Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Xuân Đời Xuân Đạo

13 Tháng Hai 201300:00(Xem: 13802)
Xuân Đời Xuân Đạo
XUÂN ĐỜI XUÂN ĐẠO

Thích Thông Huệ


xuan_doi_xuan_daoTrong nhân gian, người đời coi ngày mồng một Tết là ngày quan trọng của đầu năm, còn nhà Phật xem đây là ngày đánh dấu sự có mặt của một vị Phật đương lai, đó là Bồ tát Di Lặc, nên mừng xuân năm mới chính là mừng Xuân Di Lặc.

M

ỗi năm xuân về cảnh vật xanh tươi, trăm hoa đua nở, nhà nhà đều khang trang đón Tết. Để đón chào năm mới, vào những ngày cuối năm nhân dân ta thường có phong tục lau quét nhà cửa sạch sẽ, dọn dẹp gọn gàng, tươm tất. Công việc được coi trọng là trang hoàng nhà cửa, bày biện bàn thờ với đủ các loại bánh trái, hoặc sắp xếp mâm ngũ quả sao cho thật đẹp mắt. Tết là ngày tiêu biểâu cho truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Nhiều người đi chùa lễ Phật, đi viếng mộ thắp hương rồi thăm cha mẹ, thân nhân, bà con hàng xóm láng giềng. Có người quan niệm rằng đến chùa xin lộc đầu năm. Thế là với cầu mong phúc lộc đến với nhà mình, người ta nô nức đi hái lộc, lộc có thể là một bông hoa, một cành non ở chùa hoặc chốn tôn nghiêm, họ hái mang về nhà để rồi chỉ qua một đêm giao thừa nhiều cảnh chùa cây xanh xác xơ, trơ trụi. Thực ra đó chính là một tập tục mê tín. Riêng đạo Phật lấy chánh tín làm nền tảng. Chẳng hạn nghe pháp tức là được lộc, vì lộc này dùng mãi vẫn còn, dùng hoài không hết. Thái tử Sĩ-Đạt-Ta đi tìm đạo lý vì Ngài xem thường của cải vật chất. Còn người trong dân gian thì cho rằng có tiền mua Tiên cũng được, nhưng thực tế ở đời có những người lắm tiền nhiều của mà vẫn khổ. Vì vậy, đầu năm chúng ta đến chùa và chúc nhau những lời lành mạnh tốt đẹp, dùng đạo lý để khuyên bảo nhau sống có tình có nghĩa, khuyên nhau tu tập vững vàng, từng bước vững chãi thảnh thơiung dung nghe pháp. Đó mới chính là lộc của đầu năm. Để rồi khi trở về với cuộc sống đời thường của gia đình, chúng ta sẽ có kim chỉ nam cho lộ trình tu tập, để sống thiện, sống lành, sống tốt và sống có ích cho mình, cho mọi người. Như vậy chúng ta mới thực sự làm lợi đạo ích đời, rồi nhờ thế ngày Tết mới có giá trị và tràn đầy ý nghĩa.

Bên ngoài vạn vật đổi thay, còn thân thể ta thì lớn dần lên, trưởng thành rồi già nua. Nhân ngày Tết chúng ta nhìn lại và thấy một năm có 12 tháng, mỗi tháng được cho là một hạt xâu chuỗi, như vậy một năm có 12 hạt xâu chuỗi, mà đầu năm là lúc chúng ta bắt đầu hạt thứ nhất của xâu chuỗi. Năm cũ chúng ta đã lắc xong hạt thứ 12 rồi và đã tất niên. Cứ như vậy, vô thường biểu hiện sinh, già, bệnh, chết như một dòng sông cứ trôi chảy mãi không ngừng. Còn sự vật bên ngoài luôn biểu hiện sinh, trụ,ï dị, diệt. Chúng ta biết một năm có 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Xuân sang, tiết trời mát mẻ, dễ chịu, khí hậu ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc và tràn ngập sắc hoa. Hạ đến, bầu trời xanh thẳm, khí hậu oi nồng và nóng bức. Thu về rực rỡ nắng vàng, thời tiết dễ chịu, khí hậu mát mẻ. Còn Đông thì rét buốt, gió lạnh, vạn vật thu mình. Riêng với người biết tu, họ vui xuân trong thâm trầm đạo lý chứ không còn bồng bột đam mê, không còn đánh mất mình để chạy theo bóng màu của mùa xuân nữa. Tết đến, xuân về chúng ta đến chùa để nghe pháp, để hiểu đạo lý, tiếp tục bước vào đời vàø thấy được những khó khăn trắc trở ở phía trước mà vượt qua. Mỗi năm nếu chúng ta tu tốt thì dù cho có gặp phải hoàn cảnh khó khăn chăng nữa thì chính đạochúng ta tiếp thu được sẽ giúp chúng ta vượt qua gian nan, vất vả của cuộc sống một cách thuận lợi, dễ dàng. Cho đến nghịch cảnh bức ép chúng ta vẫn có thể vững vàng tiến bước. Kinh Pháp Cú có câu:

“ Như tảng đá kiên cố
 Gió cuồng nộ chẳng lay
 Lời tán dương, phỉ báng
 Không xao gợn đôi mày.”

Nếu tu tập có kết quả, nếu là bậc trí tuệ thì cho dù ở thế gian gặp khen hay chê, thăng hay trầm, thịnh hay suy, đắc hay thất tất cả đều có thể vượt qua mà không bao giờ động tâm, sống tự tại trong thế giới đầy nhiễu nhương trở ngại.

Nếu nói về hiện tượng đời sống bên ngoài thì khi mùa xuân đến trăm hoa đua nở, khí trời mát mẻ, lòng người cũng rộn ràng chào đón mùa xuân. Ai ai cũng giữ vững hào khí, giữ tâm thái tự do thong dong, thoáng đạt, rộng lượng bao dung. Tất cả những gì đẹp đẽ đều được biểu hiện. Trong nhà trên bàn thờ Phật, nơi thờ các vị tổ tiên đều thắp đèn sáng trưng, hoa trái xếp đầy, người người mặc đồ mới, ai ai cũng nở nụ cười, mọi người gặp gỡ chúc tụng lẫn nhau, tay bắt mặt mừng. Từ gia đình ra xã hội, ai ai cũng đối xử với nhau trên thuận dưới hòa, kính già yêu trẻ.Người đi chùa lễ Phật nghe pháp, tiếp thu được những tinh hoa của nhân loại, hiểu được triết lý Đông phương, triết lý nhà Phật để chuyển hóa bản thân. Có như thế thì quê hương sẽ thêm phần tươi đẹp và đất nước sẽ giàu mạnh hơn. Tất cả đều mới mẻ đúng như ý nghĩa của đêm giao thừa mà mọi người thường nói câu: “Tống cựu nghinh tân” tức là tiễn đưa năm cũ , đón mừng năm mới. Nhưng trong những cái cũ ấy hãy chọn lọc cái nào tốt thì nhớ giữ lại để duy trì , còn nghinh tân cho năm mới thì không phải cái gì cũng rước cả, đừng bao giờ rước buồn phiền, sầu bi, tham sân si, khổ não, ganh tị, tật đố, ngã mạn vào thân trong năm mới. Ở đây đêm giao thừa là lúc bỏ cái cũ, rước cái mới. Chúng ta cần biết bỏ cũ tức là bỏ những cái xấu, có hại cho mình, cho người. Rước mới là rước những cái hay cái đẹp để duy trì, phát huy, làm nền tảng cho năm mới, để có cương lĩnh, có căn bản đón nhận những điều tốt đẹp ở phía trước, tu tập theo tiến trình chuyển hóa từ nhân đến quả. Người phật tử tu tập phải biết tin sâu nhân quả. Nếu chúng ta nghĩ, nói và làm theo điều xấu thì sẽ gặp điều chẳng tốt đẹp gì. Ngược lại, nếu chúng ta biết hằng tỉnh hằng giác để nghĩ, nói và làm điều tốt đẹp thì chắc chắn sẽ gặt hái những kết quả tốt đẹp. Hiểu và tin sâu như thế thì trong năm mới chúng ta sẽ là người rất hạnh phúc. Hạnh phúc ở trong tầm tay chứ không phải tưởng tượng ở nơi xa xôi nào cả.

Có nơi Tết đến, một số đệ tử Phật lại đi xem bói, coi quẻ, xin xăm , coi chỉ tay, coi chữ ký. Trong kinh Phật không bao giờ dạy điều này. Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp. Nhìn sâu, thấy rõ chúng ta mới có niềm tin để bước vào cuộc đời mà không bị giao động.

Chúng ta có những hoàn cảnh sống khác nhau, đây chính là biểu hiện của nghiệp lực, có người giàu kẻ nghèo, có người sang kẻ hèn, người đẹp kẻ xấu, người trí thức kẻ dốt chữ. Tất cả những hoàn cảnh chánh báo y báo đó được biểu hiện ra không phải là hình thức thưởng phạt của một đấng thượng đế nào, mà đó là vận hành tự nhiên của luật nhân quả, tạo ở kiếp trước biểu hiện ra ở kiếp này. Hiểu được như thế, chúng ta sẽ thấy rằng tương lai tươi sáng đang ở phía trước do chính mình tạo chứ không phải do cầu khẩn ở một đấng quyền năng nào.

Trong nhân gian, người đời coi ngày mồng một Tết là ngày quan trọng của đầu năm, còn nhà Phật xem đây là ngày đánh dấu sự có mặt của một vị Phật đương lai, đó là Bồ tát Di Lặc, nên mừng xuân năm mới chính là mừng Xuân Di Lặc. Tết đến xuân về, chúng ta càng khó quên được khi nhìn thấy nụ cười của Bồ tát Di Lặc. Ngài tuy bị lục tặc bủa vây nhưng vẫn luôn tươi cười tràn đầy hạnh phúc. Lục tặc đó là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứcý thức. Mắt thấy sắc sanh tâm. Tai nghe tiếng sanh tâm. Mũi ngửi mùi sanh tâm. Lưỡi nếm vị sanh tâm. Thân xúc chạm sanh tâm. Ý đối với các pháp sanh tâm, thành ra có những chủng tử hữu lậu phân biệt. Bởi thế, chúng ta gắng công tu tập để khi tiếp xúc với sáu trần cảnh mà vẫn duy trì được định lực, không chạy theo bóng màu của trần thế. Để đạt được như thế đòi hỏi chúng ta phải có một quá trình công phu dày dặn thì mới có thể đạt được trạng thái thường hỷ và thường xả.

Bồ tát Di Lặc có bốn đức: Từ, bi, hỷ, xả. Năm mới, chúng ta đảnh lễ Ngài là đảnh lễ bốn đức này, bốn đức này chúng ta đều có thể thực hiện được. Nếu như chúng ta nhìn thấy Bồ tát Di Lặc thì chúng ta phải nhớ bốn đức từ, bi, hỷ, xả nơi Ngài để thực hiện tu tập ở chính bản thân mình. Đó là ý nghĩa ngày vía Di Lặc đầu năm. Nếu chúng talòng từ bi, chúng ta tùy hỉbuông xả, không chứa chấp trong lòng bất cứ điều gì thì chính chúng tahiện thân của Bồ tát Di Lặc rồi.

Chúng ta không nên nghĩ rằng, Bồ tát Di Lặc là nhân vật của quá khứ, càng không nên nghĩ rằng, nếu lễ vía Ngài thì sẽ được Ngài phù hộ, ban cho những điều ước nguyện, hoặc phù hộ cho chúng ta mua may, bán đắt hoặc làm ăn phát tài, phát lộc. Nếu chúng ta không lo tu tập, không tạo nhơn mà chỉ cầu gia hộ, rồi chờ kết quả thì thật là vô lý. Đạo Phật không phải là đạo cầu xin, nên đầu năm quý Phật tử không nên đến chùa để van vái cầu xin. Hiểu được như thế chúng ta sẽ biết vì sao phải vía Bồ tát Di Lặc vào ngày đầu năm mà không phải là những ngày trong năm. Bởi vì ngày đầu năm khi được nhìn hình tượng của Ngài, chúng ta sẽ vô cùng phấn khởi, trong lòng thoát tục, không còn phiền não và trong năm chúng ta sẽ có được những nụ cười thoải mái, an nhiên để thường xuyên tu tập bốn đức tư,ø bi, hỷ, xả.

Từ, bi, hỷ, xả là những gì? Từ là ban vui; bi là cứu khổ; hỷ là chung mừng, chung vui và ngợi khen khi người khác được hạnh phúc, tốt đẹp, may mắn, giàu có, hưng thịnh, thì chúng ta cũng vui theo. Kẻ thù trực tiếp của đức tùy hỷ là ganh tị, đố kỵ. Nếu thấy một người khác làm được điều tốt, điều thiện, được may mắn hạnh phúc mà đem lòng ganh tị tức là đã gieo hạt giống không tốt vào tâm của mình. Còn nếu gặp người làm điều tốt mà tùy hỷ thì phước của mình cũng được bằng người đó. Xả là gì? Những trạng thái buồn, vui, thương, ghét, giận hờn đều lặng lẽ. Cảnh thuận không làm Bồ tát cao ngạo, Ngài không thất niệm, Ngài không sanh tâm vọng niệm nên buông xả một cách toàn diện. Một khi buông xả không còn chứa chấp trong lòng điều gì thì đó là tâm thiền định, tâm ở trạng thái nhập tĩnh, không còn bóng dáng của vọng tưởng, phiền não. Vậy Xả là trạng thái lặng yên của tâm thức. Xả là trạng thái không chấp trước. Chẳng hạn, người tu đạt được trạng thái tâm thiền định hoặc một quả vị gì thì trạng thái đó, quả vị đó, tâm thiền định đó cũng phải buông xả.

Bồ tát Di Lặc có nụ cười thoải mái. Ngài cười toe toét. Đó là nụ cười tươi tắn, lạc quan , thoát tục và không có bóng dáng của phiền não, khổ đau. Thân tướng của Ngài biểu hiện sung mãn, tri túc, không buồn phiền giận hờn thế nhân gì cả. Người thế gian mãi tôn xưng và quý trọng Ngài. Vào ngày Tết, người Phật tử nghe nhắc đến Ngài thì hết thảy trong lòng đều rất vui.

Bồ tát Di Lặc là vị Bồ tát Nhất sanh Bổ xứ. Ngài ở nội viện cung trời Đâu Suất. Ngài giáng sinh vào cõi Ta bà ở hội Long Hoa. Khi giáo pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni đến hồi tiêu diệt, không còn hiện hữu thì Ngài đản sanh. Kinh Di Lặc Thượng sanh và Di Lặc Hạ sanh nói rõ điều đó.

Ở đời nhà Tùy bên Trung Quốc có một vị xuất cách, vóc dáng mập tròn, bụng to, tai dài, miệng luôn cười toe toét, đó chính là Bố Đại Hòa thượng. Ngài là một thiền tăng, sống thoáng đạt, tính tình rộng rãi, cởi mở, cuộc sống bất định. Ngài thường rong ruổi khắp nơi, rày đây mai đó, vây quanh Ngài luôn có mấy đứa trẻ nghịch ngợm, nhưng Ngài rất thương chúng và coi chúng như con ruột của mình. Người ta chưa bao giờ thấy Ngài tỏ ra buồn giận phiền não vì khuôn mặt Ngài lúc nào cũng tươi cười. Tình thương của Ngài phi phàm. Nếu có ai khen chê hoặc phỉ báng, Ngài vẫn nở nụ cười trên môi. Nhiều người cho rằng Ngài là thiền sư. Hồi ấy, lúc ở chùa Nhạc Lâm, trong một khu rừng, trước lúc viên tịch Ngài đã cho gọi tất cả chúng tăng đến và bảo: “ Bây giờ các ngươi ở lại vui vẻ và ta sẽ ra đi.” Ngài để lại một bài kệ:

Di Lặc chơn Di Lặc
 Hóa thân thiên bách ức
 Thời thời thị thời nhơn
 Thời nhơn giai bất thức.”
 Nghĩa là:
 Di Lặc thật Di Lặc
 Phân thân trăm ngàn ức
 Thường hay chỉ dạy người
 Người đời không hay biết.

Sau đó Ngài kiết già trên tảng đá ở Nhạc Lâm Tựthị tịch tại chỗ. Đây chính là Hóa thân Di Lặc. Ngài dùng Ứùng Hóa thân trong các cõi để giáo hóa chúng sanh. Tóm lại, Bố Đại Hòa thượng chính là Ứng Hóa thân của Bồ tát Di LặcCung trời Đâu Suất.

Trải qua dòng lịch sử, vào thời chánh pháp, người ta tạc tượng Bồ tát Di Lặchình ảnh gần giống như Ngài Văn Thù hoặc Ngài Phổ Hiền. Đến nay thì tượng Bồ tát Di Lặc lại được tạc rất giống với hình ảnh Bố Đại Hòa thượng. Hình ảnh Ngài có khi đứng cầm bao bố to, có khi liệng bao bố xuống đất rồi đứng yên, hoặc ngồi lộ ngực có sáu em bé ở chung quanh. Về sau người đời thấy Ngài là nhân vật kiệt xuất, vì quá thần tượng và tôn sùng nên người ta tạc tượng Ngài trên tay có thỏi vàng, tay kia cầm gậy như ý, cổ đeo chuỗi tràng hạt. Theo thời gian, hình tượng Di Lặc ngày càng phong phúsinh động. Đến nay, hình tượng Ngài được nhân gian gắn liền với tiền tài phú quý là đã đi xa với nguồn gốc rồi.

Ngày đầu năm, Phật tử thường lễ vía Bồ tát Di Lặc để cầu xin ban cho họ những điều ước nguyện. Nếu hiểu được đạo lý, không làm điều ác, thường làm điều tốt, lợi mình lợi người thì sẽ an vui, hạnh phúc. Người Phật tử cần học theo hạnh Bồ tát với bốn đức từ, bi, hỷ, xả để bản thânmọi người cùng được cộng hưởng lợi ích, như câu:

 Nhứt nhân tác phước thiên nhân hưởng
 Độc thọ khai hoa vạn thọ hương.
Nghĩa là:
Một người làm phước ngàn người được hưởng
Một cây nở hoa muôn cây khác được thơm lây.

Nếu có nhiều người quy y giữ giới, hướng về Tam Bảo, tu đúng chánh pháp, có chánh kiến, đủ chánh tín thì lợi ích nhiều khôn kể xiết, nhà nước và chính quyền sẽ bớt lo, đất nước sẽ thái bình, đó chính là góp phần xây dựng quê hương đất nước. Nếu ai cũng tin vào nhân quả thì làng xóm yên ổn, hạn chế được tệ nạn xã hội, mọi người đều có lợi ích, có cuộc sống văn hóa, có tư tưởng lành mạnh, biết tu hành thì đó là điều đáng trân trọng và rất hạnh phúc. Cho nên chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội vì một kiếp người trôi qua rất mau chóng. Nếu không biết tu hành theo chánh pháp, lúc ra đi sẽ theo nghiệp mà thọ sanh không có ngày dừng.

Thiền viện Trúc Lâm Viên Ngộ
Phan Rang – Ninh Thuận
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18530)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16060)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29872)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25461)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21607)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17812)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20824)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26338)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33331)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52155)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22877)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23411)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39651)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21794)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22384)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6838)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22732)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69809)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44012)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23073)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35040)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44098)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42917)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44419)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24916)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24358)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39209)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39237)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17255)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18042)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19260)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24219)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19588)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20404)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18313)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19001)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18942)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17476)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19322)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30832)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19193)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20528)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19560)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19767)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29826)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17835)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19410)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19880)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58771)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24405)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23518)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39764)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26719)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40764)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22870)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22923)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21596)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18620)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22594)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21085)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19215)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20933)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20332)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30556)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20183)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17464)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16599)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16851)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14961)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14837)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22868)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16047)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16210)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15257)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26109)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17194)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15796)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19771)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17673)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14683)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14732)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19128)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15120)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33057)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17489)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19128)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21822)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23009)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16623)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16469)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16513)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22992)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12748)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29515)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27718)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25914)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18463)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15577)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant