Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mặt hồ tĩnh lặng

30 Tháng Mười 201200:00(Xem: 32861)
Mặt hồ tĩnh lặng

MẶT HỒ TĨNH LẶNG

Thiền sư Ajahn Chah

Tỳ kheo Khánh Hỷ chuyển dịch

mathotinhlang-ajahnchah

Mục Lục




Phần I

Đạo giản dị
Trung đạo
Chấm dứt hoài nghi
Bỏ hết ngôn từ sách vở và tự mình nhận thức
Tâm lý học Phật giáo
Học hỏikinh nghiệm
Gà hay trứng?
Những tên trộm trong tâm bạn
Chánh kiến
Bỏ đói phiền não
Hạnh phúcđau khổ
Tâm phân biệt
Theo Thầy
Cái gì còn mới thì đều tốt đẹp
Hãy để cho cây mọc tự nhiên
Tại sao phải hành thiền?
Thiền trong mọi tác động
Giữ rắn trong tay
Giới hạnh


Phần III

Quên thời gian đi!
Vài gợi ý trong việc hành thiền
Quán chiếu mọi vật
Lá rụng
Đời sống một nhà sư
Thu thúc
Giới là dụng cụ
Sang trái, sang phải
Chữa trị bất an
Ý nghĩa sâu xa của việc tụng kinh
Chân lý nằm trong những công việc hèn mọn
Sống hòa thuận, hài hòa với người khác
Tiết chế lời nói
Đối diện với tham ái
Hoàn cảnh có thể thay đổi nhưng tâm vẫn thế
Bạn trốn đi đâu bây giờ?
Đi tìm đức Phật
Hãy nương tựa vào chính mình
Học hỏi cách dạy học



Phần II

Giới, Định và Tuệ
Đừng bắt chước
Thế nào là tự nhiên?
Điều hòa
Hãy nương tựa vào mình
Biết mình biết người
Để mặc người ta
Tình yêu thật sự
Học hỏi qua cuộc sống
Xả bỏ
Đương đầu với tâm mình 
Chánh niệm
Cốt tủy của thiền minh sát
Thiền hành
Ai mắc bệnh đây?
Tập chú tâm
Kham nhẫn và điều hòa
Bảy ngày đắc đạo
Học tụng kinh


Phần IV

Hãy đọc tâm mình
Giữ giáo pháp đơn giản
Thiền cách nào hay nhất?
Bữa ăn tuyệt vời
Cái cốc của Ngài Ajahn Chah
Một buổi lễ thiêng liêng và một ngày nóng bức
Chân phép mầu
Pháp hành của người chủ nhà
Vô ngã
Ngắn và thẳng
Nước ngầm
Niềm vui của đức Phật
Lượm xoài
Tôi nói ngôn ngữ Zen
Chiêng im lặng
Không có gì đặc biệt
Bên trong bạn không có gì cả

Vấn đạo với Ajahn Chah


-ooOoo-

Lời giới thiệu

ajahn_chah_painting_largeGiả sử bạn đến Á Châu vào khoảng thập niên 80 để tìm hiểu những lời dạy sống thực của Đức Phật, để khám phá xem hiện nay còn có những nhà sư, những ni cô sống cuộc đời đơn giản trong rừng sâu, hàng ngày mang bát xin ănchuyên tâm hành thiền không? Dĩ nhiên bạn từng xem kinh sách và biết rằng chính Đức Phật và hàng môn đệ đã du hành khắp miền thôn dã và những khu rừng rậm Ấn Độ kêu gọi mọi người hãy cùng Ngài trau giồi trí tuệ, mở rộng tình thương, sống đời giản dị của một khất sĩ, hi sinh tất cả cho sự bình an tỉnh thức.

Bạn có thể tìm thấy những hình ảnh đẹp đẽ ấy sau hơn hai mươi lăm thế kỷ biến đổi chăng? Những lời dạy xa xưa ấy có còn được áp dụngthích hợp với xã hội mới mẻ và bộ óc tân tiến của chúng ta không?

Bạn có thể đáp máy bay xuống một phi trường hiện đại gần Bangkok, Colombo hay Rangoon. Bạn có thể ngồi taxi dạo qua các đường phố Á Châu tấp nập, ngắm những vỉa hè đầy trái cây miền nhiệt đới hay nhìn những chiếc xe buýt đầy ắp người tới lui không ngớt. Qua vài góc phố bạn lại thấy những ngôi chùa nóc vàng đồ sộ, những ngọn tháp cao vút tân kỳ. Đó là nơi những nhà sư, những ni cô lưu trú để học hỏi kinh điển cổ xưa. Họ thường tụng kinh hàng ngày và giảng dạy giáo pháp cho mọi người. Nhưng đó không phải là nơi bạn có thể tìm thấy những gì bạn muốn. Nếu bạn muốn thấy nếp sống giản dị trong rừng, muốn tìm những người hành thiền với chiếc y vàng khiêm nhường và chiếc bát đơn giản như Đức Phật, bạn phải rời phố thị náo nhiệt, bỏ lại sau lưng những ngôi chùa đồ sộ, những ngọn tháp cao vút ấy. Nếu xứ bạn đến là Thái Lan, một xứ có nhiều chùa và nhà sư nhất, bạn phải đáp xe lửa ở gần nhà ga Hualampang đông đúc, đón chuyến xe sớm nhất đi lên miền cực Bắc rừng nuí âm u hay xuống tận miền Nam đất bằng hoang dã.

Chỉ vài giờ sau bạn đã ra khỏi phố thị ồn ào, xa rời những khu thương mại sầm uất và không còn nhìn thấy những căn nhà lụp xụp nằm dài hai bên đường xe lửa. Bạn đi xuyên qua những cánh đồng lúa hình bàn cờ được phân chia một cách đều đặn và nhịp nhàng bằng những bờ ruộng, những con lạch và những đường dẫn nước nhỏ. Ở tận chân trời của biển lúa ấy, cứ vài ba dặm bạn lại thấy những hòn đảo nổi, đó là khóm kè hay khóm chuối rậm rạp. Nếu xe hỏa đến gần hơn một trong những hòn đảo nổi ấy, bạn sẽ thấy ẩn hiện trong khóm cây um tùm một mái chùa màu cam và những ngôi nhà gỗ đơn sơ. Đó là hình ảnh những ngôi làng Đông Nam Á.

Mỗi ngôi làng chừng năm trăm đến hai ngàn dân là đã có ít nhất một ngôi chùa. Chùa là nơi cầu nguyện, lễ bái, hội họp, đồng thời cũng là ngôi trường làng. Đây là nơi phần lớn thanh niên trai tráng đến tuổi hai mươi vào xuất gia trong khoảng thời gian một năm hay ba tháng, học hỏi Đạo Pháp hầu trở nên một thành viên trưởng thành của xã hội. Chùa được điều hành bởi một vài nhà sư lớn tuổi, giản dị và thiện chí. Những nhà sư này học hỏi một số kinh sách cổ, hiểu biết nghi lễgiáo lý căn bản để đảm nhận vai trò như một giáo sĩ của làng. Chùa là một thành phần cũng là một đơn vị tô điểm thêm cho nét đẹp của làng. Nhưng đấy không phải là nơi mà bạn phải tìm.

Xe hỏa của bạn phải đi thẳng mãi lên miền Bắc, đến kinh đô cũ của xứ Auddhaya, với di tích những ngôi đền lộng lẫy đã bị sụp đổ và những lâu đài cổ kính hoang tàn vì bị cướp phá hàng thế kỷ trước đây trong trận chiến tranh với vương quốc lân cận. Lưu lại trong đám hoang tàn đổ nát ấy là những ngôi tượng Phật khổng lồ, điềm nhiên qua sương gió của thời gian.

Bây giờ xe lửa của bạn rẽ về hướng Đông đến tận biên giới Lào, xuyên qua cao nguyên Korat. Bạn phải mất vài giờ nữa để băng qua bình nguyên với ruộng lúa và làng mạc, nhưng dần dần ruộng đồng và làng mạc trở nên thưa thớtnghèo nàn hơn. Ở đây bạn không còn thấy những rạch nước và những ngôi vườn cây trái sum sê của miền Trung Thái. Cảnh vật trở nên hoang dã, nhà cửa có vẻ nhỏ nhắn và đơn sơ hơn. Những ngôi chùa làng vẫn còn lấp ló, nhưng cũng nhỏ bé và đơn giản hơn. Ở đây lối sống cổ xưa tự túc được duy trì. Bạn có thể nhìn thấy những phụ nữ khóac mình bằng chiếc khăn dệt tay, nép bên ngưỡng cửa e thẹn nhìn khách lạ, những nông dân đang chăm chỉ làm việc ngoài đồng dưới ánh nắng thiêu đốt và bọn trẻ con chăn trâu trong những con mương nước đục ngầu dọc theo đường xe lửa.

Vùng thôn dã ít phát triển này là nơi còn duy trì được truyền thống của các sơn tăng. Đây là vùng giữ được vẻ thiên nhiên của rừng rậm, nuí đồi và những vùng đất hoang chưa bị bàn tay con người sửa đổi. Nhiều thế kỷ qua chốn quê mùa này đã hỗ trợ tích cực cho các tu viện với những nhà sư sống bình lặng, đơn giản trong rừng. Là một khu hoang sơ ít người biết đến, nhưng nơi đây đã đóng góp lớn lao vào việc duy trìthể hiện sự giác ngộ, giải thoát của Đức Phật. Phần lớn những nhà sư ở đây không đóng vài trò của một giáo sĩ làng, không dạy học cũng không học hỏi, nghiên cứu, duy trì kinh điển cổ xưa như những nơi khác. Chủ đích của họ là sống trọn vẹnthực hành việc quán xét và bình lặng tâm hồn bằng chính con tim và khối óc của mình; đó là thực hiện những lời giáo huấn của chư Phật.

Nếu bạn rời xe lửa, dùng xe buýt hay thuê một chiếc xe riêng, rẽ sang một con đường đất để đến một tu viện như thế, bạn sẽ tìm thấy được gì? Những lời dạy của Đức Phậtphương pháp hành thiền có còn thích hợp với thời đại này nữa không? Thiền Minh Sáttỉnh thứccần thiết cho những người sống trong một xã hội tân tiến và phức tạp không?

Đến nơi, bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên khi biết đã có nhiều người Tây phương tìm đến đây trước bạn. Từ năm 1965 đã có hàng trăm người Âu Mỹ như bạn đến thăm viếnghọc hỏi trong những khu rừng hoang dã này. Một số đến học hỏi một thời gian ngắn rồi trở về, đem những gì mình đã học hỏi áp dụng vào đời sống hàng ngày. Một số khác đến ở lâu hơn, hoặc xuất gia tu một vài năm đến năm bẩy năm, rồi trở về. Một số khác nữa, nhận thấy đời sống trong rừng phong phúcần thiết nên quyết định ở lại luôn cho đến bây giờ.

Mỗi nhóm đều nhận được những lời dạy trực tiếp qua con tim và khối óc của mình và được cung ứng một lối sống ý thứcsáng suốt.

Mới đầu phương pháp có vẻ dễ dàng và giản dị; nhưng sau một thời gian cố gắng thực hành lối sống của Đức Phật, họ sẽ thấy đây không phải là việc giản dị dễ dàng. Mặc dầu ở đây đòi hỏi một sự cố gắng không ngừng nghỉ, nhưng sau một thời gian thực hành, họ sẽ tìm được những gì mà họ muốn tìm. Họ sẽ cảm thấy rằng trên thế gian này không có gì quí báu hơn việc tìm ra được Pháp bảo hay chân lý trong chính cuộc sống của họ.

Ngay từ lúc bước chân đến chốn thiền lâm như chùa Wat Pah Pong này, bạn sẽ thấy tinh hoa của pháp hành nằm ở đây. Ngoài tiếng reo của lá rừng, bạn không còn nghe được một âm thanh nào khác nữa. Những nhà sư làm việc hay kinh hành trong yên lặng và tỉnh thức. Thiền Viện Wat Pah Pong chiếm một diện tích hơn trăm mẫu tây, chia làm hai khu tăng ni riêng biệt. Những mái lều thô sơ đạm bạc dựng lên một cách khiêm nhường trong rừng cây xanh tươi và lối mòn yên tĩnh. Trung tâm của tu viện là một thiền đường lớn, trai đườngchánh điện. Toàn thể cơ sở trong rừng tạo nên một khung cảnh giản đơn, thoát tục khiến người đến viếng có cảm tưởng như mình đã đến nơi giải thoát.

Những nhà sư tụ tập ở những tu viện như thế này thường nép mình trong khuôn khổ kỷ luật và tri túc gọi là "hạnh đầu đà." Thực hành hạnh đầu đàtruyền thống của những nhà sư sống trong rừng. Họ tự nguyện sống khắc khổ như thời kỳ Đức Phật, thọ trì mười ba pháp đầu đà: tiết chế trong việc thọ nhận thức ăn, y phục, thuốc men và chỗ ở. Điều chính yếu của pháp hành này là hạn chế tư hữu, chú tâm vào việc hành thiền, mỗi ngày đi khất thực một lần. Lối tu hành thanh cao này còn được giữ gìn trong những khu rừng sâu Miến Điện, Thái Lan và Lào. Đây là những khu đất hoang có nhiều hang động, là chốn lý tưởng cho những người tích cực hành thiền. Những nhà sư tu hạnh đầu đàtruyền thống là những vị du tăng, sống đơn độc hay từng nhóm nhỏ, thường di chuyển đây đó, không ở hẳn một chỗ nào. Nơi tạm trú của họ là những chiếc "lều dù" đơn sơ.

Trong cuốn sách này chúng tôi sưu tập và phiên dịch những lời dạy về Pháp Hành của Ngài Ajahn Chah, Tăng trưởng Thiền viện Wat Pah Pong, một trong những thiền viện trong rừng.

Ajahn Chah và thầy của Ngài là Thiền sư Ajahn Tong Rath và Ajahn Mun đã bỏ ra nhiều năm kinh hànhngồi thiền trong rừng sâu. Những lối dạy trực tiếp và đầy hiệu năng đã được các ngài và những vị sơn tăng khác giảng dạy không phải nhằm vào những người muốn tìm hiểu, học hỏi Phật giáo để thỏa mãn tri thức hay thực hành Phật giáo bằng nghi thức thờ cúng, mà nhằm cho những ai muốn thanh lọc tâm ý và quan kiến sai lầm của mình bằng cách thực sự áp dụng những lời dạy của Đức Phật vào đời sống.

Những vị thiền sư nổi tiếng sống trong rừng thường được thiện tín tìm kiếm và mời ra dạy dỗ. Để đáp lại lòng nhiệt thành của những người ham học hỏi đạo giải thoát, những vị thiền sư phải ngưng du hành, trú lại một khu rừng nào đó và sau đấy những thiền viện hành hạnh đầu đà được xây dựng. Với đà gia tăng dân số trong vòng một thế kỷ trở lại đây, thật khó mà tìm thấy những khu rừng dành cho các du sĩ; do đó, những thiền viện trong rừng dành cho các thiền sư trước cũng như hiện nay trở thành nơi trú ngụ của các du sĩ hay của những nhà sư thích hành thiền.

Sau một thời gian du hành đây đó để hành thiền, Ngài Ajahn Chah trở về định cư trong một khu rừng rậm gần nơi sinh quán của mình và thiền viện Wat Pah Pong được xây dựng nên. Đây là một khu rừng hoang vắng, được xem là nơi đầy rắn độc, cọp beo và ma quỷ, nhưng là một nơi rất lý tưởng cho những sơn tăng. Từ ngày Ngài Ajahn Chah đến trú ngụ ở khu rừng này, nhiều thiền viện đã mọc lên quanh đó.

Từ những chòi tranh đơn sơ trong rừng, Wat Pah Pong đã phát triển nhanh chóng và trở thành một trong những trung tâm thiền hoàn chỉnh ở Thái Lan. Nhờ tài năngtiếng tăm của Ngài Ajahn Chah, du khách và những người mộ đạo đến với thiền viện ngày một đông. Để đáp ứng nhu cầu tu học của mọi người, hơn năm mươi chi nhánh đã được mở ra khắp xứ Thái Lan do những thiền sư tu học từ thiền viện Wat Pah Pong đảm nhiệm việc giảng dạy, kể cả một chi nhánh gần Wat Pah Pong dành riêng cho những thiền sinh Tây phương muốn đến học thiền với Ngài Ajahn Chah. Trong những năm gần đây một số chi nhánh đã được mở ra ở các nước Tây phương. Một trong những chi nhánh nổi tiếng là một thiền lâm lớn lao, qui mô, đó là Thiền viện Chithurst ở Anh quốc do Thiền sư Ajahn Sumedho, một trong những học trò đầu đàn người Tây phương của Ngày Ajahn Chah, điều hành.

Những lời giảng dạy của Ngài Ajahn Chah bao gồm những gì gọi là "Cốt tủy của Thiền Phật Giáo", phương pháp thực hành đơn giản và trực tiếp để an tâm và mở mang trí tuệ, đạt đến sự sáng suốt thực sự. Phương pháp hành thiền tỉnh thức hay minh sát này là một lối thực tập thiền quán của Phật Giáo được bành trướng nhanh chóng ở Tây phương. Những lời chỉ dẫn của các vị sư hay các cư sĩ đã từng tu học trong những thiền viện trong rừng hay tại những trung tâm thiền tích cực, cung ứng cho chúng ta một phương pháp phổ thông và trực tiếp để huấn luyện thân tâm. Thiền Phật Giáo dạy cho chúng ta làm thế nào để đối trị với tham lam, sợ hãi, lo âu, đồng thời cũng dạy chúng ta làm thế nào để học được kiên nhẫn, trí tuệvị tha. Cuốn sách này nhằm mục đích cung ứng những lời hướng dẫn và ý kiến cho những ai muốn thực tập thiền.

Ngài Ajahn Chah bắt đầu hành thiền từ lúc còn thơ ấu. Ngài đã đi nhiều nơi và ẩn cư nhiều năm trong rừng để hành thiền dưới sự hướng dẫn của những vị sơn tăng đắc đạo. Ngài vui cười mà kể lại rằng, lúc còn nhỏ khi chơi trò chơi với chúng bạn, Ngài thích làm sư trong khi các trẻ khác thích chơi nhà cửa. Ngài đóng trò ôm bình bát đi khất thực và bảo lũ trẻ bỏ bánh kẹo cho mình. Ngài đã hành thiền rất tích cực và kỷ luật, nhờ thế Ngài đã thành công. Do đó Ngài đòi hỏi học trò của Ngài phải có đức tính kiên nhẫnchịu đựng. Lúc còn là một vị sư trẻ, một ấn tượng sâu xa đã ảnh hưởng và hỗ trợ rất nhiều cho việc tu học của Ngài. Đó là lúc cha Ngài sắp mất, Ngài có dịp ngồi bên giường bệnh của cha nhiều ngày trực tiếp đối diện với sự suy tàn và sự chết. Ngài Ajahn Chah thường nói: "Khi chúng ta không hiểu rõ sự chết thì đời sống thật nhiều rối rắm và lầm lẫn."

Kinh nghiệm này là một động cơ mạnh mẽ giúp Ngài nỗ lực hành thiền để tìm cho ra nguyên nhân sự đau khổ của mọi người và nguồn cội của sự an lạc giải thoátĐức Phật đã chỉ dạy. Thế là Ngài rũ bỏ tất cả cho sự tìm kiếm chân lý. Ngài đã gặp rất nhiều khó khăn và đau khổ, kể cả việc Ngài đâm ra hoài nghi mọi chuyện và cơ thể bệnh hoạn. Nhưng Ngài vẫn kiên nhẫn ngồi, ngồi và theo dõi, mặc dầu có nhiều ngày Ngài chỉ có khóc mà chẳng làm được gì cả. Ngài gọi đó là sự thách thức hay liều lĩnh với việc hành thiền của Ngài. Cuối cùng sự đương đầu đó đã đem lại trí tuệ, khóai hoạt tinh thần và khả năng kỳ diệu để giúp đỡ người khác.

Ngài Ajahn Chah giảng dạy bằng hai ngôn ngữ Thái và Lào. Những lời dạy trong cuốn sách này phản ảnh một tinh thần vui vẻ trong việc hành thiền. Đây là những lời dạy nhằm vào những người đã từ bỏ đời sống thế tục theo tu trong rừng với Ngài Ajahn Chah. Tuy thế, tinh thần giáo pháp diễn đạt ở đây có tính cách trực tiếp và phổ thông, thích hợp cho mọi chúng ta. Ngài nhấn mạnh đến những vấn đề căn bản của con người: tham lam, sợ hãi, sân hận, và si mê. Ngài nhắc đi nhắc lại là chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức trước những trạng thái phiền não này, luôn luôn tỉnh thức trước những đau khổchúng ta đã gây ra trong đời sống và trong thế giới chúng ta. Những lời dạy này là Tứ Diệu Đế, bài pháp đầu tiên Đức Phật giảng dạy về: Khổ, nguyên nhân khổ và con đường đi đến diệt khổ. "Phải nhìn thấy tại sao ái dục gây ra đau khổ," đó cũng là câu mà Ngài Ajahn Chah thường xuyên nhắc nhở. "Hãy học hỏi nơi kinh nghiệm của chính bạn. Hãy nhìn thấy sự thay đổi bản chất liên tục của hình sắc, âm thanh, mùi vị, cảm giáctư tưởng. Hãy ý thức bản chất vô thường, bất toại nguyệnvô ngã của đời sống. Chỉ khi nào chúng ta thấy và thừa nhận ba đặc tính ấy, chúng ta mới có thể sống trong an bình." Truyền thống tu thiền trong rừng thích hợptác động trực tiếp trên sự hiểu biết và sự đối kháng của chúng ta về ba chân lý trên; truyền thống này cũng có hiệu năng trực tiếp trên nỗi sợ hãi, sân hậnham muốn của chúng ta. Ngài dạy chúng ta phải đối diện với những phiền não của chúng ta và dùng pháp từ bỏ, kiên nhẫn, tỉnh thức để chế ngự chúng. Ngài khẩn nài chúng ta cố gắng thực hành để đừng rơi vào chỗ buồn rầu, lo lắng; hãy tự huấn luyện để thấy rõ ràng và trực tiếp bản chất thật sự của tâm và của vạn hữu. Chúng ta sẽ cảm thấy sảng khóai, thích thú trước sự trong sáng, vui vẻ về phương pháp thực hành trực tiếp tại sơn lâm của Ngài Ajahn Chah. Bao quanh Ngài là sự tỉnh thức trong tinh thần tìm hiểu, vui vẻ, ngạc nhiên, hiểu biếtbình an nội tại sâu xa. Mong rằng những lời giới thiệu và những câu chuyện trong rừng thiền ghi lại nơi đây phản ảnh được phần nào tinh thần ấy và khiến bạn có cảm hứng trong việc hành thiền.

Hãy thận trọng lắng nghe Ngài Ajahn Chah và ghi khắc vào tâm những lời dạy của Ngài, bởi vì Ngài dạy thực hành chứ không lý thuyết, và những điều Ngài dạy liên hệ đến hạnh phúctự do của con người. Trong những năm đầu tiên khi Wat Pah Pong bắt đầu hấp dẫn nhiều du khách đến viếng, một loạt khẩu hiệu được gắn dọc lối đi: "Bạn đang ở đây, đến để thăm viếng" và "Xin giữ yên lặng, chúng tôi đang hành thiền." Một câu khác ghi, "Thực hành Pháp và thấy rõ chân lý là điều giá trị nhất trong đời sống. Không phải đã đến lúc chúng ta bắt đầu sao?" Tinh thần của câu này Ngài Ajahn Chah nói trực tiếp với chúng ta, mời gọi chúng ta hãy giữ tâm an tịnh để khám phá chân lý trong đời sống. Không phải đã đến lúc chúng ta bắt đầu sao?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11548)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13539)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14123)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10302)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10768)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11317)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11269)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11425)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10163)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9962)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10690)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42189)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10481)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11855)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10008)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10451)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10612)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45737)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11317)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11316)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10629)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13454)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12364)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11015)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10608)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12306)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11163)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11838)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29249)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9215)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10532)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10226)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10578)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10908)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10799)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32125)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27378)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17775)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11856)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12282)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10441)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11696)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10420)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10781)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10142)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10280)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10640)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10762)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10394)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11470)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18243)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10517)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12843)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11750)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29171)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28576)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28277)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13314)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22770)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11563)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13803)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25709)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26068)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22293)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12064)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11793)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33166)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31834)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12018)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39612)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22474)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11956)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14217)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13344)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12063)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10391)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11224)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13295)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34509)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12614)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12223)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13529)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12618)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12963)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16292)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11733)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27377)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28423)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13397)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant