Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

C. Ngài Thiện ĐạoTư Tưởng Tịnh Độ

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 15372)
C. Ngài Thiện Đạo và Tư Tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


III. TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA TRUNG HOA

C.- Ngài Thiện ĐạoTư Tưởng Tịnh Độ

Ngài Thiện Đạo sinh năm 613 và viên tịch năm 681, là Cao Tăng Trung Quốc, sống vào đời nhà Đường, người huyện Lâm Chung, tỉnh Sơn Đông (có thuyết nói người ở Hu Di, tỉnh An Huy), họ Chu, hiệu Chung Nam Đại Sư. Sư là Tổ thứ 3 của Tông Tịnh Độ; cũng chính là người tập đại thành phái Đàm Loan, Đạo Xước thuộc Tông Tịnh Độ.

Lúc tuổi nhỏ, Sư theo Ngài Minh Thắng ở Mật Châu xuất gia, tụng các kinh Pháp Hoa, Duy Ma… Sau Sư được đọc kinh Quán Vô Lượng Thọ, vui buồn lẫn lộn; Sư liền tu tập 16 pháp quán nói trong kinh nầy.

Năm Trinh Quán thứ 15 (641) đời vua Thái Tông nhà Đường, Sư đến chùa Huyền Trang ở Hà Tây yết kiến Ngài Đạo Xước, tu học Phương Đẳng sám pháp và nghe giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ. Từ đó về sau, Sư chuyên việc niệm Phật, dốc lòng tinh tấn, khổ hạnh, chứng được Niệm Phật Tam Muội; ở trong định thấy được cảnh trang nghiêm của Tịnh Độ. Về sau, Sư vào Trường An trụ ở chùa Quang Minh, truyền bá pháp môn Tịnh Độ. Sư hành trì tinh nghiêm, hằng ngày chắp tay ngồi theo kiểu của người Hồ (người các nước Tây Vực), nhất tâm niệm Phật đến khi mỏi mệt mới thôi.

Trong hơn 30 năm, Sư không có chỗ ngủ nhất định nào khác, không nhận sự lễ bái của Sa Di. Sư dùng của cúng dường vào việc viết chép 10 vạn quyển kinh A Di Đà và vẽ 300 bức tranh Tịnh Độ biến tướng, sửa chùa, làm lại các tháp miếu, già lam đã hư hoại. Sư đi hóa độ ở các châu, mọi người đều ngưỡng mộ đức của Sư; hoặc có người tụng kinh A Di Đà 10 vạn đến 30 vạn biến; hoặc có người trong thời khóa hàng ngày xưng danh hiệu Phật A Di Đà từ 1 vạn đến 10 vạn biến; hoặc có người chứng được Niệm Phật Tam Muộivãng sanh Tịnh Độ.

 Ngày 14 tháng 3 năm Vĩnh Long thứ 2 (681) Sư thị tịch, thọ 69 tuổi; Đệ tử có các vị Hoài Cảm, Hoài Huy, Tịnh Nghiệp…

Sư có các tác phẩm: Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ 4 quyển; Tịnh Độ pháp sự tán 2 quyển; Quán Niệm Pháp Môn 1 quyển; Vãng Sanh lễ tán kệ 1 quyển; Bát Chu tán 1 quyển; Ngũ Chủng tăng thượng duyên nghĩa 1 quyển. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 5826-5827).

(Xem Tục Cao Tăng truyện quyển 27; Vãng Sanh Tịnh Độ thụy ý san truyện; Niệm Phật kinh; Phật Tổ thắng ký quyển 26, 27; Tịnh Độ Vãng Sanh truyện quyển trung; Long Thư tăng quảng Tịnh Độ văn quyển 5; Lạc Bang văn loại quyển 2; Thần tăng truyện quyển 5; Vãng Sanh tập quyển thượng; Thích Thi kệ cổ lược quyển 3; Tịnh Độ Thánh Hiền lục quyển 2; Loại tụ Tịnh Độ Ngũ Tổ truyện; Kim Thạch tụng biên 73, 86).

Thời nhà Đường là thời văn hóa Phật Giáo được phát triển mạnh. Các loại kinh điển được phiên dịch chú giải ra tiếng Trung Hoa rất nhiều; nhất là cuộc đời của Ngài Thiện Đạo lại sinh ra cùng thời với Ngài Huyền Trang. Sau khi Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh về (645) và chú dịch tại Trường An, Ngài Thiện Đạo vẫn còn tại thế và đang hành trì Pháp môn niệm Phật; bằng cách mỗi ngày niệm Phật nhiều lần cũng như viết kinh, dịch sách. Kinh A Di Đà không dài; tuy nhiên chép tay 10 vạn quyển (tức là 100.000 bản) thời ấy phải cần rất nhiều thời gian. Vì ngày ấy không có máy in, ấn, sang chụp như ngày nay. Như vậy so ra ý chí của người xưa và người nay khác nhau một trời một vực.

Trong Tiểu Sử của Ngài cũng được cho biết rằng: Nếu Ngài có được của cúng dường thì thường đem đi sửa chùa, vẽ tranh, chép kinh để tán phát cho mọi người theo tu pháp môn Tịnh Độ. Đồng thời trong 30 năm hành đạo không có chỗ nghỉ ngơi nhất định và không nhận sự lễ bái của Sa Di. Quả là một công hạnh cao tột; do vậy sau nầy Tịnh Độ Tông Nhật Bản mới sắp đặt và cung thỉnh Ngài ở vào vị Tổ Sư Tịnh Độ thứ 5 (kể từ Ấn Độ) và đặc biệt chuyên tâm hành trì lễ bái lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà. Sau nầy, vào thế kỷ thứ 13 ở tại Nhật và ngay cả ngày nay tại Việt Nam, đa phần những người tu theo Pháp môn Tịnh Độ đều thực hành các lời nguyện quan trọng 18, 19, 20 nầy.

Tư tưởng là những gì được cấu thành bởi sự hành trì tu tập một pháp môn mà mình đã trải qua. Do vậy những trứ tác tiêu biểu của một vị Tổ Sư, một vị Đại Sư chính là tư tưởng tiêu biểu của vị ấy. Sau đây chúng ta thử tìm hiểu một vài tác phẩm của Ngài Thiện Đạo viết về Tịnh Độ.

“Vãng sanh lễ tán kệ gọi cho đủ là Khuyến nhứt thiết chúng sanh nguyện sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật quốc lục thời lễ tán kệ”.

Cũng gọi là: Lục thời lễ tán kệ, Vãng sanh lễ tán, Lễ tán.

Tác phẩm nầy gồm một quyển, do Ngài Thiện Đạo soạn vào đời Đường, được thu vào Đại Chánh tạng tập 47.

Soạn giả dùng kệ lễ tán của các Ngài Long Thọ, Thế Thân làm nền tảng mà định ra pháp 6 thời lễ tán, tức vào 6 thời: Lúc mặt trời lặn, đầu hôm, nửa đêm, cuối đêm, sáng sớm và giữa trưa… thực hành lễ tán khác nhau. Như vào lúc nửa đêm tụng bài kệ 12 lễ, thực hành 16 lạc của Ngài Long Thọ; vào lúc cuối đêm thì tụng kệ Vãng Sanh luận thực hành 21 lạy của Ngài Thế Thân. Đây là pháp tu của hành giả niệm Phật”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 7055).

(Xem Khai nguyên thích giáo lục quyển 13)

Trú dạ lục thời. Nghĩa là ngày đêm 6 thời, lúc nào cũng có lễ tán, tụng niệm,, sám lạy v.v… Đây là sáng kiến của Ngài Thiện Đạo thuộc đời nhà Đường vào thế kỷ thứ 7. Mãi cho đến 700 năm sau tại Việt Nam cũng có một vị Vua bỏ ngôi đi xuất gia lấy hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (Vua Trần Nhân Tông) vào đầu thế kỷ thứ 14 cũng đã lập nên Kinh lục thời khóa tụng như Ngài Thiện Đạo bên Trung Quốc; nhưng lục thời khóa tụng của Vua Trần Nhân Tông Việt Nam chuyên về Thiền học; còn lục thời khóa tụng của Ngài Thiện Đạo của Trung Hoa chuyên thực hành Pháp môn niệm Phật.

Tiếp đến chúng ta có thể nghiên cứu về tư tưởng của Ngài Thiện Đạo qua tác phẩm “Ngũ chủng tăng thượng duyên”. Cũng gọi là ngũ tăng thượng duyên, ngũ duyên.

Năm thứ duyên tăng thượng của người niệm Phật cầu vãng sanh gồm:

1. Diệt tội tăng thượng duyên, cũng gọi là hiện sinh diệt tội tăng thượng duyên. Niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà làm duyên tăng thượng để tiêu trừ tất cả các nghiệp chướng.

2. Hộ niệm đắc trường mệnh tăng thượng duyên; cũng gọi là hộ niệm tăng thượng duyên. Hiện sinh hộ niệm tăng thượng duyên. Tức được Đức Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Thế ÂmBồ Tát Đại Thế Chí giữ gìn, che chở.

3. Kiến Phật tăng thượng duyên, cũng gọi là kiến Phật tam muội tăng thượng duyên. Hành giả niệm Phật, nhờ sức bản nguyện của Đức Phật A Di Đà mà được thấy Phật.

4. Nhiếp sinh tăng thượng duyên: chúng sinh nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà mà được vãng sanh.

5. Chứng sanh tăng thượng duyên: Người niệm Phật, nhờ nguyện lực của Phật, sau khi mệnh chung nhất định được vãng sanh.

(Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 3373). (Xem Quán niệm Pháp Môn; Quán niệm Pháp môn tư ký quyển hạ; Luận Thích Tịnh Độ quần nghi quyển 7; Quán kinh Huyền nghĩa phần truyền thông ký quyển 3).

Theo như 5 loại tăng thượng duyên trên, loại nào cũng quan trọng cả. Vì đây chính là những trợ lực thuộc về tha lực của Đức Phật A Di Đà để chúng sanh niệm Phật, sau khi lâm chung sẽ được tiếp dẫn về Tây Phương Tịnh Độ. Nhưng xét cho kỹ về Tăng Thượng Duyên thứ 3 quan trọng hơn cả. Vì lẽ sự vãng sanh của chúng sanh có được là nhờ vào bản nguyện của Đức Phật A Di Đà chứ không phải là tự lực của chúng sanh niệm mà được vãng sanh. Bản nguyện tiếng Đức gọi là Ursprüngliches Gelobnis. Nghĩa là lời thệ nguyện căn bản, gốc rễ. Chính từ đó phát sinh ra tha lực để giúp đỡ cho các chúng sanhmười phương vô biên thế giới siêu sanh về được Lạc Bang. Do lý do nầy mà tư tưởng của Ngài Thân Loan khác với Ngài Pháp Nhiên vốn là Sư phụ của mình; nhưng Ngài Thân Loan thì hoàn toàn giống với Ngài Thiện Đạo. Một người sinh ra ở Nhật Bản vào thế kỷ thứ 13, chưa biết Trung Quốc là gì; nhưng tư tưởng của Ngài Thiện Đạo cách hơn 600 năm sau đã có người truyền thừa một cách trực tiếp và vững vàng tại Nhật Bản; không những chỉ có từ thế kỷ thứ 13 ấy, mà mãi cho đến tận ngày nay, cho những ai thực hành theo Pháp Môn Tịnh Độ nầy.

Lịch sử Phật Giáo Trung Quốc là một lịch sử có thật; ít thêu dệt. Thỉnh thoảng vẫn có những câu chuyện thần thoại về một vị Tổ nào đó. Ví dụ như Ngài Bồ Đề Đạt Ma chẳng hạn; khi đến và khi đi đều không để lại dấu tích, hoặc như Ngài Long Thọ (Ấn Độ) xuống Long Cung; Ngài Liên Hoa Sanh (Tây Tạng, Bhutan) bay từ Ấn Độ qua truyền giáo. Hoặc giả như Ngài Nhật Liên (Nhật Bản) hay Ngài Không Lộ (Việt Nam) v.v… Tất cả đều muốn nhân cách hóa lên nhiều lần hơn để trở thành những việc làm thánh thiện hơn người thường. Có như vậy Phật Pháp mới linh thiêng. Có thể điều ấy hợp với thị hiếu của những người bình dân ít học; nhưng đối với những người có nghiên cứu thì họ rất dè dặt với những sự kiện như vậy.

Nếu kể từ thời Vua Hán Minh Đế thời Hậu Hán vào năm 68 sau Tây lịch, kinh Tứ Thập Nhị Chương đã được dịch ra tiếng Trung Hoa và đến thời Ngài Huệ Viễn (334-416) là gần 400 năm; theo sử Trung Hoa thì Tịnh Độ Tông đã chính thức được thành lập. Nếu tính theo Phật Giáo Tịnh Độ Nhật Bản và các nhà nghiên cứu phương Tây (Christian Steineck) thì cho rằng Tịnh Độ Tông Nhật Bản bắt đầu ở Trung Hoa từ thời Ngài Đàm Loan (476 - ?). Ngài Đàm Loan có thể thị tịch vào năm 554. Đó mới chỉ là nghi vấn; chứ chưa có những xác tín đáng tin cậy. Nhưng nếu chỉ tính từ năm 48 đến năm 500 sau Tây lịch, dẫu cho Tông Tịnh Độ ở Trung Hoa vị nào là Đệ nhất Tổ đi nữa thì Tông nầy vẫn chưa được dân chúng và triều đình Trung Hoa biết đến trước tiênrõ ràng hơn cả Thiền Tông tại đó nữa. Vì lẽ Thiền Tông tại Trung Quốc chính thức do Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ truyền sang năm 520 đời vua Lương Võ Đế (464-549). Đạt Ma Tổ Sư là vị Tổ thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ và là Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Như vậy Thiền Tông được chính thức có mặt tại Trung Hoa vẫn sau Tịnh Độ 20 năm (nếu kể từ thời Ngài Đàm Loan) và sau 120 năm (sau Ngài Huệ Viễn).

Từ giữa thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 5 các nhà Sư Trung Hoa đang tiếp cận một nền Phật Giáo sơ khai do các vị Tăng từ Ấn Độ sang truyền giáo tại đây như các Ngài:

Ca Diếp Ma Đằng, Trúc Pháp Lan không rõ năm sinh và năm mất; nhưng các Ngài đã đến Kinh đô Lạc Dương từ giữa thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch. Rồi Ngài An Thế Cao (148-170 ?) – Ngài cũng là người đầu tiên mang Thiền Quán vào Trung Quốc; nhưng không có sự truyền thừa. Tiếp đến là Ngài Cưu Ma La Thập (344-413). Các Ngài là những vị Đại Luận Sư, Đại Học giả, Đại Dịch giả, Đại Hành giả v.v… Hầu như là người ngoại quốc đến Trung Hoa; đầu tiên các Ngài phải học chữ Hán từ cách viết cho đến cách nói để sử dụng trao đổi hằng ngày, sau đó mới đem những bản kinh nguyên văn bằng chữ Phạn dịch sang tiếng Trung Quốc. Từ đó mới có người Trung Quốc tu học theo. Đây là thời kỳ đầu, Phật Giáo chưa bắt rễ tại đây; có lẽ vì vậy mà các Ngài chưa vội gì tạo ra tông phái. Đến khi Phật Giáo phát triển mạnh sau thời nhà Lương đến thời nhà Đường thì các Tông Phái mới phân chia rõ ràng. Ở đây chúng tôi muốn làm sáng tỏ vấn đề là lâu nay nhiều người tu thiền chấp vào cách truyền thừa liên tục, cho rằng Thiền Tông mới có tính cách nhất quán; còn Tịnh Độ thì không có đầu đuôi và không có sự truyền thừa rõ rệt. Xem qua lịch sử truyền thừa của Tịnh Độ Tông Trung Hoa và Nhật Bản bên trên quá rõ nét, để cho Phật Tử Việt Nam chúng ta cũng sẽ hãnh diện lây là việc truyền thừa Tịnh Độ đến Việt Nam qua kinh điển và sử liệu cũng sẽ minh bạch rõ ràng, để người đời sau khi học Phật có nơi y cứ vào đó mà phát triển.

Dầu là Hoa Nghiêm, Pháp Tướng, Pháp Hoa, Chân Ngôn, Thiền hay Tịnh Độ v.v… tất cả chúng ta chỉ có chung một cái gốc. Đó là cái gốc căn bản của sự giác ngộgiải thoát sanh tử luân hồi. Còn sự lập Tông, chia Phái… chỉ là phương pháp của các vị Tổ Sư muốn giúp cho những hành giả thuận theo pháp môn nào thì hành trì theo pháp môn đó, để được lợi mình, lợi người; chứ không phải chỗ cao thấp trong giáo lý. Ví như có người bảo rằng: Thiền dành để cho những người căn cơ cao; còn Tịnh Độ để cho đàn bà, con trẻ và những người có căn cơ yếu kém. Điều ấy hẳn sai. Vì trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng: “Cõi Tịnh Độ không phải để cho người ít có căn lành được sanh về đó”. Vậy cao hay thấp, đúng hay sai, chánh hay tà là do con người; chứ không phải do ở nơi pháp.

Chúng tôi chỉ muốn dùng hình thức nghiên cứu nầy để chứng minh rõ ràng về lai lịch cũng như cách truyền thừa của Tịnh Độ Tông để người đời sau đỡ mặc cảm và bỡ ngỡ rằng: Tông phái mình theo không có lai lịch, xuất xứ và không có những sự truyền thừa rõ ràng. Một câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” nó không chỉ đơn thuần trong 6 chữ Hồng Danh, mà câu ấy là một câu Thần Chú để trợ duyên cho hằng hà sa số chúng sanh ở cõi phàm tục nầy được siêu sanh về cõi Tịnh Độ qua bổn nguyện của Đức Từ Phụ A Di Đà.

Mỗi vị Bồ Tát, mỗi một vị Phật xuất hiện nơi đời nầy đều có những lời Đại nguyện khác nhau. Ví dụ như Đức Phật A Di Đà khi còn là vị Tỳ Kheo Pháp Tạng đã phát ra 48 lời Đại nguyện; Đức Phổ Hiền Bồ Tát có 10 Đại nguyện; Đức Phật Dược Sư có 12 lời nguyện; Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cũng có 12 lời nguyện và 32 hóa thân. Ngoài ra Đức Địa Tạng Bồ Tát, Ngài Di Lặc v.v… tất cả các Ngài đều vì sự giải thoát sanh tử của chúng sanh mà vào đời ác ngũ trước nầy để lập nguyện cứu khổ quần mê, quay về bờ giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21764)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20466)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22373)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18786)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27066)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18776)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19993)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38113)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20179)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28359)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46415)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15484)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65741)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13772)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18687)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15573)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14604)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18761)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12664)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17683)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25523)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38760)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17732)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11269)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18671)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17448)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13255)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13350)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17592)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24356)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12439)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13854)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13027)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12912)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14198)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14641)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21125)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22663)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29999)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13907)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18284)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17099)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12658)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30763)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22835)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14677)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13025)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12779)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12539)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13081)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16354)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15257)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23862)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16218)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29048)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20316)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15592)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37295)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45086)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36956)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant