Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara

17 Tháng Tư 201300:00(Xem: 22815)
Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara


tara-drukpa-01Chủ nhật ngày 14/4 (tức 5.3 Â.L), Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa và tăng đoàn Truyền thừa quang lâm, cầu nguyện quốc thái dân an và ban đại lễ gia trì quán đỉnh cộng đồng Lục Độ Phật Mẫu Tara.

Từ hàng ngàn năm nay, đức Lục Độ Phật Mẫu là vị Bản tôn Mẫu tính được tôn kính nhất trong truyền thống Kim Cương thừa. Trong vô số kiếp quá khứ, khi thấu suốt căn nguyên của khổ đau luân hồi, với lòng từ bi vô hạn và hạnh nguyện lợi tha, Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara đã phát nguyện rằng bất kỳ chúng sinh nào nghe được danh hiệu Ngài, nhìn thấy Ngài, trì niệm chân ngôn của Ngài thì tất những ước nguyện thế gian đều được sở cầu như ý, ngay cả tâm nguyện xuất thế gian cũng sẽ viên mãn. Phật Mẫu Tara vì thế nêu biểu cho phẩm chất giải thoátbảo hộ hữu tình. Ngài là bậc từ mẫu đáp ứng mọi thỉnh cầu, giải thoát chúng sinh khỏi mọi hiểm nguy, chướng ngại trên phương diện thế gian và cả trên hành trình thực hành tâm linh.

Để giúp đỡ quý vị Phật tử có sự chuẩn bị và tri thức cần thiết khi tham dự Pháp hội, Drukpa Việt Nam xin giới thiệu toát yếu các khai thị của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa về ý nghĩa và hướng dẫn thực hành pháp tu Lục Độ Phật Mẫu Tara.

 

 

tara-drukpa-02OM JÉ TSUNMA PHAGMA DrOLMALA CHHAGTSHEL LO/

OM- Kính lễ Lục Độ Mẫu Bản tôn!

CHHAGTSHEL TARÉ NYURMA PAMO/

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tara Phật Mẫu dũng uy phi thường,

TUTTARA YI JIGPA SELMA/

TUTTARA đại lực cường

Bao nhiêu sợ hãi Ngài thương giải trừ,

TURÉ DONKUN DJINPÉ DrOLMA/

Âm TURE nghĩa thắng dư

Mọi điều sở nguyện ban cho toại thành,

SOHA YIGÉ KHYÖELA DÜETO/

SOHA hai chữ diệu linh

Con nay đỉnh lễ, rạp mình tán dương!

1. Lợi ích của pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara

Cuộc sống đời người luôn kèm theo các nỗi lo sợ bên trong và bên ngoài, bám suốt đeo đẳng từ khi sinh ra đến lúc chết đi, từ vô thủy luân hồi tới mãi về sau cũng như vậy. Sinh ra từ giọt nước mắt của lòng bi mẫn Quan Âm, Đức Lục Độ Phật Mẫu hiện diện nơi thế gian để ban gia trì trường thọ, cứu giúp chúng ta thoát khỏi mọi tai ách, mang tới hạnh phúc an lạc cho vô lượng chúng sinh. Ngài là Bậc hộ trì che trở, giải cứu chúng sinh khỏi tám nỗi sợ hãi, bao gồm những sợ hãi về tứ đại, các bi kịch thế gian và những hoạn nạn hiểm nguy nơi thân tâm. Bất kỳ ai nếu có bất kỳ khó khăn chướng ngại nào trong cuộc sống hoặc có bất kỳ mong nguyện nào chỉ cần chí thành cầu nguyện đến Ngài tức thời được giải trừ nguy hiểm.

tara-drukpa-03Pháp thực hành Tara liên quan đến việc cầu nguyện lên 21 hóa thân Tara để bảo vệ chống lại các tác động phương hại khác nhau, chẳng hạn như Phật mẫu Tara an bình màu trắng chống lại sự suy thoái của thế giớihữu tình, những thù nghịch công kích, ốm đau, ma thuật; đức Tara màu đỏ chống lại hiểm họa từ nước như lụt lội, chết đuối, ô nhiễm nước ăn, các tác động xấu do ham muốn gây ra; đức Tara màu vàng chống lại thảm họa từ thiên thạch, sấm chớt, mưa đá, tuyết lở cùng tác hại từ các sinh linh ma quỷ, thù hận, ghen tỵ; Phật mẫu Tara bảo vệ chống lại sự phương hại từ Vũ khí, giúp thế giới tránh cảnh chiến tranh, diệt vong, những thảm họa đối nghịch săn đuổitác hại của xúc tình phiền não sân giận… 21 hóa thân Tara tượng trưng cho hai mươi mốt hạnh nguyện, phù hợp với các mong cầu khác nhau của chúng sinh, giúp chúng sinh thành tựu tu tậpbảo hộ họ khỏi tai nạn nguy hiểm. Những ai có thể hành trì ba lần hoặc bảy lần cầu nguyện đến 21 Độ Mẫu mỗi ngày thì mọi mong nguyện rất dễ thành tựu, mọi chướng ngại sẽ dễ vượt qua.

Đức Lục Độ Phật Mẫu như thế được tôn xưng là mẹ của tất cả Chư Phật, mẹ của tất cả vũ trụ và của hết thảy yếu tố đất, nước, gió, lửa. Bởi Ngài nắm giữ toàn bộ sự gia trì nên bất cứ chúng sinh cầu nguyện điều gì với tâm chí thành tha thiết đều sẽ được như nguyện. Vì thế pháp thực hành lễ tán cúng dàng đức Lục Độ Phật Mẫu và việc trì niệm chân ngôn của Ngài là vô cùng quan trọng và thù thắng.

 

 

2. Ý nghĩa của Đức Tara

tara-drukpa-04Kinh điểngiáo lý Kim Cương thừa đưa ra nhiều cách tiếp cận về ý nghĩa của Đức Tara. Theo cách hiểu chung nhất, Tara là một vị Phật. Dưới góc độ lịch sử, Ngài từng là một nữ hành giả phát Bồ đề tâm đạt giác ngộ tối thượng để lợi ích chúng sinh. Kinh điển cũng dạy rằng Đức Tara là giọt lệ của lòng bi mẫn, hiện thân công hạnh của Đức Phật Quan Âm. Theo cách hiểu khác, đức Tara là hiện thân của phẩm hạnh giác ngộ. Cuối cùng, cũng có thể hiểu đức Tara là tiềm năng Phật tính sẵn có nơi mỗi người.

Đức Tara là Phật

Đức Tara hay Lục Độ Phật Mẫuđức Phật, bất kỳ ai đều có thể trở thành Phật. Chúng ta cần biết có rất nhiều đức Phật và các cõi Tịnh độ của các Ngài song tâm toàn tri chỉ có một và phẩm hạnh, công đức, trí tuệ của các bậc giác ngộ đều như nhau. Chư Phật đã loại bỏ được tất cả phiền não, tựu chung được chia làm hai loại: Phiền não chướngSở tri chướng. Những chướng ngại này là nguyên nhân khiến chúng ta mắc kẹt trong đau khổ luân hồi. Sở tri chướngvô minh phiền não vi tế trong tâm chúng sinh, phiền não chướng là những trạng thái si mê, sân giận, tham áinghiệp quả đã vận chuyển vòng quay luân hồi. Bất kỳ đức Phật nào đều hoàn toàn xả ly mọi loại phiền não trên và hoàn thiện trưởng dưỡng tất cả phẩm hạnh như Từ, Bi Hỷ, Xả cũng như viên mãn công hạnh Ba la mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.

Sắc tướng Phật mẫu của Đức Tara biểu trưng cho trí tuệ là nhân tố chính để loại bỏ vô minh. Sự vô minh này đã gây lầm lẫn thực tại và là gốc rễ của sự đau khổ. Người phụ nữxu hướng cảm nhận và nhận thức nhanh chóng nhờ vào trực giáctrí tuệ bí mật. Đức Tara biểu trưng cho phẩm hạnh này! Một cách không quản ngại, Ngài có khả năng giúp chúng ta phát triển những phẩm hạnh đó. Vì Ngài biểu trưng cho trí tuệ chứng ngộ thực tại, tâm tự do khỏi vô minh chấp thủ, bản ngã nên Ngài được tán thán là Mẹ của tất cả chư Phật.

Đức Tara là nhân vật lịch sử

tara-drukpa-01

Vô số kiếp trong một cảnh giới khác, có một công chúa tên là Yeshe Dawa. Nhờ sở học và trí tuệ của mình, nàng có lòng tin kiên cố với ba ngôi Tam Bảo. Nàng thấu hiểu đời sống bất như ý của bản chất luân hồiquyết định giải thoát khỏi tất cả mọi đau khổ. Do thấu hiểu tất cả chúng sinh cũng giống như mình đều muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau nên Công chúa đã trưởng dưỡng lòng từ bi và tình yêu thương hướng về muôn loài hữu tình. Nàng không thích lối sống xa hoa trong cung điện vàng ngọc, và đã phát lời nguyện dẫn dắt hướng đạo cho hàng nghìn chúng sinh trên con đường giải thoát mỗi ngày trước bữa ăn sáng, cho hàng nghìn chúng sinh trước bữa ăn trưa, và thậm chí nhiều hơn nữa trước khi đi ngủ. Vì nhân duyên này, công chúa được tôn xưng là Arya (Bậc tôn quý) có nghĩa là Nàng có thể chứng ngộ trực tiếp bản chất của thực tại và danh xưng đó biểu lộ các hạnh nguyện giải thoát của Nàng. Một bậc lãnh tụ tâm linh của thời đó đã khuyên Công chúa hãy cầu nguyện để tái sinhgiác ngộ trong thân trượng phu. Nhưng Công chúa Yeshe Drawa đã phát nguyện thành tựu giác ngộ trong thân người nữ và còn liên tục hóa thân trở lại trong hình tướng nữ nhân để cứu độ hữu tình. Và từ đó, Ngài bắt đầu tích lũy những công đức trí tuệ cho đến khi đạt giác ngộ trong hình tướng Đức Phật Mẫu Tara.

Dù cho chúng ta là thân nam hay nữ thì Đức Tara lịch sử là tấm gương cho chúng ta. Giống như mọi hữu tình, Ngài cũng từng là một chúng sinh bình thường, cũng từng bị chi phối bởi xúc tình phiền não. Nhưng nhờ phát nguyện, tu tập Phật pháp rèn luyện tâm linh nên Ngài đã đạt được toàn giác. Giống như vậy, nếu biết phát đại nguyệnthực hành giáo pháp với niềm tinh tấn hỷ lạc, chúng ta cũng có thể được thành tựu giác ngộ như Ngài. Câu chuyện về Ngài là tấm gương sách tấn lớn lao đối với mỗi chúng ta trên con đường tu tập!

Tara là hiện thân công hạnh của Đức Quan Âm

tara-drukpa-05Trong một bản Kinh Lục Độ Phật Mẫu khác có kể rằng: Đức Tara được sinh ra từ giọt nước mắt bi mẫn của Đức Quan Âm. Nhân duyên vì Đức Avalokiteshvara hay Đức Quan Âm đã không ngừng cứu độ chúng sinh để giải thoát tất cả thoát khỏi cõi địa ngục thống khổ. Sau khi hoàn thành công hạnh này, Ngài chỉ kịp nghỉ ngơi một chút, nhưng ngay sau đó Ngài nhận ra rằng trong cõi địa ngục thống khổ kia thoáng chốc lại đầy tất cả những chúng sinh mình vừa cứu khỏi, bởi họ lại vừa tạo tác thêm những ác nghiệp cực trọng. Trong khoảnh khắc tuyệt vọng, Đức Quan Âm đã nhỏ những giọt nước mắt bi mẫn vì lời nguyện cứu khổ cho những chúng sinh vô minh đó. Một trong những giọt nước mắt từ bi của Đức Quan Âm đã biến thành Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara để khích lệ Ngài trên con đường Bồ Tát hạnh. Khi đó, Đức Tara đã phát nguyện rằng: "Xin Ngài đừng tuyệt vọng, tôi nguyện cùng Ngài giải thoát tất cả chúng sinh vô minh trong cõi luân hồi thống khổ mà không để sót một ai!"

Đức Tara phát nguyện rằng bất kỳ người nào nghe được danh hiệu Ngài, nhìn thấy Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì tất nhưng ước nguyện thế gian đều được sở cầu như ý, ngay cả tâm nguyện xuất thế gian cũng được viên mãn. Nguyên do đức Tara nhìn thấy nỗi khổ của luân hồi vì mong nguyện thế gian của chúng sinh không được như ý. Ngài liền phát nguyện có đầy đủ năng lực giúp họ viên mãn được mọi sở cầu thế gian, và để rồi dần giúp họ giác ngộ về chân lý tuyệt đối. Nếu biết thực hành nghi quỹ Tara một cách đúng đắn với Bồ Đề tâm chân thật vì lợi ích giác ngộ cho hết thảy khổ não chúng sinh thì tất cả những gì mà chúng ta mong nguyện tự lợi lợi tha đều được thành tựu.

 

Đức Tara là hiện thân của các Công hạnh giác ngộ

tara-drukpa-06Tâm đức Phật siêu vượt các khái niệm hạn hẹp hiện tại của phàm phu, tất cả các bậc giác ngộ đều thực hành vô số kiếp để tịnh hóa tâm và phát triển khả năng lợi ích chúng sinh. Mỗi hóa thân của chư Phật nêu biểu cho những phẩm hạnh giác ngộ như Từ, Bi, Hỷ, Xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Đức Phật Mẫu Tara giống như những Bản tôn thiền định khác là một trong những hóa thân đó!

Nếu như mỗi hóa thân có thể biểu trưng nhấn mạnh vào những phẩm hạnh cụ thể, thì đức Tara xanh biểu trưng cho Công hạnh giác ngộ của mười phương ba đời chư Phật, trong khi đức Quan Âmhóa thân của lòng Từ bi hay đức Văn Thù nêu biểu cho Trí tuệ... Các hóa thân của Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara đều được mô tảbản tôn có thể tiêu trừ sợ hãi, chướng ngại và đem lại sự viên mãn thành tựu cho chúng sinh, đặc biệt còn có đức Bạch Độ Mẫu Tara với khả năng giúp tiêu trừ bệnh tật và ban cho đời sống trường thọ.

Đức Tara là tinh túy Phật

Quan điểm thứ ba về Đức Tara là phản ánh của tiềm năng Phật tính hiện tại trong mỗi chúng ta, sẽ được phát triển toàn vẹn trong tương lai. Làm thế nào để chứng ngộ được Phật tính? Một cách ngắn gọn, chúng ta tu tập theo con đường giác ngộ, có ba điểm chính yếu nên khắc cốt ghi tâm:

 

  • Thứ nhất: Phát tâm thoát khỏi luân hồi đau khổ.
  • Thứ hai: Phát khởitrưởng dưỡng Bồ đề tâm lợi ích chúng sinh.
  • Thứ ba: Chính kiến, trí tuệ thực chứng tính không hợp nhất với bản tâm tuyệt đối của chính mình.

 

Thân tâm vi tế của chúng ta có khả năng chuyển hóa thành thân tâm giác ngộ hoàn hảo như chư Phật. Khi quán tưởng đức Phật Mẫu Tara và sùng kính Ngài, chúng ta cần thấu hiểu rằng đó là công hạnh, trí tuệ, thần lực mà mình đang được viên mãn, nhờ đó sẽ được truyền cảm hứng để chuyển hóa tâm trên con đường thành tựu tối thượng!

Bởi năng lực phi thường vì lợi ích chúng sinh, từ hàng ngàn năm nay, đức Lục Độ Phật Mẫu là vị Bản tôn Mẫu tính được tôn kính nhất trong truyền thống Kim Cương Thừa. Ngày và đêm, lúc an bình hay loạn lạc chiến tranh luôn có các chúng sinh ở khắp nơi cầu nguyện thỉnh cầu sự gia trìcứu độ của Ngài, và Ngài không hề từ nan quản ngại trong việc viên mãn công hạnh đó. Mật pháp cầu nguyện cúng dàng Tara là pháp tu trì cần thiết của tất cả hành giả Kim cương thừa để có thể thực hành Tam mật tương ưng, kết nối với Ngài và qua đó viên mãn tâm nguyện lợi tha; Đây chính là pháp thực hành phổ thôngthiết thực nhất mà người Phật tử nên hành trì để vững bước trên hành trình giác ngộ!


3. Ý nghĩa hình ảnh Bản tôn Lục Độ Phật Mẫu

tara-drukpa-02

Phương pháp hiệu quả để vượt qua chướng ngạiđạt được thành công trong cuộc sống cũng như thành tựu giác ngộ là sự thực hành, cầu nguyện thỉnh cầu Đức Tara. Ngài là bậc giải thoát, hiện thân của trí tuệ, lòng bi mẫn, tình yêu thươngđặc biệtcông hạnh thiện xảo của mười phương chư Phật. Mỗi chi tiết trong hình ảnh của đức Tara nêu biểu của các khía cạnh khác nhau của con đường Đạo giải thoát. Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực hướng đến tất cả chúng sinh, làm tươi mới tim mình, chí tâm với pháp thực hành và lân mẫn với Thượng sư chứng ngộ để thực hành Thượng Sư Tara giúp chuyển hóa tất cả những thân, khẩu, ý nhiễm ô của bạn trở thành thân, khẩu, ý linh thiêng của đức Lục Độ Phật Mẫu.

Đức Tara là hiện thân hợp nhất của đại lạctính không. Sự đại hỷ lạc phương tiện thiện xảotrí tuệ tính không của tất cả chư Phật đều xuất hiện trong sắc thân của Đức Tara để truyền cảm hứng cho chúng ta phát triển Bồ đề tâm, trưởng dưỡng những công hạnh lợi tha. Nhờ vào hiểu biết các ý nghĩa, biểu tượng và các phẩm chất của sắc thân của Đức Tara, chúng ta sẽ có niềm tin chí thànhtinh tấn đi theo con đường Ngài hướng đạo để tỏa chiếu những phẩm chất, công hạnh, thần lực Tara trong tự thân chúng ta.

Trước hết, màu sắc của Đức Phật Mẫu Tara biểu trưng các công hạnh thành tựu. Dù Ngài có cùng phẩm hạnh như là các hiện thân của bậc toàn tri khác, Đức Tara đặc biệt hiện thân cho các công hạnh giác ngộ của chư Phật, gia trì đem lại lợi íchchúng ta. Thêm vào đó, Ngài đại diện khía cạnh thanh tịnh của Không đại, vì Không đại bao hàm tất cả các sự vật hiện tượng. Những ảnh hưởngcông hạnh của Đức Tara làm những phẩm hạnh vô ngã vị tha tiềm tàng của chúng ta nở hoa giác ngộ thơm ngát muôn phương. Những hạt giống tốt mọc dễ dàng là niềm vui của người nông dân. Cũng vậy, sắc xanh của Ngài nêu biểu cho sự thành công của sự xả bình đẳng trong thế giới trần tục, cũng như trong sự phát triển thế giới tâm linh cho chúng ta cảm giác vui vẻ, hy vọnglạc quan. Những tâm nguyện của Đức Tara có thể dễ dàng nở hoa kết trái và hạnh nguyện của Ngài nhanh chóng cảm ứng tới chúng sinh không thể nghĩ bàn. Vì lý do này, bằng sự quán tưởng và cầu nguyện Đức Tara, chúng tanăng lực để tạo ra nhân của hạnh phúc và sự thông tuệ trong sự thực hành pháp trên con đường tự lợi, lợi tha.

Sắc thân của Đức Tara kết tinh bằng ánh sáng và thuộc về phương Bắc. Thân ánh sáng của Ngài xuất hiện nhưng không thể nắm bắt, giống như cầu vồng, ảo cảnh. Thân ánh sáng này là biểu trưng cho sự hợp nhất của hai chân lý: Chân lý tương đốiChân lý tuyệt đối. Trong mức độ chân lý tương đối, Đức Tara xuất hiện tồn tại. Ấy vậy mà khi chúng ta tìm kiếm sự tồn tại tuyệt đối của Ngài thì không thể tìm thấy bất kỳ thứ gì tồn tại một cách cố hữu, độc lập từ các nhân và điều kiện, các phần, thuật ngữ và khái niệm. Đức Tara xuất hiện một cách tương đối giống như ảo giác, không thể tìm thấy nắm bắt được và chỉ là tính không.

Thân của Đức Tara diễn tả sự nội chứng bên trong và các công hạnh vị tha bên ngoài. Tư thế vũ điệu du hý của Ngài tự do, cởi mở và thân thiện, chân phải của Ngài duỗi xuống chỉ ra sự sẵn sàng bước xuống cõi luân hồi đau khổ để cứu giúp chúng tachúng sinh vô minh. Nhờ năng lực của lòng bi mẫn, Đức Tara có thể ứng hiện trong mọi cõi giới. Ngài không trốn tránh sự khổ đau mà đối mặt nó một cách vô úytừ bi bằng cách trung hòa đau khổ.

Chân trái Ngài co vào phía trong lòng, tỏ rõ rằng Ngài kiểm soát toàn bộ năng lượng vi tế bên trong, từ bi không quản ngại vấn đề gì, cho dù ai đó tán thán hay hủy báng, làm tổn hại hay giúp đỡ, năng lực của Ngài không vì thế trở nên mất cân bằng và tâm Ngài không rời bình đẳng xả.

Tay phải Ngài trong tư thế thực chứng siêu việt bằng cách thực hành tu tập để tự thân thành tựu sự chứng ngộ. Tư thế này cũng gọi là Thí Nguyện Ấn là tư thế bố thí nêu biểu Ngài sẵn sàng ban cho tài sản, tình yêu thương, sự bảo hộgiáo pháp để tất cả chúng sinh tùy theo những nhu cầu và những mong ước của họ đều được viên mãn.

Tay trái của Ngài là Ấn Tam Bảo, với ngón tay cái chạm vào ngón tay đeo nhẫn và 3 ngón tay kia hướng thẳng, 3 ngón duỗi thẳng nêu biểu Tam bảo Phật, Pháp, Tăng có nghĩa rằng giao phó bản thân chúng ta nương tựa Ba ngôi báu và thực hành giáo pháp giải thoát. Ngón cái và ngón áp út chạm nhau nêu biểu chúng ta có thể hợp nhất lòng từ bi hỷ lạctrí tuệ tính không.

Tay phải của Đức Tara và chân phải đều duỗi hướng ra phía ngoài, nhấn mạnh các công hạnh hạnh từ bi vị tha, phương tiện thiện xảo của con đường giác ngộ. Tay trái và chân trái của Ngài đều thu vào phía người biểu đạt sự điềm tĩnh an bình bên trong đạt được thông qua việc thực hành trí tuệ của đạo giải thoát.

Trong mỗi bàn tay của Ngài trì giữ hoa Utpala, hoa sen xanh. Bên phía tay trái, một bông nụ là nêu biểu chư Phật tương lai, bông nở hoàn toàn là nêu biểu chư Phật quá khứ, bông đang nở là nêu biểu đức Phật hiện tại. Trên vương miện của Đức Tara là Bản Sư Di Đà an bìnhmỉm cười. Vì đức Phật Di Đà là bậc thượng sư hướng đạo tâm linh của Đức Tara, được an trí trên vương miện của đức Tara nhằm nêu biểu tầm quan trọng khi có bậc Căn bản Thượng sư đầy đủ phẩm hạnh trí tuệlòng từ bi dẫn dắt đệ tử đi đúng trên con đường giác ngộ, và cũng nêu biểu Đức Tara luôn trú tâm vào giáo pháp mà Ngài được đón nhận từ bậc Thượng Sư của mình. Điều này nhắc nhở chúng ta thực hành noi theo thiện hạnh của Ngài.

Tiếp theo là các sức trang hoàng. Nếu phàm nhân chúng ta thường trang điểm cho thân thể mình những trang sức bên ngoài để trông cho đẹp mắt thì vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong đức Tara là lòng từ, bi, hỷ, xả mới thực sự là trang sức của Ngài. Sáu sức trang hoàng: Vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, vòng chân, đai lưng, vương miện bằng ngọc báu sáng chói trang hoàng trên sắc thân Ngài nêu biểu cho sự viên mãn sáu Ba la mậtbố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền địnhtrí tuệ Ba La Mật và mọi công hạnh lợi tha này là trang sức giải thoát của báo thân Ngài.

Đức Tara cũng trang hoàng với ba chữ chủng tử, chủng tử OM trên vương miện, chữ AH tại luân xa cổ họng và chữ HUNG tại luân xa tim. Ba chữ chủng tử này tương ứng với thân, khẩu, ý giác ngộ của Phật và nêu biểu cho Tam quy: Phật, Pháp, Tăng. Những chữ chủng tử này thường dùng làm đối tượng vi tế khi hành giả chú tâm thiền định. Ba chủng tử tự nhắc nhở những phẩm hạnh mà chúng ta đang trưởng dưỡng trong chính mình, đó là kết quả thực hành Phật Pháp. Mỗi đặc điểm sắc tướng của Đức Tara minh họa cho toàn bộ con đường giác ngộ đạt đến Phật quả và Tara là hợp nhất các tinh túy đức tính, thần lựccông hạnh giác ngộ.

4. Cốt yếu quán tưởng thực hành Bản tôn Lục Độ Phật Mẫu Tara

Để có thể thực hành pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara, các Phật tử cần tìm cầu và thụ nhận quán đỉnh Tara để đón nhận dòng ân phúc gia trì từ Đức Phật Mẫu Tara, từ bậc Kim Cương Thượng Sư bất khả phân với Bản tôn Tara và từ Truyền thừa giác ngộ để được phép tu tập, trì tụng chân ngôn cũng như tự quán thân mình là Đức Lục Độ Phật Mẫu.

Trước khi đi vào phần nghi quỹ chính, hành giả phải thực hành quy yphát Bồ đề tâm. Việc này vô cùng quan trọng bởi nguyên nhân của những khổ đau chúng ta đang phải chịu là vì bám chấp vào bản ngã, chỉ khư khư nghĩ đến cá nhân, gia đình và những người thân của mình. Tâm chúng ta rất ít khi mở rộng để nghĩ đến người khác. Chính về những tâm yêu ghét như vậy chúng ta tạo vô số ác nghiệp với kết quả là sự khổ đau và trôi lăn trong luân hồi sinh tử. Bởi vậy, khi thực hành Phật Pháp, chúng ta không chỉ cầu nguyện riêng cho cá nhân mình, mà còn phải phát tâm Bồ đề, mở rộng tâm mình cầu nguyện cho tất cả pháp giới chúng sinh, qua đó chúng ta bớt đi bản ngã và biết sống vô ngã vị tha hơn. Sau đó chúng ta sẽ triệu thỉnh Đức Phật Mẫu Tara và quán tưởng Ngài hiển diện sống động, bất khả phân với bậc Căn bản Thượng sư (là tinh túy của Tam căn bản và là sự hợp nhất của tất cả chư Thượng sư giác ngộ của Truyền thừa Drukpa). Nếu có thời gian thì có thể trì tiếp lời cầu nguyện tới 21 Lục Độ Mẫu, nếu khôngthời gian thì chúng ta sẽ trì thẳng vào câu chân ngôn “Om Tare Tutare Ture Soha”, có thể trì 3 tràng, 7 tràng hoặc 21 tràng, càng nhiều càng tốt. Và sau khi trì chú xong chúng ta sẽ quán tưởng hòa tan. Quán tưởng Đức Phật Mẫu Tara hòa nhập tan vào trong mình và bản thân chúng ta an trụ trong tự tính bất khả phân với tâm giác ngộ của Đức Phật Mẫu Tara. Không nghĩ về quá khứ, không nghĩ về tương lai, không phân biệt hiện tại, an trú trong trạng thái vô niệm tỉnh giác như vậy càng lâu càng tốt.

Việc quán hòa tan để an trụ trong tự tính tâm là một việc vô cùng quan trọng. Chẳng hạn khi tâm chúng ta đang nhiều phiền não khổ đau, đang nhiều căng thẳng, chúng ta có thể quán Đức Pháp Vương bất khả phân với Đức Phật Mẫu Tara rồi hòa nhập tan vào trong chúng ta, chúng ta an trụ nương tựa hòa nhập làm một trong tự tính tâm giác ngộ của Ngài. Nhờ quán tưởng như vậy, thư giãn như thế chúng ta sẽ giảm bớt căng thẳng lo âu trong đời sống phàm tình. Và tâm chúng ta sẽ thư giãn hơn, chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của những của cải vật chất, những thứ thành công mang tính thế gian chỉ có mang tính chất tương đối, còn hạnh phúc chân thật nhất chính là hạnh phúc chúng ta tìm được sự nghỉ ngơi an lạc trong đáy sâu tâm hồn, sự tỉnh giác của chính mình.

 

Cầu nguyện 21 Lục Độ Mẫu

· OM JÉ TSUNMA PHAGMA DrOLMALA CHAGTSHEL LO

OM- Kính lễ Lục Độ Mẫu Bản tôn!

CHAGTSHEL TARÉ NYURMA PAMO

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tara Phật Mẫu dũng uy phi thường,

TUTTARA YI JIGPA SELMA

TUTTARE đại lực cường

Bao nhiêu sợ hãi ngài thương giải trừ,

TURÉ DONKUN JINPÉ DrOLMA

Âm TURE nghĩa thắng dư

Mọi điều sở nguyện ban cho toại thành,

SOHA YIGÉ KHYÖELA DÜEDO

SOHA hai chữ diệu linh

Con nay đỉnh lễ rạp mình tán dương.

 

· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU CỨU ĐỘ TỐC DŨNG TARA

CHAGTSHEL DrOLMA NYURMA PAMO

Chí thành đỉnh lễ quy y

Cứu Độ Tốc Dũng nan nghì Tara

CHENNI KÉCHING LOGDANG DrAMA

Hào quang ánh mắt rọi xa

Như muôn tia chớp tỏa ra sáng ngời

JIGTEN SUMGON CHU KYÉ SHELGYI

Thánh Tôn ba cõi lệ rơi

GÉSAR JÉWA LÉNI JUNGMA

Hoa sen hóa hiện ngài thời đản sinh.

 

· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU BÁCH THU LÃNG NGUYỆT TARA

CHAGTSHEL TONKEI DAWA KUNTU

Chí thành đỉnh lễ quy y

Bách Thu Lãng Nguyệt nan nghì Tara

GANGWA GYANI TSEGPEI SHELMA

Tôn nhan, vẻ nguyệt chan hòa

Tịnh không trần cấu hợp về một nơi,

KARMA TONGTHrAG TSHOGPA NAMKYI

Như ngàn tinh tú rạng ngời

RABTU CHEWEI ÖERAB BARMA

Uy quang thù thắng muôn loài sánh sao.


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU LAM KIM CỨU ĐỘ TARA

CHAGTSHEL SERNGO CHHUNÉ KYÉKYI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Lam Kim Cứu Độ nan nghì Tara

PADMÖE CHAGNI NAMPAR GYENMA

Diệu kỳ một đóa liên hoa

Tay ngài trì giữ rất là trang nghiêm,

JINPA TSONDrUB KA THUB SHIWA

Bố thí, giới trì, nhẫn an

ZÖEPA SAMTEN CHÖEYUL NYIMA

Tinh tấn, thiền định, tuệ viên mãn đầy


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU NHƯ LAI ĐỈNH KẾ TARA

CHAGTSHEL DESHIN SHEGPEI TSUGTOR

Chí thành đỉnh lễ quy y

Như Lai Đỉnh Kế nan nghì Tara

THAYÉ NAMPAR GYELWAR CHÖEMA

Công hạnh siêu thắng hằng sa,

Sáu ba la mật đã là viên dung,

MALÜE PHAROL CHINPA THOBPEI

Các bậc Pháp tử vô song

GYELWEI SÉ KYI SHINTU TENMA

Của chư Thắng Giả hết lòng tán dương.


· NGUYỆN CẦU PHẬT TARA TỰ MẪU TUTTARE HUNG

CHAGTSHEL TUTTARA HUNG YIGÉ

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tara Tự Mẫu TUTTARE HUNG

DÖEDANG CHOGDANG NAMKHA GANGMA

Âm thanh viên mãn khôn cùng

Lòng từ tran trải khắp vùng muôn phương;

JINTEN DUNPO SHABKYI NENTÉ

Bảy cõi dưới gót chân sen,

LÜEPA MÉPAR GUG PAR NÜEMA

Bi tâm thu nhiếp chấn yên hữu tình.


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU THÍCH PHẠM HỎA THIÊN TARA

CHAGTSHEL GYAJIN ME LHA TSHANGPA

Chí thành đỉnh lễ quy y

Hỏa Thiên Thích Phạm nan nghì Tara

LUNGLHA NA TSHOG WANGCHUG CHÖEMA

Phong Thần, Tự Tại chủ thiên

JUNGPO ROLANG DrIZA NAMDANG

Hương thơm, nhiều bộ quỷ ma kiếm tìm

NÖEJIN TSHOGKYI DUNNÉ TÖEMA

Dạ xoa ma chúng một niềm

Hân hoan tán thán tôn sùng Tara.


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU TRÁT PHÉT CỨU ĐỘ TARA

CHAGTSHEL TrAT CHÉJA DANG PHET KYI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tara ’TRAT PHET’ uy nghi độ từ,

PHAROL THrULKHOR RABTU JOMMA

Chướng ngăn hết thảy không dư

Do ngài phù hộ giải trừ tiêu tai

YÉKUM YONKYANG SHABKYI NENTE

Chân phải co, trái duỗi dài

MÉBAR THrUGPA SHINTU BARMA

Trong vầng lửa cháy rực ngời hào quang.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU TURE PHẪN NỘ TARA

CHAGTSHEL TURÉ JIGPA CHHENPÖE

Chí thành đỉnh lễ quy y

TURE Phẫn Nộ nan nghì Tara

DÜE KYI PAWO NAMPAR JOMMA

Muôn loài oán quỷ hận ma

Dũng uy hàng phục thời đà chuyển tâm

CHU KYÉ SHELNI THrO NYER DEN DZÉ

Mặt sen đượm một từ dung

DrAWO THAMCHÉ MALÜE SÖEMA

Mi chau hóa giải mê lầm oan khiên

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU TAM BẢO NGHIỂM ẤN TARA

CHAGTSHEL KONCHOG SUMTSHON CHAGGYEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Tam Bảo Nghiêm Ấn nan nghì Tara

SORMÖE THUGKAR NAMPAR GYENMA

Giữa tâm bắt ấn ngón hoa

MALÜE CHOGKYI KHORLÖE GYENPEI

Uy nghiêm luân báu nguy nga khắp trời

RANGGI ÖE KYI TSHOGNAM THrUGMA

Hào quang thân báu sáng ngời

Muôn phương chiếu rọi nơi nơi huy hoàng.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU UY ĐỨC HOAN HỶ TARA

CHAGTSHEL RABTU GAWA JIPEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Uy Đức Hoan Hỷ nan nghì Tara

WU GYEN ÖE KYI THrENGWÉ PELMA

Vương miện nghiêm sức chói lòa

SHÉPA RABSHÉ TUTTARA YI

Cười vang hoan hỷ TUTTARE tràng

DÜEDANG JINTEN WANGDU DZÉMA

Các loài ma quỷ thế gian

Ngài thời nhiếp phục quy hàng chuyển tâm

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU THỦ HỘ CHÚNG ĐỊA TARA

CHAGTSHEL SASHI KYONGWEI TSHOGNAM

Chí thành đỉnh lễ quy y

Thủ Hộ Chúng Địa nan nghì Tara

THAMCHÉ GUGPAR NÜEMA NYIMA

Uy lực triệu bách thần ra

THrO NYER YOWEI YIGÉ HUNG GI

Chau mày dao động hiện là chữ Hung

PHONGPA THAMCHÉ NAMPAR DrOLMA

Muộn phiền đau khổ bần cùng

Ngài đều phổ độ mọi vùng chúng sinh

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU ĐỈNH QUAN NGUYỆT TƯỚNG TARA

CHAGTSHEL DAWEI DUMBÜE WU GYEN

Chí thành đỉnh lễ quy y

Đỉnh Quan Nguyệt Tướng nan nghì Tara

GYENPA THAMCHÉ SHINTU BARMA

Vương miện diệu thắng chói lòa

RELPEI THrÖENA ÖE PAGMÉ LÉ

Ở nơi búi tóc Di Đà hiện sinh

TAGPAR SHINTU ÖERAB DZÉMA

Từ đó phóng chiếu quang minh

Đủ bao diệu bảo hữu tình lợi tha.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT NHƯ TẬN KIẾP HỎA TARA

CHAGTSHEL KELPEI THAMEI MÉTAR

Chí thành đỉnh lễ quy y

Như Tận Kiếp Hỏa nan nghì Tara

BARWEI THrENGWEI WÜENA NÉMA

Trong búi tóc, lửa kiếp không

YÉ KYANG YONKUM KUNNÉ KORGEI

Chân phải thẳng duỗi, gập cong chân này

DrAYI PUNGNI NAMPAR JOMMA

Những bầy oán địch quân cai

Ngài đều tận diệt chẳng sai chút nào.


· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU THỦ ÁN ĐẠI ĐỊA TARA

CHAGTSHEL SASHII NGÖELA CHAGGI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Thủ Án Đại Địa nan nghì Tara

THILGYI NUNCHING SHABKYI DUNGMA

Giẫm chân trấn yểm hàng ma

THrO NYER CHEN DZÉ YIGÉ HUNGGI

Mày chau phẫn nộ hiện là chữ Hung

RIMPA DUNPO NAMNI GEMMA

Bảy hiểm nạn, mọi tai ương

Ngài thời hàng phục yêu thương hộ trì.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU AN THIỆN TĨNH TỊCH TARA

CHAGTSHEL DÉMA GÉMA SHIMA

Chí thành đỉnh lễ quy y

An Thiện Tĩnh Tịch nan nghì Tara

NGA NGEN DÉSHI CHÖEYUL NYIMA

Niết bàn tịch diệt an hòa

SOHA OM DANG YANGDAG DENPÉ

SOHA - OM chữ thật là tương ưng

DIGPA CHENPO JOMPA NYIMA

Biết bao tai họa quá chừng

Ngài khéo cứu độ tiêu dừng nạn tai.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU PHỔ BIẾN CỰC HỶ TARA

CHAGTSHEL KUNNÉ KORRAB GAWEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Phổ Biến Cực Hỷ nan nghì Tara

DrAYI LÜENI RABTU GEMMA

Trái Phật Pháp oán lìa xa

YIGÉ CHUPEI NGAGNI KÖEPEI

Chân ngôn mười chữ rất là linh thiêng

RIGPA HUNG LÉ DrOLMA NYIMA

Âm thanh minh chú chữ HUNG

Vang xa khắp chốn tận cùng mười phương.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU TURE ĐỐN TÚC TARA

CHAGTSHEL TUREI SHABNI DABPÉ

Chí thành đỉnh lễ quy y

TURE Đốn Túc nan nghì Tara

HUNGGI NAMPEI SABON NYIMA

Từ chữ HUNG ngài hiện ra

RIRAB MENDAHRA DANG BIGJÉ

Mạn đà la với Bảo Đà, Tu Di

JIGTEN SUMNAM YOWA NYIMA

Đến như ba cõi muôn nơi

Làm cho chấn động đất trời chuyển rung

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU CỤ HẢI THÂM TƯỚNG TARA

CHAGTSHEL LHAYI TSHOYI NAMPEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Cụ Hải Thâm Tướng nan nghì Tara

RIDAG TAGCHEN CHAGNA NAMMA

Dấu Nai thiêng trong tay hoa

TARA NYIJÖE PHET KYI YIGE

TARA với PHET tụng trì luôn luôn

DUGNAM MALÜE PANI SELMA

Độc kia các chất muôn vàn

Ngài năng diệt tận không còn sót dư.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU CHƯ THIÊN VÂN TẬP TARA

CHAGTSHEL LHAYI TSHOGNAM GYELPO

Chí thành đỉnh lễ quy y

Chư Thiên Vân Tập nan nghì Tara

LHADANG MI AM CHIYI TENMA

Là nơi quy kính an hòa

Chư thiên nơi cõi Ta Bà phi thiên

KUNNÉ GO CHAG GAWEI JI KYI

Đức uy, hỷ duyệt, giáp kiên

TSÖEDANG MILAM NGENPA SELMA

Đấu tranh, ác mộng thảy liền tiêu tan.

 

· CẦU NGUYỆN PHẬT MẪU NHẬT NGUYỆT QUẢNG VIÊN TARA

CHAGTSHEL NYIMA DAWA GYÉPEI

Chí thành đỉnh lễ quy y

Quảng Viên Nhật Nguyệt nan nghì Tara

CHENNYI POLA ÖERAB SELMA

Hào quang ánh mắt chói lòa

HARA NYIJÖE TUTTARA YI

HARA hai biến, TUTARE trì,

SHINTU DrAGPOI RIMNÉ SELMA

Bao tật bệnh, mọi độc dư

Ngài đều thiện xảo giải trừ độ sinh.


· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU CỤ TAM BẢO TƯỚNG TARA

CHAGTSHEL DÉ NYI SUMNAM KÖEPÉ

Chí thành đỉnh lễ quy y

Cụ Tam Bảo Tướng nan nghì Tara

SHIWEI THUDANG YANGDAG DENMA

Thiện tịnh uy lực chan hòa

Diệt tan hiểm họa, ma tà, ách tai

DONDANG ROLANG NÖEJIN TSHOGNAM

Dạ xoa con quỷ khởi bày

Ngài đều nhiếp phục chẳng chừa một ai

JOMPA TURÉ RABCHOG NYIMA

Chữ TURE, thật là đây

Chú thiêng siêu thắng ách tai tận trừ.

TSAWEI NGAGKYI TÖEPA DIDANG

Căn bản minh chú bản tôn,

CHAGTSHEL WANI NYISHU TSACHIG

Tara hăm mốt Hóa thân các ngài

Tâm thành trì tụng lễ bày

Muôn lời tán thán thời nay viên tròn.

 

Drukpa Việt Nam

Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Chín 201404:17
Khách
nam mo a di da phat
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31678)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10534)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11233)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12763)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10814)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16673)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10824)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22976)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12031)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11501)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10694)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12343)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11201)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10028)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11926)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12378)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9821)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11280)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13848)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12640)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9707)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10468)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10573)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10335)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9911)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11062)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12023)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10149)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10790)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9544)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9502)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14529)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12564)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10430)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9091)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10565)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8812)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10524)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9199)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8370)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9700)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19147)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9024)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14765)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10102)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8356)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8955)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8978)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8746)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9374)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14605)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9045)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9051)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10539)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9999)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24291)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10180)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11032)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9006)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9476)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8009)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9276)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10344)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9589)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17450)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21408)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12172)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19247)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26054)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7983)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14812)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10638)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9539)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18687)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12370)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11894)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10762)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13350)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10005)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9397)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15908)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant