Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các thực hành của dòng truyền thừa Drukpa Kagyu

23 Tháng Hai 201300:00(Xem: 20043)
Các thực hành của dòng truyền thừa Drukpa Kagyu

CÁC THỰC HÀNH
CỦA DÒNG TRUYỀN THỪA DRUKPA KAGYU
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Sự quan trọng của thực hành Bổn tôn:

Người ta nói rằng:

Đạo sư là suối nguồn của gia trì (tiếng tạng Jyin lap gyi tsawa, Lama)

Bổn tôn là suối nguồn của thành tựu (tiếng tạng Nyur drub gyi tsawa, Yidam)

Không hành mẫu là suối nguồn của hoạt động (tiếng tạng Trinley gyi tsawa, Khandro)

Thực hành Bổn tôn là thực hành mật thừa độc đáo, trong đó chuyển hóa những kinh nghiệm bình thường, luân hồithế tục về sự thật thành kinh nghiệm phi thường của trạng thái chân thực của mọi hiện tượng.

Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ. Chính xác hơn là, thực hành Bổn tôn phát lộ trạng thái thực sự của sự hiện hữu tuyệt đối, hoàn toàn thanh tịnh, và thoát khỏi những sự tồn tại cố hữu và không ngừng. Sự thanh tịnh và trống rỗng này luôn có trong mỗi chúng ta, nhưng nó bị che lấp và không thể nhìn thấy bởi vì tâm rối loạnảo tưởng của chúng ta.

Bởi vì đây không phải thực hành bổn tôn bình thường, mà là bản tánh mật tông. Điều vô cùng quan trọng là người ta phải nhận được các chỉ dẫn chi tiếtquán đảnh về các giáo lý mở rộng này trực tiếp từ một vị thầy chân chính của một dòng truyền thừa thực sự khi thời gianđiều kiện chín muồi.

Giai đoạn phát triển:

Trong truyền thừa Drukpa Kagyu, các thực hành chính cho giai đoạn phát triển – Phần thực hành quán tưởng bổn tôn hay “Khe-rim” trong tiếng Tây Tạng (“rim” là giai đoạn, “Khe” là tạo ra hay phát triển) gồm có:

1. Chakrasamvara hai tay

2. Chakrasamvara mười hai tay dạng hợp nhất

3. Vajrayogini (Kim Cương Du già thánh nữ)

4. Vajrapani (Kim Cương Thủ)

5. Mahakala bốn tay

Các thực hành Bổn tôn trên là bắt buộc trong các thực hành nhập thất trong truyền thống Drukpa Kagyu.

Ngoài ra, cũng có các thực hành mở rộng khác trong truyền thừa:

1. Phật A Súc Bệ

2. Phật Kim Cương Tát Đỏa

3. Phật Vô Lượng Thọ

4. Quan Âm Tứ Thủ

A Súc Bệ Phật và Phật Kim Cương Tát Đỏa là các thực hành phổ biến hơn trong tu viện của chúng tôi bởi vì Dechen Choekhor nắm giữ truyền thừa chính yếu các thực hành này và đã giữ dòng truyền thừa thanh tịnh không gián đoạn thông qua sự tinh tấnkiên trì trong suốt 500 năm qua.

Giai đoạn hoàn thiện:

Với giai đoạn hoàn thiện hay các thực hành thiền định bên trong:

Chúng tôi sử dụng Đại Thủ Ấn làm tri kiến;

Để nhận ra tri kiến này,

Chúng tôi dùng Sáu pháp Du già của Naropa làm phương tiện;

Để đối phó với thiền địnhtri kiến

Chúng tôi áp dụng Sáu pháp vị Bình Đẳng như là hành động.

Cùng với tri kiến, thiền định và hành động, chúng tôi cũng thực hành Bảy pháp Duyên khởi.

Guru Yoga (Đạo sư Du già, Thượng sư tương ưng pháp):

Trong truyền thừa Drukpa Kagyu, điều quan trọng và tinh túy nhất của mọi thực hành là Guru Yoga, thực hành rất mạnh mẽ trong truyền thừa.

Chỉ với sự gia trì của Đạo sư, thông qua sự hiện diện của ngài, những giáo lý của ngài, và sự chỉ dẫn của ngài, đã có thể làm chín muồigiải phóng tâm chúng ta trước khi chúng ta có thể hiểu ý nghĩa sâu xa hơn của Đại thủ ấnnhận ra bản tánh chân thật của tâm.

Trong dòng truyền thừa, có một thực hành nhập thất Guru Yoga đặc biệt trong 4 tháng, 7 tháng và thực hành Guru Yoga Lama Kusum trong 3 năm 3 tháng. Đây không phải pháp Guru Yoga phổ biến hay thông thường, mà là thực hành mở rộngtrọn vẹn độc nhất của dòng Drukpa Kagyu bao gồm các pháp thực hành Yoga và Nội hỏa (tummo).

Tuy nhiên trong Kim Cương thừa, đây chỉ là các phương tiện, cách thức duy nhất để nhận ra bản tánh chân thật của tâm là thông qua sự nhận ra và nhìn nhận vị thầy là Lama Dorje Chang, vị Phật tuyệt đối. Cho đến khi người ta phát triển lòng sùng mô chân chính không dao động và nhìn nhận vị thầy là hiện thân sống động của sự giác ngộlòng bi mẫn của chư Phật, không có cách nào để người ta có thể chứng ngộ bên trong Pháp tuyệt đối. Nhìn nhận hay học hỏi với một vị thầy bình phàm [nhìn nhận thầy là một người bình phàm], người ta không thể đạt được trí tuệ tuyệt đối.

Các thực hành khác:

Bên trên là các thực hành Drukpa Kagyu chính yếu của Dechen Choekhor. Tu viện của chúng tôi không chỉ thực hành theo truyền thống Drukpa Kagyu, mà còn có các thực hành của dòng Nyingma như là:

1. Shitro 100 bổn tôn

2. Vajrakilaya

3. Chimey Phagma

tu viện Dechen Choekhor Tây Tạng, chư tăng được đào tạo các thực hành dòng Nyingma một cách phổ biến hơn. Chúng tôi sẽ giải thích kỹ hơn về các thực hành này khi thời gianđiều kiện cho phép.

Chú ý:

Một vài độc giả có thể nhầm lẫn các thuật ngữ “Kagyu” và “Kargyu” được sử dụng trong trang website này. Dưới đây là giải thích ngắn gọn cho ý nghĩa thực sự của 2 thuật ngữ này. Tuy nhiên, ngày nay Drukpa “Kargyu” và Drukpa “Kagyu” được sử dụng lẫn lộn trên các phương tiện truyền thông Anh ngữ.

Kagyu – có thể được dịch là “Dòng Khẩu truyền”. Âm đầu tiên “Ka” liên quan đến các bản kinh Phật và sự khẩu truyền các giáo lý của Đạo sư. “Ka” có ý nghĩaý nghĩa giác ngộ được truyền tải thông qua các chỉ dẫn của một đạo sư giác ngộ, cũng như là năng lực và sự gia trì mà những từ ngữ bên trong mang đến; và “gyu” đơn giản nghĩa là dòng truyền thừa hay truyền thống.

Kargyu – Kar (trắng) Gyu (truyền thừa) của đức Marpa, Milarepa và các vị đệ tử; rất nhiều trong số này mặc y trắng. Kewang Sangye Dorje, một trong các đệ tử chính yếu của Pema Karpo, đã đề xuất tên này cho dòng truyền thừa Drukpa Kargyu của chúng ta.

1) A Súc Bệ Phật (Tiếng Tây Tạng: Miputra)

lineage-practice_akshobhya-buddha_250

Lịch sử truyền thừa:

Truyền thừa của đức Palden Atisha

Sự trao truyền của dòng truyền thừa:

A Súc Bệ Phật > Kim Cương Thủ > Các Đại thành tựu giả Ấn Độ, bao gồm Aryadeva > Palden Atisha mang đến Tây Tạng > sau rất nhiều các bậc nắm giữ dòng truyền thừa > Tsangpa Gyare Yongzin & Choegon

Dòng truyền thừa Drukpa Kagyu nắm giữ truyền thừa của Đức A Súc Bệ Phật, chủ yếu ở Dechen Choekhor (trụ xứ của đức Choegon Rinpoche), Khampagar (trụ xứ của đức Khamtrul Rinpoche) và Nangchen Garh (trụ xứ của đức Adeu Rinpoche) và mọi bậc nắm giữ dòng truyền thừa của các ngài. Dòng truyền thừa này đến từ Đức A Súc Bệ Phật, Kim Cương Thủ, Arya Deva, xuống đến đức Atisha, người đã đến Tây Tạng, sau đó, từ đức Tsangpa Gyare đến dòng truyền thừa truyền thống Dechen Choekhor của đức Choegon Rinpoche. Từ đây, pháp thực hành A Súc Bệ Phật lan rộng ra hầu khắp các tu viện Drukpa Kagyu vào thế kỷ 16.

Dechen Choekhor nhấn mạnh đặc biệt vào thực hành về A Súc Bệ Phật. Đó là các thực hành nhấn mạnhtăng cường cho các lễ puja, Jangchok, nhập thất, tịnh hóa và nhiều nghi lễ khác. Sự gia trì của của dòng truyền thừa vẫn được giữ liên tục không gián đoạn nhờ có sự kiên trìthực hành tinh tấn trong suốt hơn 500 năm qua. Thực hành về đức A Súc Bệ vẫn là một thực hành nhập thất bắt buộc theo truyền thống Dechen Choekhor cho đến ngày nay.

Giới thiệu về bổn tôn:

Đức A Súc Bệ Phật, “Đấng Bất Động”, Chủ của Kim Cương Bộ, là một trong năm Phật Bộ hay Ngũ Trí Phật; đại diện cho các uẩn hoàn toàn thanh tinh. Trong Giải thoát tự nhiên, ngài đại diện cho trí tuệ như-tấm-gương và sự chuyển hóa của ngũ độc, giận dữ và thù ghét. Trong tiếng Tây Tạng, ngài được biết đến là “Mitrupa”, người mà không bao giờ bị phiền não bởi giẫn dữ hay thù ghét. Ngài được coi là có sức mạnh đặc biệt trrong việc tịnh hóa các ác nghiệp.

A Súc Bệ Phật phát đại nguyện rằng mọi hữu tình chúng sinh có thể tịnh hóa bất cứ ác hạnh nào, thậm chí các ác hạnh lớn lao như thù ghét, bạo lực, và sát sinh cũng có thể được tịnh hóa thông qua việc nương tựa vào ngài bằng cách thiền định, nhận ra và tránh các ác hạnh, và khẩn cầu năng lực gia trì của ngài để tịnh hóa. Trong Kinh A Súc Bệ Phật, Đức Thích Ca Mâu Ni đã tán dương sự nhẫn nại của đức A Súc Bệ trong việc thực hiện đại nguyện của ngài mạnh mẽ đến mức vô lượng chúng sinh đã được cứu khỏi sự khổ đau vô cùng của các cõi thấp.

Cõi tịnh độ của ngài là Abhirati, cõi Lạc Thổ, và theo các kinh điển, người ta nói rằng những ai sinh ra ở cõi này sẽ không rơi trở lại các cõi thấp hơn của ý thức.

Những miêu tả sơ lược:

Đức A Súc Bệ Phật, Đấng Bất ĐộngĐiềm Tĩnh, ở phía Đông và đại diện cho Kim Cương Bộ. Ngài có màu xanh, ngồi trên một bông sen được nâng bởi một con voi, biểu tượng cho sự kiên địnhsức mạnh; tay phải ngài bắt ấn bhumisparsha, ấn xúc địa, biểu tượng cho sự vững chắc không thể lay chuyển; còn tay trái ngài để trong lòng cầm chày kim cương. Chày Kim Cương biểu thị cho tâm giác ngộ, bản tánh kim cương không thể phá hủy của ý thức thanh tịnh, hay bản chất của sự thật tuyệt đối.

Mục đích và những lợi lạc của thực hành:

Theo các giáo lý của chư Phật, tuổi thọ hiện tại là một trong những điều suy giảm khi mọi chúng sinh trong vòng sinh tử (luân hồi) đang chịu khổ đau lớn lao bởi vì những hành động ác hạnh và những cảm xúc gây phiền não.

Nghi lễ và sự thực hành A Súc Bệ Phật là một thực hành tịnh hóa lớn lao được thực hiệnlợi lạc của bản thânvô số chúng sinh khác. Nó có thể giải thoát không chỉ bản thân hành giả khỏi những sợ hãi của việc tái sinh không may mắn mà còn là mọi chúng sinh khác. A Súc Bệ Phật cũng được thực hành cho những người quá cố. A Súc Bệ Phật đã hứa nguyện một cách chắc chắn rằng công đức khi trì tụng 100 000 lần thần chú dài của ngài và tạo ra một hình ảnh của ngài có thể hồi hướng cho người khác, thậm chí những người đã chết rất lâu, và họ chắc chắn sẽ thoát khỏi những cõi thấp hơn, và tái sinh vào những cõi may mắn về tâm linh.

Thiền định về A Súc Bệ Phật là rất tốt để tịnh hóa nghiệp liên quan đến các ác hạnh. Thông qua năng lực của thực hành nghi lễ thanh tịnh và sự tịnh nghiệp, các ác nghiệp sẽ dần giảm bớt, và sau đó người ta có thể tiến vững chắc trên con đường giác ngộ.

2) Phật Kim Cương Tát Đỏa (Tiếng Tây Tạng: Dorje Sempa)

lineage-practice_vajrasattva_250

Lịch sử dòng truyền thừa:

Dòng truyền thừa Vua Dza

Sự trao truyền của dòng truyền thừa:

Phật Kim Cương Tát Đỏa > Vua Dza > các đại thành tựu giả Ấn Độ, trong đó có Viryapa >Lama Marpa mang đến Tây Tạng >Lama Milarepa >các bậc trì giữ dòng truyền thừa >>> Yongzin và Choegon

Giới thiệu về bổn tôn:

Kim Cương Tát Đỏa, vị Phật của thanh tịnh nguyên sơ liên quan đến sự tịnh hóa các ác nghiệp.

Miêu tả ngắn gọn:

Đức Kim Cương Tát ĐỏaBáo thân Phật. Ngài ngự trên một bông sen tám cánh màu trắng vô cùng thanh tịnh với dáng điệu kim cương trọn ven. Thân của ngài màu trắng sáng và chói lọi như là ngọn núi tuyết được chiếu sáng bởi ngàn mặt trời. Ngài thường được miêu tả là cầm chiếc chày Kim Cương bằng vàng bên tay phải ở ngang trái tim, và một chiếc chuông bạc ở tay trái, đặt ở đùi trái. Trong dòng truyền thừa của chúng tôi, đức Kim Cương Tát Đỏa được quán tưởng cùng với vị phối ngẫu.

Mục đích và những lợi lạc của thực hành:

Thực hành về đức Kim Cương Tát Đỏa là một trong các thực hành quan trọng và cơ bản nhất trong Phật giáo Kim Cương thừa, và được tôn kínhvai trò và sự nhanh chóng tịnh hóa ác nghiệp và sự phá hỏng samaya giới của nó.

Kể từ thời vô thủy, trong vô lượng kiếp, chúng ta đã tích lũy vô số ác nghiệp. Đó là chướng ngại chính ngăn không cho người ta nhận ra Phật tánhđạt đến giác ngộ trong một đời.

Thực hành một cách chuẩn xác, năng lực gia trì lớn lao của ngài có thể thanh tẩy và tịnh hóa mọi ác nghiệp bao gồm các vô minh tinh tế nhất của thân, khẩu và ý đến mức chứng ngộ tâm giác ngộ nguyên sơ.

3) Phật Vô Lượng Thọ (Tiếng Tây Tạng: Tse-Pameh)

lineage-practice_amitayus-buddha_250

Lịch sử dòng truyền thừa:

Dòng truyền thừa của đức Rechungpa

Sự trao truyền của dòng truyền thừa:

Phật Vô Lượng Thọ > Các đại thành tựu giả Ấn Độ > Lama Walachandra > Rechungpa mang đến Tây Tạng > sau rất nhiều các bậc trì giữ truyền thừa >>> Yongzin và Choegon

Giới thiệu bổn tôn:

Đức Amitayus – Đức Phật của Trường Thọ, Công ĐứcTrí tuệ. Ngài là pháp thân của đức Vô Lượng QuangĐức Phật của Ánh sáng và cuộc đời bất diệt; và là vị Phật chính yếu để vượt qua sức mạnh mà cái chết và sự ngu dốt bao chùm chúng ta. Khi những điều này được xua tan, chúng ta sẽ khai mở tiềm năng thực sự - đạt được hạnh phúc tối thượng.

Miêu tả ngắn gọn:

Đức Vô Lượng Thọ được miêu tả là đang cầm một chiếc bình amrita, chất cam lồ quý giá của sự bất tử mang đến sự trường thọ, và những chiếc lá của cây ashoka, biểu tượng cho sự trường thọ mà không chút khổ đau (shoka) của tật bệnh. Thân của ngài có màu giống như ngọn núi hồng ngọc, sáng chói như là viên ngọc quý giá thanh tịnh và sáng chói, tiêu trừ những khổ đau và ngu dốt của chúng sinh.

Mục tiêu và những lợi lạc của thực hành:

Đức Thích Ca Mâu Ni đã từng nói về sức mạnh và những lợi lạc lớn lao của thần chú ngài Vô Lượng Thọ. Theo Kinh điển, các công đức tích lũy từ việc cúng dường chư Phật với những viên đá quý nhất đầy cả vũ trụ vẫn có thể đếm được, nhưng công đức tụng đọc thần chú ngài Vô Lượng Thọ là không thể nghĩ bàn. Đức Phật cũng đưa ra ví dụ rằng tụng thần chú của ngài Vô Lượng Thọ có thể sánh với 99 triệu đức Phật nhập thiền định và cùng tụng thần chú, vì thế nó rất mạnh mẽ.

Đức Vô Lượng Thọđức Phật của trường thọ, công đứctrí tuệ. Bằng cách thực hành pháp tu của ngài, chúng ta có thể phát triển những phẩm tánh này, điều mà rất quan trọng trong sự phát triển tâm linh của chúng ta, và cuối cùng đạt đến trạng thái giác ngộ tối thượng.

Thực hành và sùng mộ chí thành đến đức Vô Lượng Thọ sẽ giúp xua tan các chướng ngại để trường thọ như là bệnh tật và ốm đau, và làm an dịu những khả năng của một cái chết bất ngờ hay chết non. Thực hành Bổn tôn Vô Lượng Thọvô cùng quan trọng bởi vì sống lâu là một điều kiện quan trọng cần thiết cho phép chúng ta có nhiều thời gian và cơ hội thực hành chánh Pháp để giải thoát bản thân khỏi luân hồi. Chúng ta cũng có thể dùng thực hành này để xua tan các chướng ngại gây nguy hại đến cuộc đời người khác.

4) Chakrasamvara Mười hai tay (tiếng Tây Tạng: Demchok Khorlo Dompa hay Khorlo Dompa Shal-She Chu-Nyi Chag)

lineage-practice_12-arms-chakrasamvara_250

Lịch sử truyền thừa:

Dòng truyền thừa của Đại thành tựu giả Tilopa

Sự trao truyền của dòng truyền thừa:

Đức Phật Kim Cương Trì hóa thân thành Đức Chakrasamvara > Đại thành tựu giả Tilopa > Naropa > Marpa > Milarepa > Rechungpa > sau mười ba vị trì giữ truyền thừa > các đạo sư dòng Drukpa Kagyu > Yongzin và Choegon

Dòng truyền thừa này được biết đến là truyền thống “Khandro Nyengyud” hay “Chakrasamvara của dòng truyền thừa thì thầm Rechungpa” hay “dòng truyền thừa thì thầm của chư Dakini” (tiếng tạng: Khandro Nyen-gyud).

Rechung Dorje Tagpa (1083 – 1160), yogi nổi tiếng là một trong hai tâm tử của Milarepa, và vị kia là thầy thuộc vĩ đại Tây Tạng, học giả, tu sĩ Dagpo Lha-Je Gampopa (1079 – 1173).

Truyền thống Chakrasamvara của Rechung Nyengyud là một thực hành đặc biệt của dòng Kagyu, truyền xuống từ đại thành tựu giả Tilopa, Naropa, Milarepa đến Rechungpa, và cuối cùng sau mười ba vị nắm giữ dòng truyền thừa, đến với một trong các đạo sư dòng Drukpa Kagyu, và từ đây lan rộng và trở thành thực hành phổ biến trong các truyền thừa khác. Trước đó, nó chỉ được truyền lại trong dòng truyền thừa duy nhất từ đạo sư đến người tiếp theo và không được phổ biến rộng rãi.

Giới thiệu bổn tôn:

Heruka Chakrasamvara (tiếng Tạng Demchok Khorlo Dompa; “Bánh xe của Hạnh phúc hoàn hảo”) là bổn tôn thiền định mật tông (Yidam) của Mật điển Du già tối thượng (Anuttara) trong Kim Cương thừa.

Chakrasamvara, cùng với Hevajra và Vajrayogini là ba thực hành bổn tôn thiền định chính yếu của dòng Kagyu.

Có rất nhiều hình tướng khác nhau của Bổn tôn Chakrasamvara xuất hiện với nhiều mặt, tay, và số lượng đoàn tùy tùng quyến thuộc. Mặc dù có sự khác biệt lớn trong các truyền thừathực hành về Chakrasamvara, các điểm khác biệt trên các bức tranh là không quan trọng. Về bản chất, có dạng hai tay và dạng mười hai tay của Chakrasamvara, (dạng mười hai tay ôm vị phối ngẫu Vajrayogini trong tư thế hợp nhất). Sự hợp nhất thần thánh này là một ẩn dụ cho sự hợp nhất của hỷ lạctánh không (phương tiện thiện xảotrí tuệ), thứ mà như một.

Trong dòng truyền thừa Drukpa Kagyu, thực hành bổn tôn Chakrasamvara phổ biến là dạng mười hai tay. Trong truyền thống của chúng tôi, 62 Mandala là thực hành phổ biến ở hầu khắp các tu viện, 13 Mandala chủ yếu ở các trung tâm nhập thất, và một mandala duy nhấtthực hành hằng ngày. Tất cả đều là truyền thống Khandro Nyengyud được gọi là Chakrasamvara của “Dòng truyền thừa thì thầm của đức Rechungpa” hay “Dòng truyền thừa thì thầm của chư Dakini” (Tiếng Tạng Khandro Nyen-gyud).

Không có quá nhiều các sự khác biệt trong thực hành bổn tôn Chakrasamvara, nhưng thực sự thì có những dòng truyền thừa khác nhau trong chính truyền thống Kagyu. Dòng truyền thừa của chúng tôi đến từ dòng truyền thừa chính yếu của đức Naropa, gọi là “Dòng nhĩ truyền của chư Dakini của đức Naropa (Khandro Nyen-gyud) – thực hành Chakrasamvara mười hay tay với 62 mandala. Đó là thực hành quan trọng của Drukpa Kagyu. Phần lớn các tu viện Drukpa Kagyu đã thực hành pháp tu này trong hàng thế kỷ. Tu viện Dechen Choekhor, đặc biệt là nơi nắm giữ chính yếu thực hành này, và đang thực hành truyền thống không gián đoạn này trong suốt 500 năm. Và thực hành này vẫn hiện diện trong dòng truyền thừa Drukpa Kagyu của tu viện Dechen Choekhor, tu viện Khampagar và tu viện Nangchen Gark từ thời đức Gyalwang Je.

Miêu tả ngắn gọn:

Chakrasamvara (Thắng Lạc Kim Cương), sự thị hiện về mật của đức Thích Ca Mâu NI, đại diện cho sự hợp nhất phương tiện và trí tuệ (hỷ lạctánh không); ôm vị phối ngẫu Vajrayogini, ngài được miêu tả là có 4 mặt tượng trưng cho bốn hoạt động giác ngộ: tức tai, tăng ích, kính áihàng phục. Mười hai tay cầm các pháp khí khác nhau tượng trưng cho thập nhị nhân duyên trong “bánh xe cuộc đời” và mười hai sức mạnh.

Mandala của Chakrasamvara mười hai tay:

a) Mandala của 13 vị bổn tôn (tiếng Tạng Khorlo Dompa Chok-Sum Ma)

- thực hành chủ yếu bởi cá nhân hành giả và cũng được thực hành trong các khi nhập thất.

- nói chung, thực hành Mandala này sẽ dẫn đến những Thành tựu Tối thượng.

b) Mandala của 62 vị Bổn tôn (tiếng Tạng: Khorlo Dompa Druk-Chu Tsa-Nyi Ma)

- chủ yếu thực hành bởi chư Tăng trong chùa trong các lễ puja lớn.

- nói chung, thực hành Mandala này sẽ dẫn đến những Thành Tựu Phổ Biến.

Mục tiêu và Những lợi lạc của việc thực hành:

(Đạt được) suối nguồn của sự thành tựu.

Chakrasamvara là hóa thân của đức Phật Vajradhara và là bổn tôn thiền định chính yếu trong Kim Cương thừa. Phần lớn các vị trong 84 Đại thành tựu giả nổi tiếng xứ Ấn Độ cổ đã đạt giác ngộ hoàn hảo nhờ nương tựa vào vị bổn tôn này; và kể từ khi Mật tông được đưa đến Tây Tạng, rất nhiều các vị đạoTây Tạng vĩ đại cũng chứng ngộ hoàn hảo nhờ thực hành này.

5) Chakrasamvara hai tay (tiếng Tây Tạng: Khorlo Dompa Lhenchig Kyepa)

lineage_practice_2_arms_chakrasamvara_254x368

Lịch sử truyền thừa:

Dòng truyền thừa của Đại thành tựu giả Drilbupa.

Sự trao truyền của dòng truyền thừa:

Đức Phật Vajradhara hóa thân thành đức Chakrasamvara > Đại thành tựu giả Ấn Độ Drilbupa > các bậc đại thành tựu giả > Palchen Galo Namgyal Dorje[1], đạo sư và dịch giả Tây Tạng vĩ đại người đã mang các giáo lý quý giá bao gồm cả dòng truyền thừa này từ Ấn Độ đến Tây Tạng > các bậc nắm giữ truyền thừa >>> Yongzin và Choegon.

Palchen Galo Namgyal Dorje, nổi tiếng là Ga Lotsawa là một đại thành tựu giả và dịch giả Tây Tạng vĩ đại người đã đến Ấn Độ và mang về rất nhiều giáo lý quý giá cho Tây Tạng, bao gồm cả sự thực hành.

Giới thiệu Bổn tôn:

Heruka Chakrasamvara (Tiếng Tạng Khorlo Dompa; “Bánh xe Đai Hỷ lạc”) là một bổn tôn thiền định mật điển (yidam) của mật điển du già tối thượng (Anuttara) trong Phật giáo Kim Cương thừa.

Chakrasamvara, cùng với Hevajra và Vajrayogini là ba thực hành bổn tôn thiền định chính của dòng Kagyu.

Có rất nhiều hình tướng khác nhau của Bổn tôn Chakrasamvara xuất hiện với nhiều mặt, tay, và số lượng đoàn tùy tùng quyến thuộc. Mặc dù có sự khác biệt lớn trong các truyền thừathực hành về Chakrasamvara, các điểm khác biệt trên các bức tranh là không quan trọng. Về bản chất, có dạng hai tay và dạng mười hai tay của Chakrasamvara, (dạng mười hai tay ôm vị phối ngẫu Vajrayogini trong tư thế hợp nhất). Sự hợp nhất thần thánh này là một ẩn dụ cho sự hợp nhất của hỷ lạctánh không (phương tiện thiện xảotrí tuệ), thứ mà như một.

Heruka Chakrasamvara hai tay là dạng quan trọng của Chakrasamvara. Ngài xuất hiện là một bổn tôn nửa phẫn nộ màu xanh đậm, với một mặt, hai tay, và ba mắt. Ngài bắt ấn alidha với chân trái co và chân phải duỗi rộng trên đĩa mặt trăng bằng vàng và một bông sen nhiều màu. Với hai tay bắt chéo ở ngực, ngài ôm vị phối ngẫu, đức Vajrayogini, trong khi đang cầm một chiếc chày kim cương và một chiếc chuông ở tay trái và phải. Ngài đội vương miện năm chiếc sọ, đeo sáu thứ trang sức bằng xương, ở chỗ thắt lưng có chiếc áo da hổ mặc trễ, và các vòng trang trí những chiếc đầu bị cắt.

Mandala của đức Chakrasamvara hai tay:

Mandala của một vị bổn tôn & Mandala của 5 vị bổn tôn:

- Chủ yếu thực hành bởi các hành giả cá nhân với căn cơ cao hơn

Thực hành Mandala này sẽ đưa đến những Thành tựu Tối thượng.

Mục đích và những lợi lạc của thực hành:

(Đạt được) suối nguồn của thành tựu.

Chakrasamvara hai tay là bổn tôn thiền định chính cho những người có căn cơ cao vì tâm của họ đã ít loạn hơn và dạng đơn giản của bổn tôn là đủ để hỗ trợ sự thực hành.

Chakrasamvara là hóa thân của đức Phật Vajradhara và là bổn tôn thiền định chính của Mật thừa. Phần lớn trong 84 Đại thành tựu giả Ấn Độ nổi tiếng đã giác ngộ hoàn hảo bằng cách nương tựa nơi ngài; và kể từ khi các mật điển này được mang đến Tây Tạng, rất nhiều đạo sư Tây Tạng vĩ đại đã chứng ngộ tuyệt đối nhờ thực hành này.

6) Vajrayogini (Kim Cương Du Già Thánh Nữ, tiếng Tây Tạng Dorje Naljorma)

lineage_practice_vajrayogini_350_250x359

Lịch sử dòng truyền thừa:

Dòng truyền thừa của Đại thành tựu giả Tilopa

Sự trao truyền của dòng truyền thừa:

Vajrayogini > Đại thành tựu giả Tilopa > Naropa > Marpa > Milarepa > Rechungpa > các vị trì giữ dòng truyền thừa >>> Yongzin và Choegon

Giới thiệu Bổn tôn:

Vajrayogini là Pháp thân nữ của Phật. Ngài là vị yidam (bổn tôn thiền định) của Mật điển Tối thượng Du giàmật điển cao nhất, và xuất hiện trong nhiều thực hành mật tông. Bà xuất hiện như vị phối ngẫu của Heruka Chakrasamvara.

Bà là Bậc Nắm giữ Mật điển Bí mật của những giáo lý rộng lớn của Mật thừa Bí mật bao gồm dòng truyền thừa Chakrasamvara và Mahamudra, trực tiếp từ đức Phật Vajradhara.

Bà là một người trẻ trung, ở trần và nhiệt thành với Pháp. Thân bà màu đỏ tươi và bà đeo chiếc vòng đầu lâu của 51 người biểu tượng cho sự làm chủ các sự kiện tinh thần. Chân phải co lại và chân trái duỗi rộng đứng trên một cái xác chết. Một chiếc khatvanga được đặt trên vai trái bà. (xem hình ảnh)

Mục đích và những lợi lạc của thực hành:

Thực hành về Kim Cương Du Già thánh nữ là suối nguồn của sự gia trì.

Trong Mật điển gốc cô đọng Heruka có viết rằng, những lợi lạc có được từ việc thực hành Bổn tôn Vajrayogini là bất khả tư nghì và rằng một ngàn lần nói ra cũng không thể liệt kê được chúng.

Sự thực hành bổn tôn Vajrayogini là sự tổng hợp của mọi điểm tinh yếu của các giai đoạn của Mật điển. Thực hành Vajrayogini mang đến sự gia trì nhanh chóng, đặc biệt trong giai đoan suy đồi về tâm linh này. Khi chúng ta thực hành những chỉ dẫ này một cách chính xác, chúng ta sẽ nhanh chóng nhận được sự gia trì lớn lao từ chư Phật. Sự gia trì này giúp chúng ta hiện tại, và cuối cùng sẽ đưa chúng ta đạt đế mục đích tối thượng là sự giác ngộ hoàn toàn.

Rất nhiều hành giả đã đạt được sự chứng ngộ cao nhất thông qua thực hành bổn tôn Vajrayogini. Trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ cổ, rất nhiều người đã đạt được chứng ngộ thông qua thực hành Heruka Chakrasamvara và Vajrayogini, và kể từ khi các mật điển được đưa đến Tây Tạng, rất nhiều đạo sư Tây Tạng vĩ đại đã thành tựu hoàn hảo thông qua thực hành này.

7) Kim Cang Thủ (tiếng Tây Tạng: Chagna Dorje)

lineage-practice_vajrapani_250

Lịch sử dòng truyền thừa

Dòng truyền thừa của Ngài Rechungpa

Sự trao truyền truyền thừa

Đức Phật Kim Cang Trì -> Ngài Kim Cang Thủ -> Các Đại Thành Tựu giả Ấn độ-> Lạt Ma Walachandra -> Ngài Rechungpa mang tới Tây Tạng -> sau một số bậc thầy nắm giữ dòng truyền thừa -> Ngài Yongzin và Ngài Choegon

Giới thiệu Bổn tôn:

Kim Cương Thủ là vị Bồ Tát biểu trưng cho sức mạnh của tất thảy chư Phật. Ngài là vị Phật toàn giác, chuyển hóa năng lượng của cảm xúc tiêu cực thành trí tuệ siêu việt và sự toàn thiện kỳ diệu. Ngài tượng trưng cho Kim Cương bất hoại của chư Phật, sức mạnh hàng phục. Ngài là "Vị chúa tể của các bí mật" (Tây Tạng: Sangwe Dagpo) – người nắm giữ tất cả các mật điển của Kim Cương Thừa.

Miêu tả ngắn gọn:

Thân Ngài mang sắc tướng xanh đen, một con rắn quấn quanh cổ, trang nghiêm thân bằng vòng vàng, khăn quàng lụa, các loại trang sức và xương, phía dưới Ngài khoác tấm da hổ. Ngài đứng giữa một đám cháy dữ dội. tay phải nắm giữ chùy Kim cang 9 chấu, dùng để hàng phục các thế lực phàm trần; tay trái cầm Kim xí điểu ngang ngực. Ngài biểu hiện sự phẫn nộ bằng ba mắt và lưỡi cuộn tròn. Chân trái Ngài dang rộng và chân phải hơi co, dẫm lên xác bản ngã.

Mục đích và những lợi lạc của việc thực hành:

Kim Cương Thủ, Bậc Chiến Thắng siêu việt, là phương tiện đạt tới quyết tâm mạnh mẽ, là biểu tượng cho hiệu quả không ngừng trong cuộc chinh phục cái xấu và chuyển hóa nó thành con đường của hoàn thiện tâm linh.

Thực hành Pháp Kim Cương Thủphương pháp ưu việt đốt cháy mọi cảm xúc phiền não và che chướng. Thông qua thực hành Pháp Kim Cương thủ, chúng tathể đạt được sức mạnh để đánh bại và cượt qua những chướng ngại tâm linhthế tục bao gồm những ốm đau khổ hạnh hay các tật bệnh hiểm nghèo khác. Thành tựu đó là năng lượng vi diệu làm lợi ích cho chúng sinh.

8) Ngài Mahakala tứ thủ (tiếng Tây Tạng: Gonpo Chagshi)

lineage-practice_mahakala_250

Lịch sử dòng truyền thừa:

Dòng truyền thừa của Ngài Palchen Galo Namgyal Dorje

Ngài Palchen Galo Namgyal Dorje, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Ngài Ga Lotsawa là một Đại thành tựu giả vĩ đại của Tây Tạng và là một dịch giả, người đã đến Ấn Độ và mang về rất nhiều giáo pháp quý giá cho Tây Tạng, đặc biệtpháp thực hành Mahakala. Ngài chuyên về việc thực hành tu tập pháp Mahakala, và đã truyền dạy rất nhiều pháp này cho cả bốn tông phái của Phật giáo Tây Tạng. Tất cả các pháp thực hành Mahakala bắt nguồn từ Ngài Pachen Galo đều được coi là rất xác thực và có uy tín cao.

Sự trao truyền của truyền thừa:

Đức Phật Kim Cương Trì -> Ngài Kim Cương Thủ -> Nhà vua Indra Bhuti -> Ngài Saraha -> Nagajurna (Bồ Tát Long Thọ) -> sau một số vị Đại thành tựu giả Ấn Độ -> Ngài Pachen Galo Namgyal Dorje, bậc thượng sư Tây Tạng vĩ đại và là dịch giả đã mang nhiều pháp Mahakala trong đó có dòng truyền thừa này từ Ấn Độ sang Tây Tạng -> Ngài Tsultrim Jungne-> Ngài Dorje Wangchuk -> Ngài Phagmo Drupa -> Ngài Shang Tsalpa -> Ngài Rinchen Repa -> Ngài Tsangpa Gyare -> sau một số bậc thầy nắm giữ dòng truyền thừa -> Ngài Yongzin & Ngài Choegon.

Giới thiệu Bổn tôn:

Mahaka là hóa thân phẫn nộ của Bồ Tát Quan Âm, hiện thân cho lòng từ bi phẫn nộ của tất cả chư Phật. Lòng từ bi phẫn nộ của Ngài có thể giúp vượt qua mọi chướng ngạitiêu cực mà người ta phải đối mặt trên con đường đi đến giác ngộ.

Mahakala, còn được biết đến là một Đại Hộ pháp, là người bảo vệ cho những giáo pháp của Đức Phật. Những vị hộ pháp về cơ bản là những hóa thân của chư Phật để thực hiện vai trò loại bỏ những chướng ngại trên con đường đến với giải thoát. Pháp thực hành của Ngài có thể được tu tập giống như Tam căn bản – Thượng sư, Bổn tôn và Hộ pháp.

Có rất nhiều màu sắc và hình tướng khác nhau của Mahakala, nhưng nhìn chung Ngài thường được nhận ra trong tất cả những tông phái của Kim Cương Thừa là một trong những người bảo vệ Pháp nổi bật và vĩ đại nhất.

Ví dụ như, Ngài Maning Mahakala của truyền thống Nyingma, Ngài Mahakala Bernakchen (Mahakala áo đen) – Mahakala Nhị Thủ của dòng Karma Kagyu, Ngài Mahakala Tứ Diện (Shar She Pa) của truyền thống Sakya và Ngài Mahakala Lục Thủ là Đại hộ pháp của dòng Gelugpa.

Mục đích và những lợi lạc của việc thực hành:

Mục đích của việc thực hành pháp Mahakala là để giúp những hành giả loại bỏ tất cả mọi chướng duyên ngăn cản sự tu tập tâm linh của họ, cũng như ủng hộ những nỗ lựcchí thành đồng thời tịnh hóa những phiền nãovô minh. Với lời thỉnh cầu tha thiết và thực hành tinh tấn, hành giả sẽ có được những ân phước gia trìvượt qua mọi chướng ngại.

*Ngài Palchen Galo Namgyal Dorje là một trong những đời trước của Ngài Choegon Rinpoche

Nguồn: http://www.drukpachoegon.info/lineage-practices.aspx

Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên.



[1] Palchen Galo Namgyal Dorje là một trong các đời trước của Choegon Rinpoche.

Nguồn: thuvienhoasen

Ý kiến bạn đọc
25 Tháng Hai 201308:00
Khách
Cảm ơn ý kiến của quý ĐH. Tuy nhiên, việc đăng lại và ghi rõ nguồn từ thuvienhoasen là việc hoàn toàn được phép, đã được nêu trong website thuvienhoasen. Vì vậy việc sai sót hoàn toàn là ngoài ý muốn từ nguồn đăng, không có ý nghĩa gì là hoavouu không tôn trọng dịch giả. Rất mong quý ĐH hoan hỷ, tiêu đề đã được sửa như quý ĐH đính chính.
23 Tháng Hai 201308:00
Khách
Không biết BQT copy bài này ở đâu, nhưng tiêu đề là sai, phải là Các thực hành - rất mong là quý BQT tôn trọng các dịch giả chút chút. Rất hy vọng BQT sẽ liên lạc với dịch giả để nhận được bản chuẩn nhất. Đừng copy lại từ các trang khac
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25652)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37867)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19583)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18663)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14256)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20097)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9500)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14368)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35562)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10653)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19701)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23198)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13359)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10745)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20214)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10600)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9962)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14875)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17654)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17595)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13185)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31160)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25753)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13979)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17505)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10971)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12289)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10467)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12267)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9613)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12353)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9958)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9756)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12029)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14415)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9899)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11205)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8295)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14082)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15204)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13036)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23075)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23986)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12568)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15424)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17785)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15048)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16550)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16089)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17636)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11588)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11617)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17823)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10779)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11321)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12078)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11046)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36413)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8960)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9678)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34708)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10241)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10468)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12197)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13633)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14664)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9148)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24803)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11636)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10314)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15939)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15568)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13003)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14577)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18354)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9570)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18517)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18584)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19016)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13341)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47985)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11064)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13547)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13036)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12552)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31772)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11667)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant