Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tư duy lược yếu pháp

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 15338)
Tư duy lược yếu pháp

TƯ DUY LƯỢC YẾU PHÁP

Tam tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập.
Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn

(Được xếp vào tập T15 - Kinh số 617 - Tổng cộng kinh này có 1 quyển, đây là quyển số 1.)

I. LỜI DẪN

tuduyluocyeuphap-thichnguyenchonThân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng cũng giống như vậy. Đức Phật dạy: “Máu đã cạn, thịt đã hết, nhưng còn gân xương thì vẫn một lòng tinh tấn”. Như người bị cháy áo, bấy giờ trong lòng chỉ nghĩ đến việc dập lửa chứ không nghĩ gì khác. Muốn ra khỏi chốn khổ phiền não cũng giống như thế, phải chịu đựng bệnh tật, đói khát, nóng rét, sân hận… đồng thời tránh xa những nơi ồn náo, ở chỗ vắng lặng. Vì sao? Vì âm thanh hay làm loạn tâm định, như lạc vào rừng gai.

Muốn được Sơ thiền, trước tiên phải tu một trong các pháp quán: quán bốn tâm vô lượng từ bi hỉ xả, quán bất tịnh, quán nhân duyên, niệm Phật tam-muội, quán sổ tức. Nếu là người nhạy bén cầu các cảnh giới thiền, thì nên quán năm dụcvô số xấu xa, tệ hại, như hầm lửa, như nhà xí. Lại nhất tâm quán cảnh Sơ thiền như ao nước trong mát, như lâu đài. Hành trì như thế sẽ trừ được năm món ngăn che, chứng được Sơ thiền. Như khi tiên nhân Ba-lợi học thiền, trên đường đi, ông thấy một tử thi người nữ trương sình, hôi thối. Ông chú tâm ghi nhớ cảnh tượng ấy rồi quán thân mình cũng giống như vậy. Khi về đến nơi vắng lặng ông tiếp tục chuyên tâm tư duy, thì được Sơ thiền.

Khi Đức Phật tọa thiền bên bờ sông Hằng, có một tì-kheo ít học đến thưa:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để đắc đạo?

- Chớ lấy vật của người khác._ Đức Phật dạy.

Vị tì-kheo này nghe xong, trong tâm thông đạt “pháp không”, liền chứng Sơ quả. Bấy giờ có một tì-kheo học rộng, lấy làm lạ vì bản thân không có sở đắc gì, nên cũng đến hỏi Phật. Đức Phật dạy:

- Ông hãy lấy một viên sỏi nhỏ dưới sông Hằng lên, rồi dùng nước trong bình Quân-trì rửa sạch.

Sau khi vị tì-kheo làm đúng như lời dạy. Đức Phật lại hỏi:

- Nước ở đâu nhiều hơn, trong sông Hằng hay trong bình?

- Bạch Thế Tôn! Nước trong bình không thể nào so sánh được!_ Vị tì-kheo đáp.

- Tuy nhiều, nhưng không thể chấm chút nước thấm ướt ngón tay để rửa sạch đồ vật, thì nhiều cũng vô dụng!

Cho nên hành giả phải siêng năng dùng ngón tay trí định rửa sạch cấu uế trong tâm. Nếu không thì không thể lìa khổ.

 

II. PHÁP QUÁN BỐN TÂM VÔ LƯỢNG

Người cầu Phật đạo, trước tiên nên thực hành bốn tâm vô lượng. Vì các tâm ấy vô lượng nên công đức cũng vô lượng. Tất cả chúng sanh được chia là ba nhóm: Một là cha mẹ, thân thuộc, người cùng thôn xóm, thiện tri thức. Hai là kẻ thù oán, ganh ghét luôn muốn hại mình. Ba là người không thân cũng chẳng oán. Người cầu Phật đạo nên khởi tâm từ xem ba nhóm người này như thân thuộc, xem bậc già nua như cha mẹ, xem người trung niên như anh em, xem các em nhỏ như con cháu. Luôn luôn tu tập tâm từ như thế. Người oán thù ta là do duyên xấu, khi nhân duyên xấu đã tận thì trở thành thân. Oán thân thật không định. Vì sao? Vì đời này là oán, đời sau lại thành người thân. Nếu khởi tâm giận dữ, thì sẽ mất lợi ích lớn, phá phước nhẫn nhục, mất nghiệp tâm từ, là nhân duyên chướng ngại Phật đạo. Vì thế không nên sân hận, ganh ghét. Nên đối xử với giặc thù như thân thuộc, vì sao? Vì giặc thù là nhân duyên giúp ta được Phật đạo. Bởi nếu giặc thù không đối xử ác với ta, thì ta không có cơ hội thực hành nhẫn nhục. Thế thì giặc thù là thiện tri thức của ta, giúp ta thành tựu nhẫn nhục ba-la-mật. Đã thành tựu tâm từ đối giặc thù rồi, thì cũng sẽ khởi tâm từ, thương yêu, nhớ nghĩ đến tất cả chúng sanh khắp mười phương thế giới. Bấy giờ hành giả thấy các chúng sanh bị vô thường làm biến dị, các nỗi khổ già bệnh chết bức ép, thấy các loài côn trùng nhỏ bé không an ổn thì liền khởi tâm bi. Thấy chúng sanh có được niềm vui ở đời này và đời sau, có được niềm vui sanh lên cõi trời, có được niềm vui từ đạo hiền thánh thì liền khởi tâm hỉ. Khi không thấy chúng sanh có việc khổ việc vui, không lo không mừng, dùng trí tuệ tự chế ngự, thì hành giả chỉ duyên chúng sanhkhởi tâm xả. Đó gọi là bốn tâm vô lượng. Vì tâm từ trải khắp chúng sanh trong mười phương, nên gọi là vô lượng. Người cầu Phật đạo cần thường xuyên tu tập tâm này.

Nếu khởi tâm sân, phải xem như rắn bò lên người, như lửa cháy trên thân, cần cấp tốc đuổi trừ. Nếu tâm chạy vào cảnh năm dục và bị năm cái ngăn che, thì nên nỗ lực dùng sức trí tuệ cưỡng bắt về. Người tu tập tâm từ nên luôn nghĩ làm thế nào giúp chúng sanh được niềm vui giác ngộ. Cứ tu tập lâu ngày không gián đoạn như thế, nhất định sẽ lìa năm dục, trừ năm cái, vào Sơ thiền. Khi được Sơ thiền thì niềm hỉ lạc tràn ngập khắp thân, tâm sanh vui mừng đối với các pháp thiện, thấy những cảnh sắc tuyệt diệu. Đó là cửa đầu tiên vào Phật đạo, là phước đức nhân duyên thiền định. Khi đã thành tựu pháp quán bốn tâm vô lượng, thì luôn nhẫn nhục đối với chúng sanh, không bao giờ khởi tâm sân hận, đó là chúng sanh nhẫn. Đã được chúng sanh nhẫn, thì dễ được pháp nhẫn. Pháp nhẫn tức là không nghi các pháp chẳng sanh, chẳng diệt, rốt ráo không tướng. Nếu tin nhận pháp nhẫn này thì gọi là vô sanh nhẫn. Chứng vô sanh nhẫn sẽ được thọ kí Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thành tựu Phật đạo. Hành giả nên tu tập như thế.

 

III. PHÁP QUÁN BẤT TỊNH

Tham dục, sân hận, ngu si là những căn bệnh trầm trọng của chúng sanh. Quí thân tiếc mạng, đắm chìm trong các dục thì sanh sân hận. Sân hận làm cho điên đảo mê lầm thì trở nên ngu si. Bị ngu si che lấp nên ái luyến thân mình thân người mà khởi ý niệm cho là tịnh. Lâu ngày huân nhiễm vào tâm, thật khó phá trừ. Muốn trừ tham dục, phải quán bất tịnh. Sân hận là là do ngoại cảnh tác động, có thể dễ dàng phá trừ. Giống như việc chẻ tre, chẻ được đốt thứ nhất là khó, qua rồi thì phá những đốt còn lại rất dễ. Cho nên, nếu đã trừ được tham dục, thì sân và si tự phục.

Quán bất tịnhnghĩ tưởng thân này được sanh ra từ bào thai ở nơi bất tịnh. Dưới lớp da mỏng của thân sanh ra từ chỗ bất tịnh này cũng toàn là chất bất tịnh. Có bốn đại bên ngoài biến thành thức ăn thức uống cung cấp đầy đủ cho bốn đại của thân. Chú tâm quán sát từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, dưới lớp da mỏng ấy đâu có gì sạch sẽ. Nếu kể sơ lược thì có ba mươi sáu chất bất tịnh như: tủy não, máu mủ, đàm dãi, phân tiểu… Nếu nói chi tiết thì không thể kể hết. Giống như bác nông phu mở kho, thấy biết phân biệt tất cả các loại hạt, nào là mè, lúa, đậu, ngô… Cũng như vậy, hành giả dùng mắt tâm mở kho thân bốn đại này, thấy biết tất cả những vật bất tịnh như gan, phổi, ruột non, ruột già, bao tử cho đến các loài vi trùng hoạt động, rúc rỉa. Hành giả lại thấy rõ chín lỗ trên thân ngày đem tuôn ra chất bất tịnh. Như mắt đổ ghèn, tai có kết ráy, mũi miệng tuôn đàm dãi, cơ quan đại tiểu tiện thường tuôn ra phân tiểu. Dù có có quần che đậy, nhưng đúng là nhà xí. Thân như vậy, đâu thể cho là tinh sạch.

Lại quán sát thân này chỉ giả gọi là người, bốn đại hòa hợp, giống như phòng nhà. Trong đó xương sống như đòn dông, xương sườn là rui mè, các xương lớn như trụ cột, da là tường vách, thịt là vữa hồ. Toàn bộ đều hư giả, tạm thời kết hợp. Như thế cái gọi là “người” ấy ở đâu? Thân thật mong manh, không chân thật, như huyễn như hóa, biến diệt trong chớp mắt. Trên xương bàn chân thì có xương ống chân, trên ống chân lại có xương đùi, trên xương đùi thì có xương sống, trên xương sống lại có đầu lâu. Xương xương tiếp nối chống đỡ lẫn nhau, thật nguy hiểm, dễ đổ vỡ như trứng gà xếp chồng nhau. Quán sát kĩ thân này, đâu thấy có gì đáng quí để chấp lấy. Từ đó tâm sanh nhàm chán. Hành giả luôn nghĩ nhớ ba mươi sáu vật bất tịnh, quán sát phân biệt thật đúng đắn, thân mình như thế thì thân người khác cũng như thế. Nếu tâm không trụ nơi cảnh quán này thì phải chế phục kéo trở về, chuyên nghĩ đến các vật bất tịnh. Nếu tâm trụ các tướng ấy, thì thân nhẹ nhàng, dần dần tâm sẽ an vui. Tâm vẫn cứ không trụ, thì nên tự quở trách: “Từ vô số kiếp đến nay, ta luôn tùy thuận ngươi mà phải chịu muôn nghìn thống khổ trong ba đường ác. Từ hôm nay trở đi, ta sẽ chế phục ngươi. Ngươi hãy tùy thuận ta!”. Trách như vậy mà buộc tâm để thành tựu pháp quán. Nếu quá nhàm chán thân này, thì nên quán xương trắng, cũng sẽ được vào Sơ thiền.

Hành giả cầu Đại thừa, mạng chung sẽ tùy ý sanh đến trước Phật. Nếu không được vậy, chí ít cũng được sanh lên cõi trời Đâu-suất diện kiến bồ-tát Di-lặc.

 

IV. PHÁP QUÁN XƯƠNG TRẮNG

Quán xương trắng tức quán tưởng bóc sạch hết da, thịt, máu, gân trên thân người, chỉ còn thấy từng phần xương nối tiếp nương gá, chống giữ lẫn nhau. Bộ xương này trắng như ngọc, như tuyết, phát ra ánh sáng cũng như vậy. Nếu không thấy được xương trắng, thì phải nghĩ: “Như có người bị bệnh hủi, thầy thuốc bảo uống máu có màu trắng như sữa thì sẽ lành bệnh. Thế là mọi người làm cho tất cả những đồ vật trong nhà biến thành trắng. Sau đó dùng chén bạc đựng máu rồi bảo người bệnh: ‘Ông hãy uống sữa đi, nhất định lành bệnh!’. Người bệnh hủi nói là máu, thầy thuốc liền bảo: ‘Ta dùng vật màu trắng để chữa trị. Ngươi há không thấy những vật trong nhà toàn là màu trắng đó sao? Vì có bệnh nên thấy là máu, chỉ cần chuyên tâm nghĩ tưởng đó là sữa, chớ cho là máu’. Qua bảy ngày tưởng như thế, máu biến thành sữa. Như vậy, máu đỏ mà còn biến thành sữa trắng, huống gì xương thật là trắng mà còn không thấy được sao?”. Đã thấy xương trắng rồi, thì nên quán trong tướng xương trắng ấy, tâm niệm sanh diệt nối tiếp như chuỗi ngọc. Như tâm ý đã tưởng thấy, quán tưởng thân người khác cũng vậy. Nếu tâm sắp trụ tướng ấy, thì càng siêng năng, nỗ lực quán tưởng, không phế bỏ. Giống như khi dùi cây lấy lửa mà thấy khói, đào giếng mà thấy đất ướt, lại tiếp tục gia công, thì không bao lâu nhất định sẽ có lửa, được nước. Nếu tâm đã an tĩnh, thì mở mắt hay nhắm mắt đều thấy xương trắng sáng bóng một cách rõ ràng. Như mặt nước trong lặng thì soi thấy mặt mũi, nếu nước vẩn đục, thì không thấy được gì, nước khô cạn cũng không thể thấy ảnh tượng.

 

V. PHÁP QUÁN PHẬT TAM-MUỘI

Phật là Pháp vươngnăng lực giúp con người được các pháp thiện, vì thế người tu thiền, trước tiên nên niệm Phật. Niệm Phật có thể khiến cho tội nặng gây tạo từ vô lượng kiếp nhẹ mỏng, mà đạt đến thiền định. Người chí tâm niệm Phật, thì Phật cũng niệm người ấy. Như người được vua nhớ nghĩ đến, thì oan gia trái chủ không dám đến gần. Người niệm Phật, các pháp ác không thể đến quấy nhiễu. Như niệm Phật mà Phật không còn ở tại thế gian, thì làm sao quán niệm? Con người tin được không ngoài mắt thấy, vậy nên quán tôn tượng Phật cũng như Phật thật. Đầu tiên nhìn kĩ nhục kế, rồi đến sợi lông trắng giữa hai chặng mày, cuối cùng xuống đến chân. Lại từ chân nhìn kĩ lên đến nhục kế. Cứ như vậy ghi nhớ kĩ các tướng hảo của tôn tượng. Sau đó đến nơi an tĩnh, nhắm mắt tư duy, buộc tâm tại tôn tượng, không để xen một niệm nào khác. Nếu tâm nghĩ nhớ đến các cảnh khác, thì nên cố gắng thâu về. Tâm quán thấy đúng như ý đã ghi nhớ, tức đã đạt định quán tượng. Bấy giờ nên nghĩ: “Ta chẳng đến chỗ tượng, tượng cũng không lại chỗ ta, nhưng ta thấy được, là do tâm trụ nơi định tưởng”. Sau đó hành giả quán sanh thân Phật, thì cũng liền thấy rõ ràng như đang đối diện. Nếu tâm rong ruổi theo các duyên xấu, thì nên giống như người mẹ trông nom con trẻ không bao giờ để cho con rơi xuống hầm sâu, lạc vào đường hiểm. Niệm thì như con, hành giả giống như mẹ. Nếu tâm vẫn không an trụ thì nên trách: “Nghĩ rằng già, bệnh, chết đã đến rất gần. Nếu được sanh lên cõi trời đắm say năm món dục thượng diệu, sẽ không có phương pháp khéo léo để trị tâm. Nếu rơi vào ba cõi ác, thì chịu các nỗi thống khổ, sợ hãi, khiến tâm thiện không phát sanh. Ngày nay đã nhận diệu pháp, sao có thể không chí tâm nhớ nghĩ?”. Lại suy nghĩ: “Ta sanh ra vào thời mạt pháp sắp hết, giống như gióng trống mở cửa tù phóng thích tội nhân mà tiếng trống sắp dứt, một cánh cửa cũng đã đóng. Ta đâu thể chần chừ mà không mau chóng thoát ngục. Từ thế giới quá khứ vô thủy đến nay, những khổ não sanh tử mà ta đã trải qua thật vô lượng. Ngày hôm nay ta vẫn chưa thành tựu diệu pháp đã thọ học, mà giặc chết vô thường đến trong thoáng chốc, thân mạng này thật không thể bảo toàn. Chết đi rồi sẽ phải tiếp tục chịu khổ sanh tử trong vô lượng kiếp”. Cứ như thế, quở trách tâm thật gay gắt để tâm trụ tướng. Tâm đã trụ thì đi, đứng, nằm, ngồi đều thấy Phật. Sau đó tiếp tục quán sanh thân, pháp thân Phật. Thành tựu pháp quán đầu tiên rồi, thì việc lần lượt chế phục tâm cũng sẽ dễ dàng.

 

VI. PHÁP QUÁN SANH THÂN PHẬT

Sau khi quán tượng, thành tựu tâm tưởng, thì nhiếp ý vào định, liền thấy được sanh thân. Bấy giờ nên nương tượng mà quán niệm sanh thân. Bấy giờ quán Đức Phật ngồi nơi cội bồ-đề, toàn thân phát ánh sáng rực rỡ, hiển lộ tướng hảo rất kì đặc. Hoặc quán Đức Phật đang ngồi thuyết pháp tứ đế cho năm vị tì-kheo trong vườn Nai. Hoặc quán Đức Phật phóng ánh sáng rực rỡ thuyết giáo Bát-nhã tại núi Kì-xà-quật. Nên chọn một cảnh mà chuyên tâm quán tưởng, không để tâm rong ruổi theo duyên khác. Khi tâm tưởng đã an trụ thì liền được thấy Phật. Bấy giờ niềm hỉ lạc tràn ngập toàn thân, thấu đến xương tủy, giống như đang nóng bức mà vào ao nước trong mát, như đang rét mà được vào ngôi nhà ấm áp. Tất cả những niềm vui thế gian không thể sánh bằng.

 

VII. PHÁP QUÁN PHÁP THÂN

Đã thấy được sanh thân Phật trong hư không, thì nên nương sanh thânquán pháp thân bên trong. Pháp thân này đầy đủ mười lực[1], bốn vô sở úy[2], đại từ, đại bivô lượng nghiệp thiện. Giống như một người, trước tiên nghĩ đến cái bình vàng, sau đó quán sát hạt châu ma-ni vô giá trong bình. Pháp thân chân thật nhiệm mầu, trí tuệ siêu việt không gì sánh; pháp thân không gần cũng không xa, không khó cũng chẳng dễ, tất cả thể gian đều như ở trước mắt, không một ai lọt ra ngoài pháp thân; pháp thân thấu suốt tất cả các pháp. Chuyên tâm quán niệm như thế, không để gián đoạn. Nếu tâm rong ruổi ngoại duyên, nên nỗ lực thâu về.

Tất cả người trí, kẻ ngu lúc sắp chết, các căn hư hoại, có cảm giác như đang rơi vào vực sâu đen ngòm. Bấy giờ nếu có thể kêu la, ắt tiếng kêu sẽ thấu đến cõi trời Phạm. Cái mạnh nhất, gây đau khổ lớn nhất, làm con người sợ hãi nhất không gì bằng sự chết. Chỉ có Đức Phật mới cứu nổi, mới có thể ban cho các niềm vui cõi người, cõi trời và niết-bàn. Lại nữa, tất cả chư Phật đời đời luôn vì chúng sanh mà không tiếc thân mạng. Như đức Thích-ca Mâu-ni khi còn làm thái tử, một hôm trên đường ra khỏi thành, thái tử thấy một người bị bệnh hủi, liền bảo ngự y chữa trị. Vị ngự y thưa: “Cần phải uống máu của người không bao giờ sân hận, đồng thời thoa tủy của người ấy lên thân thì bệnh mới lành”. Thái tử suy nghĩ: “Thật khó tìm được người này! Dẫu có thì cũng không thể làm như vậy!”. Thế là thái tử dùng thân mình để làm thuốc trị bệnh. Nếu vì tất cả chúng sanh thì cũng nên làm như thế. Ân của Phật sâu nặng còn hơn ân cha mẹ. Ví như tất cả chúng sanh đều là cha mẹ định làm một phần, Phật là một phần. Trong hai phần đó, thì nên nhớ nghĩ phần Phật, không nên nhớ nghĩ việc gì khác. Như vậy, các công đức có được tùy theo đối tượng mà hành giả nghĩ nhớ. Nếu thành tựu môn thiền định này, thì kết phược đoạn trừ cho đến chứng Vô sanh pháp nhẫn. Nếu trong lúc tu tập mà phát bệnh, thì tùy bệnh mà uống thuốc. Nếu không đắc định, sẽ sanh vào cõi trời Lục Dục, làm một vị trời tôn quí bậc nhất, đi đến đâu cung điện cũng bay theo. Hoặc sanh đến trước chư Phật, chứ không uổng phí công lao. Giống như người dùng thuốc hòa với đồng đỏ, nếu không được vàng thì cũng được bạc.

 

VIII. PHÁP QUÁN CÁC ĐỨC PHẬT MƯỜI PHƯƠNG

Hành giả ngồi ngay thẳng nhìn về phương đông, quán tưởng nơi ấy trống không, sáng sạch, không có núi non, sông hồ, ngói đá, tường vách. Chỉ thấy một Đức Phật đang ngồi kết già đưa tay nói pháp. Mắt tâm quan sát thấy rõ ràng tướng quí, các vẻ đẹp và ánh sáng rực rỡ của Ngài. Tâm hành giả buộc tại thân Phật, không duyên những cảnh khác. Nếu tâm rong ruổi ra ngoài, thì nỗ lực thâu về. Cứ như vậy dần dần quán đến mười vị Phật, trăm vị Phật, nghìn vị Phật cho đến vô số vô biên. Gần thân thì thấy không gian hẹp, càng xa thì không gian càng rộng. Bấy giờ chỉ thấy ánh sáng của chư Phật phóng ra liên tiếp nối nhau không dứt. Mắt tâm quán sát thấy được như vậy, thì xoay thân sang phương đông nam và cũng quán tưởng như thế. Sau khi thành tựu pháp quán, thì lần lượt xoay sang các phương: nam, tây nam, tây, tây bắc, bắc, đông bắc, dưới, trên. Tất cả cũng quán tưởng như thế. Sau khi thấy Phật ở các phương giống như phương đông rồi, hành giả ngồi ngay ngắn tổng quán các Đức Phật khắp mười phương, chỉ trong một niệm sở duyên thì thấy khắp tất cả. Khi tâm định thành tựu, các Đức Phật trong mười phương hiện đến thuyết pháp ngay trong định, giúp hành giả quét sạch lưới nghi, chứng Vô sanh pháp nhẫn. Nếu do tội nghiệp đời trước sâu nặng, không thể thấy được các Đức Phật, hành giả nên siêng năng ngày đêm sáu thời sám hối, tùy hỉ khuyến thỉnh chư Phật, thì dần dần sẽ thấy. Dẫu chư Phật không hiện đến thuyết pháp, thì tâm hành giả cũng được hỉ lạc, thân thể cũng nhẹ nhàng an ổn. Đó là pháp quán chư Phật mười phương.

 

IX. PHÁP QUÁN PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ

Có hai hạng người thực hành pháp quán Phật Vô Lượng Thọđộn cănlợi căn. Nếu là người độn căn, trước tiên dùng mắt tâm quán sát một vùng có chu vi khoảng ba phân (một thốn) nơi trán Đức Phật. Quán tưởng bóc sạch nơi ấy không còn da thịt, chỉ còn vùng xương đỏ hồng. Buộc chặt tâm tại đây, không cho duyên cảnh khác. Nếu tâm rong ruổi, nên nỗ lực thâu về. Khi đã thấy được mảng xương chu vi ba phân đỏ hồng, lại tiếp tục quán mảng xương này trở nên trắng như tuyết. Đã thấy mảng xương trắng rồi, lại tiếp tục quán toàn thân Phật thành bộ xương, không còn mảy may da thịt, trắng như tuyết. Sau đó quán xương trắng trở thành thân lưu li sáng sạch và trong suốt. Lại quán từ thân lưu li phóng ánh sáng trắng chiếu từ gần đến xa rồi khắp cõi Diêm-phù-đề. Bấy giờ chỉ thấy ánh sáng, chứ không thấy vật gì khác. Sau đó quán ánh sáng thâu vào thân, rồi lại phóng ra như lúc đầu. Các lần thực hiện pháp quán này, nên thực hành từ dễ đến khó. Quán thành xương trắng cũng vậy, lúc đầu ít về sau nhiều. Đã thành tựu được như trên, lại cần phải quán từ thân lưu li phóng ra ánh sáng trắng, trong ánh sáng quán thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ với thân vô cùng to lớn, ánh sáng phát ra rực rỡ. Bấy giờ hành giả ngồi kết già, mặt quay về tây, chuyên chú ghi nhớ các tướng trên thân Phật, sau đó quán tổng thể thân Phật đang ngồi kết già, thân tướng uy nghiêm, dung mạo rực rỡ như núi vàng ròng. Hành giả nên buộc tâm nơi thân Phật, không duyên cảnh khác. Nếu tâm rong ruổi ngoại duyên, nên cố gắng thâu về. Phải luôn luôn thấy mình như đang ngồi đối diện Đức Phật, không mảy may sai khác. Cứ như vậy, không bao lâu sẽ thành tựu pháp quán Phật Vô Lượng Thọ.

Nếu là người lợi căn, thì chỉ cần quán ánh sáng mặt trời chiếu vào thân, ánh sáng ấy rỗng rang thanh tịnh. Sau đó quán trong vầng ánh sáng có Đức Phật, thì liền thành tựu pháp quán. Hành giả muốn sanh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ, thì nên quán Phật như thế.

 

X. PHÁP QUÁN THẬT TƯỚNG CÁC PHÁP

Nên biết, các pháp từ duyên sanh, do nhân duyên sanh nên không tự tại, không tự tại, nên rốt cuộc không tướng, chỉ có danh suông, không có thật thể. Nếu thật có pháp, thì chẳng nên nói là không, xưa có nay không, thì gọi là đoạn diệt. Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh. Lại quán dâm, nộ, si tức thật tướng. Vì sao? Vì pháp này không ở trong cũng chẳng ở ngoài. Nếu thật ở trong, thì chẳng cần đợi nhân duyên bên ngoài mới sanh. Nếu ở bên ngoài, thì không có chỗ trụ, không có chỗ trụ, thì không sanh diệt, rỗng không, không có gì, hoàn toàn thanh tịnh vô vi. Đây gọi là quán thật tướng dâm nộ si. Lại nữa, tất cả pháp rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải các hiền thánh làm cho chúng thanh tịnh. Chỉ vì phàm phu chưa đạt được tuệ quán, mới thấy các pháp hư vọngvô số tướng trạng. Người đạt được thật tướng thì xem các pháp như ảnh trong gương, chỉ dối gạt mắt người, thật ra không sanh diệt. Pháp quán này sâu xa, vi diệu. Nếu hành giả chuyên tâm tư duy, thể nhận sâu xa được thật tướng chẳng sanh diệt, thì liền chứng Vô sanh pháp nhẫn. Pháp này rất khó duyên, tâm dễ tán loạn. Nếu không tán loạn thì cũng rơi vào hôn trầm. Vì thế hành giả phải luôn nỗ lực giữ thanh tịnh tâm mình, quán tưởng cho thật rõ ràng. Nếu không thể nhiếp phục được tâm, thì nên quở trách: “Từ vô số kiếp đến nay, ngươi luôn thuận theo những nghiệp duyên xấu, chưa từng phút giây nhàm chán. Lại rong ruổi theo niềm vui thế gian mà không biết đó là khổ. Chúng sanh thế gian tham ưa dục lạc để chịu khổ đau, rồi tùy nghiệp ác mà sanh vào năm đường. Tất cả đều do tâm làm, chứ có ai khiến như thế đâu? Ngươi như con voi điên dẫm đạp, tàn hại tất cả, không có cách gì chế phục, ai sẽ điều phục ngươi đây? Nếu được khéo léo điều phục thì ngươi sẽ lìa các nỗi khổ thế gian. Ngươi nên biết, nếu ở trong thai thì gặp toàn chất bất tịnh, chịu nhiều khổ đau; thai lại chật hẹp, ép chặt thân thể giống như địa ngục. Nếu sanh ra đời, thì phải chịu vô số việc khiến ngươi không được tự do như già, bệnh, chết, sầu lo khổ não. Còn nếu được sanh lên cõi trời, tuy sung sướng, nhưng hết phước cũng sẽ rơi vào địa ngục. Thật là ba cõi không an, sao ngươi lại tham đắm?”. Sau khi dùng nhiều lời quở trách tâm như thế, thì trở lại quán tưởng như trước. Nếu tâm tưởng trụ cảnh duyên, thì tâm nhu hòa. Bấy giờ sẽ thấy các tia sáng nhiều màu sắc từ thân phóng ra. Như thế gọi là quán thật tướng các pháp.

Hành giả muốn sanh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ, thì nên quán Phật Vô Lượng Thọ, quán thật tướng các pháp. Lại nên quán thế gian như mộng như huyễn, không chân thật. Chỉ vì chúng sanh mê lầm pháp không thật này, bất giác khởi phiền não mà chịu các tội báo. Như có người thấy các đứa trẻ sân hận tranh giành nhau ngói cây, đất đá. Chúng ta cũng nên quán chúng sanh thế gian như vậy mà khởi lòng từ bi, thệ nguyện cứu độ tất cả. Lại luôn điều phục tâm mình, tu tập hai nhẫn là chúng sanh nhẫnpháp nhẫn. Ví nhưhằng hà sa chúng sanh đối xử ác với ta, thì ta cũng không sân hận; hằng hà sa chúng sanh cung kính ta, thì ta cũng không vui mừng. Lại quán chúng sanh không có khởi đầu cũng không có cuối cùng. Nếu có khởi đầu, thì không có nhân duyên; nếu có nhân duyên thì không có khởi đầu. Nếu không có khởi đầu thì không có khoảng giữa và cuối cùng. Khi quán như thế, thì không rơi vào đoạn và thường; dùng đạo an ổn quán chúng sanh mà chẳng sanh tà kiến. Đó gọi là chúng sanh nhẫn. Quán các pháp vô cùng sâu xa, thanh tịnh, rốt ráo không tướng. Tâm không nghi ngờ, ngăn ngại và tin nhận điều này, thì gọi là pháp nhẫn. Bồ-tát mới phát tâm tuy chưa được pháp nhẫn, nên như vậy mà tu tập tâm mình. Lại quán các pháp rốt ráo không tướng, luôn khởi lòng đại bi đối với tất cả chúng sanh, hồi hướng tất cả những căn lành mình có được, cầu sanh về cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ. Như vậy liền được vãng sanh.

 

XI. PHÁP QUÁN PHÁP HOA TAM-MUỘI

Suốt hai mươi mốt ngày nhất tâm tinh tiến như lời dạy mà tu hành, chân thật nhớ nghĩ kinh Pháp hoa. Tức nên quán tưởng Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng với Phật Đa Bảo ngồi trong tháp bảy báu tại núi Kì-xà-quật. Quán mười phương Hóa Phật phân thân trụ cùng khắp trong các cõi nước đã dời hết tất cả chúng sanh. Mỗi Đức Phật đều có một vị bồ-tát Nhất sanh bổ xứ làm thị giả. Như Phật Thích-ca có bồ-tát Di-lặc làm thị giả. Tất cả các Đức Phật đều hiện thần thông, phóng ánh sáng chiếu soi khắp vô lượng cõi nước. Sắp minh chứng thật pháp, các Đức Phật thi triển tướng lưỡi rộng dài phát ra âm thanh vang khắp các thế giới trong mười phương tuyên thuyết kinh Pháp hoa. Kinh này nói:

- Chúng sanh trong mười phương, lớn hay nhỏ, dù chỉ một lần niệm “Nam-mô Phật”, thì đều sẽ được làm Phật.

- Chỉ một pháp Đại thừa, không có hai thừa hay ba thừa.

- Tất cả pháp chỉ một tướng, một môn, đó là tướng không sanh, không diệt, rốt ráo không, chỉ có pháp Đại thừa này, chứ không có hai thừa.

Tu tập pháp quán này, sẽ đoạn dứt năm dục, trừ diệt năm cái, tăng trưởng năm căn, đạt được thiền định. Trụ trong định này, hành giả vô cùng ái kính chư Phật. Lại nên vào sâu pháp thanh tịnh nhất tướng nhất môn sâu xa vi diệu này. Lại cung kính các vị đại bồ-tát: Phổ Hiền, Dược Vương, Đại Nhạo Thuyết, Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế, Văn-thù-sư-lợi, Di-lặc. Đó gọi là nhất tâm tinh tiến như pháp chân thật nhớ nghĩ tu hành kinh Pháp hoa. Đây cũng là hòa hợp với thiền định, khiến tâm vững chắc. Tu tập như thế suốt hai mươi mốt ngày, bồ-tát Phổ Hiền sẽ cưỡi voi trắng sáu ngà đến trước hành giả, đúng như kinh đã nói.

-----------------------------------------------------------------------------------

Dịch xong tại tĩnh thất chùa Phú Quang vào cuối đông Canh Dần (2010)

thichnguyenchon



[1] Mười lực: mười lực dụng của Như Lai. Đó là: xứ phi xứ trí lực, nghiệp dị thục trí lực, tĩnh tự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực, căn thượng hạ trí lực, chủng chủng thắng giải trí lực, chủng chủng giới trí lực, biến thú hành trí lực, túc trụ tùy niệm trí lực, tử sanh trí lực, lậu tận trí lực.

[2] Bốn vô sở úy: bốn sự tự tin, không sợ hãi, dũng mãnhan ổn của Phật, bồ-tát khi thuyết pháp. Theo kinh Tăng nhất A-hàm: bốn vô sở úy: chư pháp hiện đẳng giác vô úy; nhất thiết lậu tận trí vô úy; chướng pháp bất hư quyết định thụ kí vô úy; vị chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tính vô úy.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10427)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9697)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23644)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11859)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10736)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10089)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28708)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21638)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29441)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11409)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12380)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26353)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31050)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25358)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22829)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13065)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21979)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12238)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14158)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12467)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11264)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10708)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38091)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13679)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13477)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12359)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12594)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12066)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10729)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11222)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23377)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33222)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12816)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7401)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12198)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12637)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12056)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12875)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11958)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10708)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11382)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11681)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10894)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10813)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10383)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10494)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10720)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10647)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11924)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10705)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12746)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10816)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11402)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11100)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11643)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10518)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11270)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12315)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11182)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12497)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11432)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11526)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11321)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11595)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 13011)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14186)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11020)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11879)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13180)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11590)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11443)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10943)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11296)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10828)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11067)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10901)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10273)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17125)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11019)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10878)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10422)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10777)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11395)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11090)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10587)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11387)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10361)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10661)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12783)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19295)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19727)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21311)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20357)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19778)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19061)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20501)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21105)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17943)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21861)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant