh (Tây Tạng, Bhutan) bay từ Ấn Độ qua truyền giáo. Hoặc giả như Ngài Nhật Liên (Nhật Bản) hay Ngài Không Lộ (Việt Nam) v.v… Tất cả đều muốn nhân cách hóa lên nhiều lần hơn để trở thành những việc làm thánh thiện hơn người thường. Có như vậy Phật Pháp mới linh thiêng. Có thể điều ấy hợp với thị hiếu của những người bình dân ít học; nhưng đối với những người có nghiên cứu thì họ rất dè dặt với những sự kiện như vậy.

Nếu kể từ thời Vua Hán Minh Đế thời Hậu Hán vào năm 68 sau Tây lịch, kinh Tứ Thập Nhị Chương đã được dịch ra tiếng Trung Hoa và đến thời Ngài Huệ Viễn (334-416) là gần 400 năm; theo sử Trung Hoa thì Tịnh Độ Tông đã chính thức được thành lập. Nếu tính theo Phật Giáo Tịnh Độ Nhật Bản và các nhà nghiên cứu phương Tây (Christian Steineck) thì cho rằng Tịnh Độ Tông Nhật Bản bắt đầu ở Trung Hoa từ thời Ngài Đàm Loan (476 - ?). Ngài Đàm Loan có thể thị tịch vào năm 554. Đó mới chỉ là nghi vấn; chứ chưa có những xác tín đáng tin cậy. Nhưng nếu chỉ tính từ năm 48 đến năm 500 sau Tây lịch, dẫu cho Tông Tịnh Độ ở Trung Hoa vị nào là Đệ nhất Tổ đi nữa thì Tông nầy vẫn chưa được dân chúng và triều đình Trung Hoa biết đến trước tiênrõ ràng hơn cả Thiền Tông tại đó nữa. Vì lẽ Thiền Tông tại Trung Quốc chính thức do Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ truyền sang năm 520 đời vua Lương Võ Đế (464-549). Đạt Ma Tổ Sư là vị Tổ thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ và là Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Như vậy Thiền Tông được chính thức có mặt tại Trung Hoa vẫn sau Tịnh Độ 20 năm (nếu kể từ thời Ngài Đàm Loan) và sau 120 năm (sau Ngài Huệ Viễn).

Từ giữa thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 5 các nhà Sư Trung Hoa đang tiếp cận một nền Phật Giáo sơ khai do các vị Tăng từ Ấn Độ sang truyền giáo tại đây như các Ngài:

Ca Diếp Ma Đằng, Trúc Pháp Lan không rõ năm sinh và năm mất; nhưng các Ngài đã đến Kinh đô Lạc Dương từ giữa thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch. Rồi Ngài An Thế Cao (148-170 ?) – Ngài cũng là người đầu tiên mang Thiền Quán vào Trung Quốc; nhưng không có sự truyền thừa. Tiếp đến là Ngài Cưu Ma La Thập (344-413). Các Ngài là những vị Đại Luận Sư, Đại Học giả, Đại Dịch giả, Đại Hành giả v.v… Hầu như là người ngoại quốc đến Trung Hoa; đầu tiên các Ngài phải học chữ Hán từ cách viết cho đến cách nói để sử dụng trao đổi hằng ngày, sau đó mới đem những bản kinh nguyên văn bằng chữ Phạn dịch sang tiếng Trung Quốc. Từ đó mới có người Trung Quốc tu học theo. Đây là thời kỳ đầu, Phật Giáo chưa bắt rễ tại đây; có lẽ vì vậy mà các Ngài chưa vội gì tạo ra tông phái. Đến khi Phật Giáo phát triển mạnh sau thời nhà Lương đến thời nhà Đường thì các Tông Phái mới phân chia rõ ràng. Ở đây chúng tôi muốn làm sáng tỏ vấn đề là lâu nay nhiều người tu thiền chấp vào cách truyền thừa liên tục, cho rằng Thiền Tông mới có tính cách nhất quán; còn Tịnh Độ thì không có đầu đuôi và không có sự truyền thừa rõ rệt. Xem qua lịch sử truyền thừa của Tịnh Độ Tông Trung Hoa và Nhật Bản bên trên quá rõ nét, để cho Phật Tử Việt Nam chúng ta cũng sẽ hãnh diện lây là việc truyền thừa Tịnh Độ đến Việt Nam qua kinh điển và sử liệu cũng sẽ minh bạch rõ ràng, để người đời sau khi học Phật có nơi y cứ vào đó mà phát triển.

Dầu là Hoa Nghiêm, Pháp Tướng, Pháp Hoa, Chân Ngôn, Thiền hay Tịnh Độ v.v… tất cả chúng ta chỉ có chung một cái gốc. Đó là cái gốc căn bản của sự giác ngộgiải thoát sanh tử luân hồi. Còn sự lập Tông, chia Phái… chỉ là phương pháp của các vị Tổ Sư muốn giúp cho những hành giả thuận theo pháp môn nào thì hành trì theo pháp môn đó, để được lợi mình, lợi người; chứ không phải chỗ cao thấp trong giáo lý. Ví như có người bảo rằng: Thiền dành để cho những người căn cơ cao; còn Tịnh Độ để cho đàn bà, con trẻ và những người có căn cơ yếu kém. Điều ấy hẳn sai. Vì trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng: “Cõi Tịnh Độ không phải để cho người ít có căn lành được sanh về đó”. Vậy cao hay thấp, đúng hay sai, chánh hay tà là do con người; chứ không phải do ở nơi pháp.

Chúng tôi chỉ muốn dùng hình thức nghiên cứu nầy để chứng minh rõ ràng về lai lịch cũng như cách truyền thừa của Tịnh Độ Tông để người đời sau đỡ mặc cảm và bỡ ngỡ rằng: Tông phái mình theo không có lai lịch, xuất xứ và không có những sự truyền thừa rõ ràng. Một câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” nó không chỉ đơn thuần trong 6 chữ Hồng Danh, mà câu ấy là một câu Thần Chú để trợ duyên cho hằng hà sa số chúng sanh ở cõi phàm tục nầy được siêu sanh về cõi Tịnh Độ qua bổn nguyện của Đức Từ Phụ A Di Đà.

Mỗi vị Bồ Tát, mỗi một vị Phật xuất hiện nơi đời nầy đều có những lời Đại nguyện khác nhau. Ví dụ như Đức Phật A Di Đà khi còn là vị Tỳ Kheo Pháp Tạng đã phát ra 48 lời Đại nguyện; Đức Phổ Hiền Bồ Tát có 10 Đại nguyện; Đức Phật Dược Sư có 12 lời nguyện; Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cũng có 12 lời nguyện và 32 hóa thân. Ngoài ra Đức Địa Tạng Bồ Tát, Ngài Di Lặc v.v… tất cả các Ngài đều vì sự giải thoát sanh tử của chúng sanh mà vào đời ác ngũ trước nầy để lập nguyện cứu khổ quần mê, quay về bờ giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9791)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9958)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9933)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20509)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10343)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9953)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10343)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9926)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34411)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9635)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8715)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11095)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8520)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9797)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9181)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20450)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19196)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8757)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8865)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12111)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9595)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22998)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8999)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9263)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9973)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9897)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10621)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10927)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12479)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9338)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9195)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9321)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10458)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22000)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22244)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16606)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9536)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10194)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8389)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8290)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9452)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8834)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8627)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9133)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9609)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8616)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9448)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8623)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8359)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8470)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10188)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23634)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9576)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9004)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8339)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8531)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7885)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7974)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8804)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8934)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10061)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8645)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8626)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30405)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30070)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24176)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9276)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9634)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9512)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9506)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9070)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28209)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23701)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8887)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14110)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9658)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9345)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9643)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30898)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27123)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32715)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34006)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27765)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10575)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12470)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58681)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10656)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9392)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9558)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13943)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14212)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10765)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28152)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23280)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant