Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Tỵ Kể Chuyện Rắn

13 Tháng Hai 201300:00(Xem: 15185)
Năm Tỵ Kể Chuyện Rắn
NĂM TỴ KỂ CHUYỆN RẮN

Năm Tỵ kể chuyện rắnTrong mười hai con giáp, rắn được xếp sau rồng; tuy nhiên cũng có thể nói ngược lại là rắn đứng trước rồng đến mười bậc trong vòng tròn mười hai địa chi. Và trong khi rồng là một ‘sinh vật’ chúng ta không thể nhìn thấy, ít nhất vào thời điểm này, và mang đầy màu sắc huyền thoại, thì rắn lại là một sinh vật có thực và hiện diện xung quanh ta.

Cũng trong khi rồng là ‘sinh vật’ chỉ tồn tại (nơi niềm tin) ở một vài xứ sở, chẳng hạn như ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật BảnViệt Nam, thì rắn tồn tại khắp nơi, trừ những nơi rắn không thể sống được do những điều kiện nào đó.

Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn; nhưng rắn thì có, với đầy đủ các cung bậc. Trong tiếng Sanskrit, rắn được gọi là nāga. Nhưng từ nāga trong tiếng Sanskrit và Pāli không chỉ có nghĩa là rắn, mà cũng có nghĩa là con voi. Mặc dù trong Phạn ngữ nāga có nghĩa là rắn nói chung, thì lắm lúc khi đề cập đến từ này người ta liền liên tưởng ngay đến một loại rắn chúa, rắn thần. Có một từ khác trong tiếng Sanskrit cũng chỉ cho rắn, đó là từ sarpa, nhưng rắn sarpa này thường ít mang màu sắc huyền bí hơn là rắn nāga. Trong niềm tin dân gian của người Ấn, trước thời kỳ Phật giáo, nāga là một loại rắn hổ mang bành có bảy đầu.

Như vậy, từ nāga vốn có nghĩa là rắn. Nhưng rồi khi từ này được truyền vào một vài quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc… thì thường được dịch là rồng (long), hơn là rắn (xà), nhất là trong những ngữ cảnh khi nāga được đề cập đến như là một sinh vật thiêng liêng. Điều này có lẽ do sự ‘tiếp biến’ văn hóa, nơi tín ngưỡng rồng phổ biến, và khi rồng được xem là một ‘sinh vật’ thiêng liênghình ảnh của nó cũng được dùng trang trí ở những nơi chốn trang nghiêm.

Giống như rồng (龍) là sinh vật huyền bí (một trong tứ linh) của Trung Quốc, rắn (nāga) được xem là một sinh vật linh thiêng trong đời sống văn hóatôn giáo Ấn Độ. Nāga được xếp vào một trong ‘bát bộ’, là á thần, bởi vì được cho là có những ‘thần lực’ nhất định. Bát bộ bao gồm: Deva (thiên), Nāga (rồng, rắn), Yaksa (thần dạ-xoa), Gandharva (càn-thát-bà: nhạc thần), Asura (thần a-tu-la), Garuda (ca-lâu-na: chim đại bàng), Kinnara (khẩn-na-la: nhạc thần của Đế Thích), Mahoraga (Ma-hầu-la-gia: thần đầu rắn mình người).

Nơi niềm tin của người Ấn, nguồn gốc của rắn được cho là có liên hệ với thần linh. Theo Varāha Purāa, một trong các thánh thư của Ấn giáo, con trai của Phạm vương (Brahma) là Kashyapa có bốn người vợ. Người vợ đầu sinh ra các Deva (thiên), người vợ thứ hai sinh ra Garuda (chim), người vợ thứ ba sinh ra Nāga (rắn), và người vợ thứ tư sinh ra Daitya (quỷ). Từ câu chuyện được đề cập ở trong cuốn sách này, rắn như vậy có những liên hệ ‘huyết thống’ với thần linh. Thêm nữa, theo vũ trụ luận của người Ấn, núi Meru là ngọn núi trung tâm của vũ trụ, và là nơi cư trú của Phạm thiên và những thần linh khác, và rắn (nāga) là sinh vật bảo vệ ngọn núi này bằng cách cuốn mình quanh ngọn núi.

Không biết có phải từ nguyên nhân này hay không mà rắn được tôn kínhthờ phụng như một vị thần ở trong Ấn giáo. Ở trong nhiều ngôi đền của Ấn giáo, người ta đã thờ phượng rắn như là một vị thần thực thụ. Và tại nhiều ngôi làng ở Ấn, người ta tôn trí trong nhà những tranh tượng rắn, và thậm chí dâng cúng trứng và sữa cho những tranh tượng rắn này. Người Ấn giáo cũng có lễ hội về rắn thần, tưởng niệm ngày sinh của rắn thần và ngày này được gọi là Nāga Panchami. Rắn cũng trở thành vật gần gũi và thân cận với các vị thần của Ấn giáo. Ví dụ như thần Shiva thường quấn một con rắn ở nơi cổ; còn sàng tọa của thần Krishna lại là một con rắn.

Rắn trong Ấn giáo cũng biểu tượng cho sự tự do, bởi vì nó là một sinh vật được cho là không thể thuần hóa. Nhưng điều này chưa hẳn đã đúng, bởi vì nhiều nơi trên nước Ấn, các đạo sĩ và ngay cả những thường dân, đã ‘thuần hóa’ được rắn. Họ có thể sai bảo rắn huýt gió hay điều khiển rắn múa theo điệu kèn hoặc sáo…. Không rõ là người ta có sử dụng ‘phép thuật’ hay nhưng bí quyết gì để bắt rắn phải phục tùng theo ý muốn của họ như vậy hay không, nhưng rõ ràng là rắn có thể bị thuần phục bởi con người. Người Ấn giáo cũng tin rằng rắn (thần) có thể đem đến tài sản, sức khỏe, hạnh phúc cho con người, và sẽ giúp con người khi họ gặp phải những khó khăn trong đời sống. Nhưng dù rắn thần được xem là sinh vật thiêng liêng, thì sinh vật này vẫn ở dưới sự điều khiển của hai vị thần Shiva và Krishna.

Nơi cư trú của nāga thường được cho là gắn liền với nước, chẳng hạn như dưới đáy sâu của đại dương, sông, hồ… Vì đời sống gắn liền nước, nên nāga cũng biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Và cũng vì là sinh vật gắn liền với nước, nên theo huyền thoại, nāga có thể tạo nên mưa gió.

Tuy nhiên rắn không phải luôn được coi là một sinh vật hiền thiện ở trong Ấn giáo, mà đôi khi cũng bị coi là một sinh vật nguy hiểm. Trong Mahabharata, một thánh điển quan trọng của Ấn giáo, rắn được miêu tả như là một sinh vật hung ác và có khuynh hướng làm hại kẻ khác. Rắn (nāga) cũng có kẻ thù không đội trời chung của nó, đó chính là chim Garuda. Cả Nāga và Garuda có cùng cha là Kashyapa, nhưng do vì sự bội bạc của Kadru, mẹ của Nāga, mà hai sinh vật này trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau.

Trong Phật giáo, rắn (nāga) xuất hiện khá thường xuyên trong kinh điển. Chúng ta có lẽ đều biết đến câu chuyện rắn thần Mucalinda (Muchalinda nāga) đã che mưa bão cho Đức Phật khi Ngài thiền định bên một gốc cây trong những ngày mưa gió. Chuyện kể rằng, vào tuần thứ sáu sau khi giác ngộ, khi Đức Phật đang thiền định bên gốc cây Mucalinda thì mưa to ập xuống và kéo dài trong bảy ngày liền. Ngay khi ấy, một con rắn chúa từ dưới đất bò lên đã che mưa gió cho Ngài bằng cách cuốn bảy vòng quanh mình Ngài và vươn đầu phồng to ra để che ở phía trên, với suy nghĩ: không để Đức Thế Tôn bị mưa lạnh. (Xem thêm Udana 2.1, kinh Mucalinda). Từ câu chuyện này, những người tạc tượng về sau đã tạc hình Đức Phật ở tư thế ngồi thiền, có một con rắn bảy đầu che ở bên trên. Rắn ở đây như là một sinh vật khôn ngoan, biết hộ trì những bậc thánh, và cũng có thể được cảm hóa.

Trong Buddhacarita sagraha sūtra, cũng có kể lại câu chuyện tương tự với câu chuyện trong Udana, nhưng ở đây có thêm một số tình tiết: sau khi Đức Phật giác ngộ bên cội bồ-đề ở Bodhgaya, có một con rắn (nāga) chúa màu đen bò đến đảnh lễ Đức Phật và sau đó thỉnh Ngài viếng thăm nơi cư trú của mình. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu và trú tại nơi của nāga suốt bảy ngày liền. Sau đó Đức Phật quy y cho rắn chúa, truyền cho nó Tam quyNgũ giới. Và rắn chúa này là sinh vật, không thuộc loài người, đầu tiên quy y Tam bảo. Sau đó một rắn chúa khác có tên là Mucilinda viếng thăm Đức Phật và đã che mưa bão cho Ngài trong suốt bảy ngày. Và sau bảy ngày thiền định của Đức Phật và khi mưa gió chấm dứt, rắn chúa này thỉnh mời Ngài đến trú xứ của mình và sau đó quy y Tam bảo.

Nhưng trong kinh điển Pāli, qua những ẩn dụ và những trường hợp cụ thể, rắn cũng cho thấy là một sinh vật có thể gây hại, không hoàn toàn thân thiện và huyền bí. Hẳn nhiên là với những loài rắn độc, nếu không thêm thắt những màu sắc huyền bí, chúng có thể tấn công và gây hại cho ta khi ta vô tình dẫm đạp, hay có hành động tấn công chúng. Kinh Tăng chi có đề cập đến trường hợp một Tỳ-kheo đã bị rắn cắn chết (Tăng chi bộ IV: 67). Và khi biết được vấn đề này, Đức Phật nói rằng nếu vị Tỳ-kheo ấy trải lòng từ đến loài rắn, thì đã không bị con rắn ấy cắn chết. Và lòng từ, theo bài kinh này, là phương cách ngăn chặn các loài rắn, cũng như những ác thú khác, làm hại.

Trong kinh sách, rắn cũng được đem ra làm ẩn dụ cho việc đọc, hiểu và thực hành kinh điển. Một người học giáo pháp với mục đích khoái khẩu biện luận, để chỉ trích người khác, không học pháp với mục đích tu tập cho việc giác ngộ giải thoát, thì người này được coi là bắt rắn ở lưng hay ở đuôi, có thể bị con rắn đó quay lại cắn. Tức muốn nói rằng, một người học pháp với mục đích như vậy thì chỉ tạo thêm khổ đau mà không được ích lợi gì. Còn người học pháp khôngmục đích khoái khẩu biện luận hay chỉ trích người khác, mà học pháp với mục đích áp dụng tu tập để đạt đến giác ngộ giải thoát, thì người này được cho là đang bắt rắn nơi cổ, không bị rắn gây hại (Xem Trung bộ, kinh Ví dụ con rắn, số 22).

Trong Phật giáo, rắn (nāga) đôi khi được mô tả như là một sinh vật có tâm hộ trì kinh sách. Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, kinh Bát-nhã (Prajñāpāramitā) mà Đức Phật thuyết trên núi Linh Thứu đã được nāga (thường được dịch là rồng, hơn là rắn) lưu giữ ở dưới Long cung (nāgarāja). Và về sau Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) đã xuống Long cung để mang những kinh sách này lên cho loài người.

Ấn Độ, một vài nơi chốn linh thiêng đôi khi được cho là nơi có nāga cư ngụ. Trong Đại đường tây vực ký, khi nói về Đại học Nalanda, ngài Huyền Trang cho rằng tại khu vực Đại học Nalanda tọa lạc, trước đó có một hồ nước và có một con rồng/rắn (nāga) chúa tên là Nalanda sống, nên ngôi tự viện được xây dựng ở đây đã được đặt tên theo tên con rồng/rắn này. Và về sau, ngôi tự viện này đã trở thành một trung tâm học thuật nổi tiếng của Phật giáo đó là Đại học Nalanda.

Xa hơn nữa, nāga cũng được phân chia thành năm ‘đẳng cấp’ tương ứng với năm đẳng cấp: Brahmin (tu sĩ), Kshatriya (chiến sĩ), Vaishya (thương nhân), Shudra (lao động chân tay), và Chandali (thành phần cùng đinh). Tuy nhiên, qua các tài liệu mà tôi đọc được, đã không thấy đề cập đến những loại rắn nào tương ứng với đẳng cấp Bà-la-môn, và những loài nào tương ứng với đẳng cấp Thủ-đà-la… Trong Tăng chi bộ (IV: 67) ta thấy có đề cập đến bốn loại rắn chúa, đó là: Virupakkha, Erapatha, Chabyaputta, và Gotamaka. Và trong Trường bộ, kinh Ðại hội (Maha-samaya Sutta, kinh số 20), Virupakkha được cho là ‘Chúa tể loài Nāga’, tức là vua của các loài rắn.

Như vậy, từ những gì được trình bày ở trên, ta thấy hình ảnh của rắn được con người thể hiện khá sinh động. Rắn vừa là một sinh vật ít nhiều gây cho con người sự sợ hãi bởi nòng độc của nó, nhưng cũng vừa là một sinh vật gắn liền với những huyền thoại, và lắm khi được gán cho là sinh vật biết tu luyện. Rắn đôi khi còn được phong ‘thần’ và trở thành rắn thần, và mỗi khi trở thành ‘thần’ thì hẳn nhiên sẽ trở thành đối tượng thờ bái của một số người.

Nghiệp Đức
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10418)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9692)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23619)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11856)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10735)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10082)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28701)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21632)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29426)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11400)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12378)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26342)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31047)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25354)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22821)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13057)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21955)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12234)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14155)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12464)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11259)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10698)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38083)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13678)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13475)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12357)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12592)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12062)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10728)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11219)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23370)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33212)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12808)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7397)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12193)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12626)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12056)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12874)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11951)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10708)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11380)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11676)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10884)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10811)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10378)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10494)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10716)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10635)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11919)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10702)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12743)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10811)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11395)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11098)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11642)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10518)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11267)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12311)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11177)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12492)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11431)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11516)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11308)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11595)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 13004)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14182)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11016)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11876)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13178)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11586)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11440)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10938)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11293)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10822)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11064)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10898)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10269)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17123)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11016)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10873)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10419)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10768)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11389)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11089)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10583)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11383)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10360)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10657)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12777)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19282)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19716)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21306)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20346)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19773)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19056)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20499)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21101)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17940)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21857)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant