Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn pháp của Gampopa

11 Tháng Mười 201200:00(Xem: 18595)
Bốn pháp của Gampopa
BỐN PHÁP CỦA GAMPOPA
Tulku Urgyen Rinpoche
Việt dịch: Pema Jyana

 

tulku_urgyen_rinpocheTrước khi thọ nhận giáo lý, hãy cùng khởi lên động cơ của bồ đề tâm cao quý. Hãy mong ước rằng: “Con sẽ nghiên cứu Pháp và thực hành đúng đắn để thiết lập tất cả những bà mẹ của con, hữu tình chúng sinh nhiều như hư không, trong trạng thái giải thoátgiác ngộ tối thắng.”

Tôi muốn giới thiệu một giáo lý gọi là “Bốn Pháp của Gampopa,” tương tự như bốn chỉ dẫn của ngài Longchen Rabjam. Đầu tiên trong đó là cách thức chuyển tâm về thực hành Pháp. Bao trọn trong đó là bốn niệm chuyển tâm. Pháp thứ hai là cách thức đảm bảo rằng thực hành Pháp trở thành con đường. Điều này bao gồm những giáo lý về thực hành dự bị bốn lần một trăm nghìn. Trong Pháp thứ ba, cách thức để xua tan vô minh trên con đường, có những giáo lý về giai đoạn phát triển, trì tụng và giai đoạn hoàn thiện. Và trong Pháp thứ tư, có những giáo lý về cách thức đạt được sự xác quyết, chứng ngộ trạng thái tự nhiên bằng ba tri kiến vĩ đại. Người ta nói rằng nền tảng là Đại thủ ấn, con đườngTrung Đạo và kết quả là Đại toàn thiện. Bốn Pháp của Gampopa chứa đựng trọn vẹn con đường để mỗi cá nhân đạt đến giác ngộ hoàn hảo trong thân này và đời này.

Tất cả chúng ta ở đây đã có được điều vô cùng khó khăn mới đạt được – thân người quý giá với tám tự do và mười thuận duyên. Đó là thứ gì đó chỉ xảy ra trong một trong một trăm niên kỷ. Hiện tại nó xảy đến với chúng ta, chính thời điểm này. Khi chúng ta còn sống trong thân người này, nó dường như thật dễ dàng để sinh ra làm người. Dường như chẳng cần nỗ lực gì. Tuy nhiên, thành thật mà nói, thân người là cực kỳ khó đạt được và đòi hỏi một lượng công đức lớn lao từ nhiều đời quá khứ. Chính bởi nghiệp tốt lành trong quá khứ kết hợp với những khát nguyện thanh tịnhhiện tại chúng ta có được thân người quý giá.

Hoàn cảnh hiện tại của chúng ta giống như việc tìm thấy một viên ngọc quý. Đừng lãng phí nó. Thời gian đang cạn dần; chúng ta đều phải chết. Nguyên nhân của việc không thể đạt được trạng thái hoàn hảo về vật chất trong đời này là bởi không gì tồn tại mãi. Mọi thứ là vô thường; mọi người đều chết. Nếu lúc chết là kết thúc hoàn toàn, giống như nước khô hay lửa bị dập tắt, nó sẽ ổn – cái chết sẽ chẳng có kết quả gì. Không may là, điều này không xảy ra. Những kết quả của nghiệp theo chúng ta sau khi chết như hình với bóng. Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi. Tình thế này đã tiếp diễn từ vô thủychúng ta vẫn chưa được giải phóng.

Hãy quán chiếu về ý nghĩa của bốn chủ đề tôi vừa đề cập: khó khăn của việc có được thân người quý giá, sự thật rằng không gì tồn tại mãi, rằng chúng ta đều phải chết, và mọi người đều bị chi phối bởi kết quả của những hành động nghiệp, chẳng có nơi nào trong luân hồihạnh phúc mãi mãi. Chúng được gọi là bốn niệm chuyển tâm. Việc thấu triệt chúng là vô cùng quan trọng, bởi vì chúng không phải điều hư cấu hay ảo tưởng. Chúng là sự thật; chúng giải thích những hoàn cảnhđiều kiệnchúng ta sống trong luân hồi.

Không phải là không thể hiểu được rằng chúng ta phải chết, cũng như những chi tiết về điều tiếp theo. Chúng ta đều đứng thành hàng vì điều đó, chờ đợi nó xảy ra. Chúng ta cần đối mặt với những sự thật này theo một cách thức thực tế. Trước khi bắt đầu thực hành chánh Pháp, điều quan trọng là cần hiểu chúng thực sự. Đó là điểm đầu tiên trong Bốn Pháp của Gampopa: cách thức hướng tâm về với Pháp.

Thứ hai, cách thức đảm bảo thực hành Pháp trở thành con đường, bao gồm các thực hành sơ khởi bốn lần một trăm nghìn. Thông qua bốn niệm chuyển tâm, chúng ta phát triển mong muốn giải phóng khỏi luân hồiđạt được trạng thái giác ngộ cao quý, không chỉ cho bản thân, mà còn cho tất thảy chúng sinh. Chúng ta đã sẵn sàng quy y Tam Bảo. Phật là trạng thái toàn tri giác ngộ hoàn toànhoàn hảo. Pháp là con đường dẫn tới trạng thái đó, tức là các giáo lý. Tăng là tất thảy chư đạo sư, những bậc nắm giữ, xiển dương và hoằng bá giáo lý từ thời Đức Phật cho đến bậc thầy từ ái của chúng ta, những người mà chúng ta đã kết nối. Quy y Tam Bảo với niềm tin và xác quyết trọn vẹn đảm bảo rằng chúng ta có cơ hội trở thành những bậc giác ngộ. Quy ytìm kiếm chỉ dẫn từ Tam Bảo là điều mở ra con đường dẫn tới giác ngộ. Đó là phần đầu tiên trong các thực hành sơ khởi.

Tiếp theo điều này là phát bồ đề tâm. Không có bồ đề tâm, chúng ta không thể bước đi trên con đường Đại thừa. Hiểu biết rằng mọi hữu tình chúng sinh khác thực sự là cha mẹ chúng ta trong các đời quá khứ đã cung cấp nền tảng quan trọng cho những tiến bộ. Từng con côn trùng nhỏ bé mà chúng ta gặp, không ngoại lệ, đều là cha mẹ chúng ta – không chỉ một lần, mà rất nhiều lần. Và tất cả đều đang bước sai đường. Họ muốn hạnh phúc, nhưng không biết cách thức đạt được. Phát triển bồ đề tâm nghĩa là tạo ra lòng quyết tâm dũng mãnh nhất này: “Con sẽ dẫn dắt mọi hữu tình chúng sinh đến trạng thái giác ngộ!” Giới Bồ Tát này là điều tạo ra sự khác biệt giữa một hành giả Tiểu thừaĐại thừa. Thọ nhận giới này được gọi là phát bồ đề tâm. Quy yphát bồ đề tâmtinh túy của con đường.

Khi thực hành một nghi quỹ, chúng ta có thể thực hành ba thừaTiểu thừa, Đại thừaKim Cương thừa – một cách đồng thời. Bất cứ khi nào bạn thực hành một bổn tôn đặc biệt, bạn luôn bắt đầu với quy ybồ đề tâm, những yếu tố của Tiểu thừaĐại thừa. Không có cách nào khác. Bổn tôn, trì tụng thần chúquán tưởng, là thực hành Kim Cương thừa. Như thế, không thể thực hành Kim Cương thừa mà không là hành giả Tiểu thừaĐại thừa. Ba thừa được thực hành trên cùng một tấm nệm.

Các thực hành của cả ba thừa đều nằm trọn trong thực hành sơ khởi. Thực hành đầu tiên là Quy yPhát bồ đề tâm. Sau đó là Quán tưởng và trì tụng Kim Cương Tát Đỏa, thực hành Kim Cương thừa thực sự. Thực hành Kim Cương Tát Đỏa bao gồm bốn sức mạnh chữa lành, đầu tiên là sức mạnh của sự hỗ trợ - quán tưởng Phật Kim Cương Tát Đỏa. Thứ hai là sức mạnh của phương pháp đối trị được áp dụng, trì tụng thần chú trăm âm của Đức Kim Cương Tát Đỏaquán tưởng trận mưa và sự tịnh hóa bằng cam lồ. Thứ ba là sức mạnh của sự ăn năn về các ác hạnh trong quá khứ. Thứ tư là sức mạnh của lòng quyết tâm, hứa nguyện không bao giờ tái phạm. Đức Phật dạy rằng thực hành trì tụng thần chú Kim Cương Tát Đỏa trong khi nhớ về bốn sức mạnh chữa lành này giúp tịnh hóa mọi ác nghiệp, thậm chí dù nó có lớn như núi Tu Di.

Sau khi trì tụng thần chú Kim Cương Tát Đỏa sẽ đến phần Cúng dường mạn-đà-la, điều đảm bảo rằng chúng ta sẽ không tạo ra chướng ngại trên con đường thực hành. Trong đó, chúng ta sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi bằng việc tích tập những thứ chúng ta có thể mang theosự tích lũy công đứctrí tuệ. Có ba cấp độ cúng dường mạn-đà-la: mạn-đà-la bên ngoài, cúng dường vũ trụ bên ngoài; mạn đà la bên trong, cúng dường các chúng sinh bên trong; và cuối cùng mạn đà la bí mật, cúng dường sự như thị tuyệt đối, tương ứng với ba thân. Kết hợp cùng nhau, ba cấp độ này được gọi là “tích tập công đứctrí tuệ.”

Sau đó là Đạo sư Du già, phần thứ tư trong các pháp tu sơ khởi. Đạo sư Du già thường được nói là thâm sâu hơn cả thực hành chính yếu, bởi trong đó, chúng ta nhận được sự gia trì từ một truyền thừa không gián đoạn các đạo sư. Sự gia trì này đến từ Pháp thân Phật Phổ Hiền đến bậc thầy gốc của chúng ta. Nó giống như ống nước nối nhà bạn và trạm cấp nước, thứ cho phép nước chảy ra khi bạn mở vòi. Dòng truyền thừa không gián đoạn của các đạo sư giác ngộ kết nối với bạn nhờ những vị thầy của bạn giống như ống nước đó. Nhờ đó, chúng ta có thể nhận được sự gia trì của Phật, Pháp và Tăng, của ba thân trong thực hành của chúng ta.

Khi thực sự dấn thân vào các thực hành sơ khởi, chúng ta có thể xua tan chướng ngại trên con đường tâm linh và tạo ra nhiều thuận duyên để nhanh chóng chứng ngộ kết quả tối thắng. Đó chính xácý nghĩa của Pháp thứ hai trong Bốn Pháp của Gampopa: cách thức đảm bảo thực hành của Pháp trở thành con đường.

Một vài người coi họ là hành giả của riêng Đại thừa hay Kim Cương thừa. Số khác nói họ chỉ theo Theravada, rằng họ không biết điều gì khác ngoài đó. Nhưng nói như vậy chỉ cho thấy sự thiếu hiểu biết. Ba thừa không hề tách biệt. Chúng ta có thể thực hành chúng đồng thời – thực sự, chúng ta cần phải như vậy để có một nền tảng vững chắc. Không thực sự thấu triệt bốn niệm chuyển tâmquy y, chúng ta không có nền tảng thực sự để kết nối với các giáo lý Phật Đà. Giống như vậy, nếu bạn muốn uống trà, bạn cần một chỗ để cái cốc. Bạn cần cái bàn, giống như nền tảng của giáo lý Tiểu thừa hay Thanh Văn thừa. Bạn cũng cần cái cốc đựng trà, tức là thái độ Đại thừa. Và bạn cần trà – nếu không sẽ chẳng có gì để uống, và bạn cần phải uống. Giáo lý Kim Cương thừa giống như chất lỏng được đổ vào cốc.

Giống như vậy, để giác ngộ, trước tiên chúng ta cần kết nối với Tam Bảo. Quy y liên quan đến việc giao phó bản thân; điều đó chứa đựng giáo lý Tiểu thừa. Sau đó, mục đích của việc đơn độc giác ngộ trong khi tất thảy những bà mẹ của chúng ta trôi lăn trong luân hồi là gì? Điều đó thật đáng xấu hổ. Người ta nói rằng quan điểm Tiểu thừa thì nhỏ bé như vũng nước, trong khi Đại thừa thì rộng lớn như đại dương. Mọi người cần giác ngộ - không phải chỉ riêng chúng ta. Thứ ba, không có giáo lý thâm sâu của Kim Cương thừa bao gồm bổn tôn, thần chú và định, chẳng có cách nào để chứng ta đạt tới giác ngộ hoàn toàn trong chính đời này và thân này. Vì thế, chúng ta cần cả ba thừa: Tiểu thừa, Đại thừaKim Cương thừa. Thật vô ích khi tự coi bản thân là một hành giả cao cấp, kẻ chẳng cần những giáo lý “thấp hơn.” Thái độ như vậy sẽ là phi thực tế.

Đảm bảo rằng thực hành Pháp trở thành con đường nghĩa là tịnh hóa những che chướng và ác hạnh, điều tạo ra chướng ngạingăn cản con đường dẫn tới giác ngộ hoàn toàn. Có một nguyên nhân chính để thực hành các pháp tu sơ khởi, mặc dù vài người có thể nghĩ rằng chúng là không cần thiết. Nhờ thực hành sơ khởi, chúng ta thực sự có thể xua tan chướng ngại và khiến thực hành Pháp trở thành con đường giác ngộ.

Khi đã xua tan chướng cản và tích tập công đứctrí tuệ, chúng ta bước sang Pháp thứ ba của Gampopa: cách thức để con đường xua tan vô minh. Vô minh ở đây được hiểu là thứ che lấp bản tính thiên bẩm của chúng tangăn cản giác ngộ. Mọi người đều có Phật tính, mọi hữu tình chúng sinh không sót một ai. Không may là, chúng ta không biết tài sản đó. Chúng ta rơi vào vô minh và trôi lăn trong luân hồi. Hãy tưởng tượng khi một viên ngọc như ý rơi xuống bùn và bị che lấp bởi đất bẩn. Trước tiên, viên ngọc cần được nhận ra. Sau đó nó cần được làm sạch. Khi điều này xảy ra, nó có thể được sử dụng. Chúng ta đều là những viên ngọc như ý, nhưng không biết về điều đó, và như thế không thể sử dụng chúng. Chúng ta cần lau sạch chất bẩn bao trùm trạng thái cơ bản của bản thân, tức viên ngọc như ý. Cách thức để làm điều này là thực hành Kim Cương thừa.

Cách thức tốt nhất và thâm sâu nhất để làm vậy là nhờ ba nguyên tắc của thực hành Kim Cương thừa: bổn tôn, thần chú và định. Bằng việc tu tập trong giai đoạn phát triển bao gồm bổn tôn, thần chú và định, chúng ta hiện thực hóa điều mà chúng ta đã là. Để thực hành giai đoạn phát triển một cách đúng đắn, chúng ta cần buông bỏ tri kiến thế tục vật chất, tầm thường. Đừng trì tụng những lời cầu nguyện bổn tôn khi nghĩ rằng, “Tôi đang ở thế giới này, trong ngôi nhà bình thường, trong thân bình thường của tôi.” Trước tiên chúng ta cần tan hòa mọi thứ vào hư không rộng lớn, sau đó quán tưởng cung điện linh thánh, ngai tòa của bổn tôn và mọi chi tiết khác. Nhờ việc tu tập về bổn tôn, thần chú và định này, chúng ta có thể khiến con đường xua tan vô minh.

Hãy nhớ rằng, trong thực hành giai đoạn phát triển, chúng ta không quán tưởng rằng chúng ta là thứ gì đó mà chúng ta không phải là. Mọi người đều sở hữu tinh túy giác ngộ, điều được ban tặng với ba kim cương, ba khía cạnh giác ngộ. Cách thức để nhận ra điều đó một cách trọn vẹn là nhờ bổn tôn, thần chú và định. Thực hành phát triển là đơn giản biết bản chất của mọi thứ như nó là. Tu tập như vậy giống như biết viên ngọc là viên ngọc như ý, điều mà nó thực sự là. Nó không phải là việc chúng ta tưởng tượng một viên đá bình thường trở thành một viên ngọc. Viên đá không bao giờ sở hữu giá trị hay phẩm chất của viên ngọc, dù chúng ta quán tưởng thế nào. Thực hành giai đoạn phát triển vô cùng thâm sâu.

Bây giờ hãy xem xét Pháp thứ tư của Gampopa, để vô minh tỏa sáng như trí tuệ. Mặc dù điều sắp được nói ở đây nghe rất cao xa, tôi không tự tạo ra điều gì. Tôi không có khả năng tạo ra giáo lý của riêng mình hay sáng tạo con đường mới vẻ, thâm sâu, không gì hết! Thậm chí nếu tôi có thể, cũng vô ích khi làm vậy, bởi người ta sẽ không thích thú. Thay vào đó, tôi lặp lại những lời dạy của Đức Phật và các đạo sư vĩ đại trong quá khứ.

Mọi hữu tình chúng sinh, không một ngoại lệ nào, đều có Phật tính, từ Pháp thân Phật đến con côn trùng bé nhất. Không có sự khác biệt nào giữa phẩm chất hay kích cỡ của tinh túy giác ngộ giữa từng cá nhân. Tuy nhiên, chư Phật và những Bồ Tát giác ngộ hoàn toàn đã cắt bỏ tâm nhị nguyên từ đầu. Đó là cách mà các ngài khác với hữu tình chúng sinh. Sự hiển bày của tâm chư Phật và Bồ Tát mang hình tướng những hoạt động từ ái. Hoạt động này, nhờ những hóa thântái sinh, xuất hiện trong mọi cõi luân hồi để giảng dạy chúng sinh.

Mặt khác, hữu tình chúng sinh rơi vào tầm ảnh hưởng của suy nghĩ nhị nguyên. Sự chú ý của một người bình thường sẽ trượt theo sự chuyển động của tâm. Đột nhiên, có sự hỗn độn trong việc tin tưởng về ngã và tha, chủ thể và đối tượng, và điều này cứ tiếp diễn không ngừng. Đó là luân hồi. Phật và Bồ Tát đã thành công trong việc đi tới miền đất giác ngộ. Nhưng chúng ta, hữu tình chúng sinh trở nên hoang dại, và đang trong trạng thái không thành công, không thỏa mãn. Chúng ta vẫn trong đại dương luân hồi; chúng ta chưa thể nhô lên khỏi mặt nước. Chúng ta trôi lăn trong trạng thái vô minh không ngừng. Cùng lúc đó, chúng ta không mất đi Phật tính. Phật tính không bao giờ tách rời khỏi tâm dù chỉ một giây. Mặc dù chúng ta không tách rời khỏi nó, chúng ta không biết nó, và vì thế, trôi lăn trong luân hồi.

Bây giờ là lúc để giải phóng bản thân khỏi luân hồi. Nếu chúng ta không làm vậy trong đời này, nó sẽ không tự diễn ra. Chúng ta phải chăm lo cho bản thân. Ngay bây giờ, chúng ta có khả năng thọ nhận giáo lýthực hành Pháp. Điều này không đúng sao? Chẳng phải sẽ tốt hơn nếu không tiếp tục hành xử như con vật, chỉ tập trung vào ăn ngủ và để thời gian trôi qua? Tại sao không nắm lấy tương lai của mình?

Chúng ta có thể nhận ra bản tính bởi chúng ta đã trải nghiệm lòng từ ái vĩ đại của một bậc giác ngộ hoàn toàn đã hiển bày trên cõi giới này. Đức Phật không chỉ xuất hiện, ngài đã thuyết giảng những chỉ dẫn quý giá về cách thức chứng ngộ Phật tính. Và những giáo lý về cách thức nhận ra tinh túy giác ngộ này vẫn được trao truyền nhờ dòng truyền thừa không gián đoạn các đạo sư vĩ đại.

“Vô minh tỏa sáng như trí tuệ” nghĩa là nhận ra rằng Phật tính tràn khắp mọi hữu tình chúng sinh. Chúng ta không mất nó; nó không bao giờ tách rời khỏi tâm chúng ta dù chỉ một giây. Phật tính này luôn hiện hữu, và thứ duy nhất che lấp nó là ý nghĩ của chúng ta. Không gì khác che lấp nó. Tinh túy bị che lấp bởi sự hiển bày. Điều này giống như mặt trời chiếu sáng rạng ngời trên bầu trời quang. Thứ duy nhất che lấp mặt trời là những đám mây. Và những đám mây tự chúng được tạo thành nhờ sự hiển bày của mặt trời – ánh sáng và hơi ấm. Chúng không đến từ một nơi nào khác. Sức nóng từ mặt trời khiến nước bốc hơi và tạo thành những đám mây che lấp mặt trời. Giống như vậy, sự hiển bày những chú ý của chúng ta mang hình tướngý nghĩ vô minh che lấp chúng ta. Nói cách khác, chúng ta đang che lấp Phật tính của mình, và bây giờ là lúc để xua tan vô minh này.

Hiện nay, chúng ta có đủ phước báu để có những giáo lý tuyệt vời, điều chỉ cho chúng ta cách thức nhận ra bản tínhđạt được giải thoát. Nếu chúng ta lựa chọn sẽ duy trì bị che lấp bởi hành động và cảm xúc, chúng ta sẽ không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp sau. Chúng ta sống ngày này qua ngày khác. Nếu mai chúng ta chết, hôm nay chúng ta cũng không biết. Chúng ta thực sự ngu ngốc như lũ vật. Từ một quan điểm khác, thậm chí chúng ta còn ngốc hơn, bởi vì chúng ta có thể nhận giáo lý về cách thức thực hành; thực sự, chúng đã có thể đã làm vậy. Nếu chúng ta không áp dụng chúng, chúng ta còn ngu hơn nhiều so với một con vật. Động vật không thể làm được gì; chúng ở trong thân tướng không thể thọ nhận giáo lý. Nhưng không may là, chúng ta, những con người, kẻ đã được giới thiệu con đường tâm linh, có thể lãng phí cơ hội quý giá này. Điều đó sẽ thật đáng buồn!

Nhờ lòng từ bi của Tam Bảo, bây giờ chúng ta có phước báu để thọ nhận giáo lý, nhờ đó có thể để vô minh chói ngời như trí tuệ. Vô minh ở đây nghĩa là tin rằng mọi thứ là cái mà nó không phải là. Vô minh giống như nhầm lẫn. Làm sao chúng ta có thể chuyến hóa vô minh thành trí tuệ? Đầu tiên, chúng ta cần hiểu vô minh là gì. Vô minh là việc nhầm lẫn điều nó không phải với điều nó là. Nó ngược lại với việc biết điều nó là như nó là. Ở Tây Tạng có một loại thuốc gọi là datura, thứ mà khi bạn uống, sẽ khiến người khác xuất hiện như thể họ có năm mười cái đầu hay ba mươi tay. Chúng ta biết rằng điều này là không thể trên thế giới này; đây là ví dụ về vô minh.

Phật tính có ba phẩm tính của Thân, Khẩu và Ý giác ngộ. Phẩm tính bất biến, giống như sự mở rộng của hư không được gọi là thân kim cương. Phẩm tính không ngừng gọi là khẩu kim cương. Phẩm tính không sai lầm, khả năng nhìn nhận mà không cần ý nghĩ, được gọi là ý kim cương. Ba điều này – thân, khẩu và ý kim cương – luôn hiện hữu như là bản chất của mọi hữu tình chúng sinh. Tất cả những gì chúng ta cần làm là nhận ra điều này. Mặc dù chúng ta có ba kim cương, chúng ta không biết điều đó, và tiếp tục trôi lăn trong luân hồi. Vô minh thông thường che lấp ba kim cương thiên bẩm của chúng ta. Thân vật lý với thịt và máu che lấp thân kim cương. Những từ ngữâm thanh chúng ta phát ra, thứ bị gián đoạn và được tạo ra gián đoạn, che lấp phẩm tính không ngừng của khẩu kim cương. Và những ý nghĩ đến và đi của chúng ta, không ngừng khởi lên và ngừng lại từ lúc này qua lúc khác, ngày qua ngày, đời này sang đời khác, chính xác là thứ che lấp khẩm tính không sai lầm của ý kim cương. Điều cần thiết bây giờ là nhận ra bản tính của bản thân, thay vì vô minh như vậy.

 

Trích: Như nó là (tập 1), Tulku Urgyen Rinpoche.

Việt dịch: Pema Jyana.

 

Bài liên quan (cần xem thêm):

BỐN PHÁP CỦA GAMPOPA - Dorje Chang Kalu Rinpoche, Thanh Liên dịch

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11542)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13530)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14120)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10296)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10763)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11313)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11268)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11418)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10159)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9955)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10688)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42173)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10473)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11846)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10006)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10450)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10611)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45726)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11313)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11309)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10616)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13453)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12363)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11012)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10604)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12305)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11156)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11834)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29240)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9202)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10531)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10221)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10569)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10902)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10798)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32114)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27373)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11850)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12274)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10436)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11695)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10417)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10768)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28051)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10140)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10271)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10635)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10761)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10390)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10687)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11462)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18238)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10513)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12837)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11747)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29164)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28571)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13313)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22760)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13428)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11554)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13797)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25693)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26055)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22290)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12058)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11789)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33161)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31829)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12013)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22465)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11954)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14211)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13343)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12056)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10387)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11223)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13290)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34502)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12608)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12216)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13526)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12616)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12960)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16287)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11730)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27372)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28416)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13394)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant