Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Lược sử về đức Liên Hoa Sanh

10 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 13360)
02. Lược sử về đức Liên Hoa Sanh

GIÁO HUẤN DAKINI

Do YESHE TSOGYAL ghi lại và chôn dấu
Phát lộ bởi: NYANG RAL NYIMA OSER và SANGYE LINGPA

LƯỢC SỬ VỀ ĐỨC LIÊN HOA SANH

NGÀI JAMGON KONGTRUL ĐỆ NHẤT

Tiểu sử vắn tắt về cuộc đời của Đức Liên Hoa Sanh, cũng được biết là Guru Rinpoche hay Padmakara, được trích ra từ “vòng hoa lam ngọc quý báu”, một bộ sưu tập nói về cuộc đời của 108 vị terton chính do Ngài Jamgon Kongtrul đệ nhất viết và thấy trong quyển 1 thuộc bộ Rinchen Terdzo của Ngài.

Đức Padmakara đã ảnh hưởng đến vô số chúng sanh qua giáo huấn Kim Cương Thừa, đặc biệt là qua hoạt động chôn dấu những kho tàng terma thâm sâu. Bậc Thầy vĩ đại này không phải là người thường trên con đường cũng không phải là thánh nhân của những địa Bồ Tát mà là một hóa thân của cả hai Phật A Di ĐàThích Ca Mâu Ni, xuất hiện để thuần phục nhân loại và những tinh linh khó thay đổi.

Ngay cả những đại Bồ Tát cũng khó giải nghĩa đầy đủ những gương mẫu về cuộc đời Ngài, nên tôi xin được tường thuật vắn tắt như sau.

Trong cõi Pháp thân của Tinh túy Kim Cương Quang, Đức Guru Rinpoche nhờ đạt tự tánh giác ngộ viên mãn từ vô thủy như nền tảng giải thoát của thanh tịnh nguyên sơ. Ngài nổi tiếng là đấng Thủ Hộ nguyên thủy Bất biến Quang.

Trong cõi Báo thân tự-hiển lộ của Sấm Trống Viên mãn, Ngài đồng thời biểu hiện Vô tận Trí của ngũ bộ Vô biên Đại dương Chư Phật đang sở hữu ngũ trí.

Như hiển lộ bên ngoài của sự phô diễn tự-hiện này, trong vô số phô diễn tướng thân ở những cõi của năm gia đình Phật bao gồm cõi Hóa thân tự nhiên cùng hiển lộ của Đại Phạm Thiên, Ngài xuất hiện đến tất cả Bồ Tát ở mười địa. Vì tất cả những điều này là những đám mây phô diễn trí tuệ của Guru Rinpoche, “Vô tận Luân Trang nghiêm” nên Ngài được biết là Đấng Trì Thủ Trọn Vẹn Liên Hoa.

Bằng năng lực của những phô diễn trí tuệ này Ngài xuất hiện trong vô số thập phương thế giới như sự xuất hiện huyền diệu của Hóa thân, bậc điều phục chúng sanh. Đặc biệtcõi Ta bà này, Ngài soi sáng năm mươi thế giới với ngọn đèn giáo lý sutra và tantra hiển lộ như tám hóa thân để điều phục chúng sanh trong những nơi khác nhau trên thế giới.

Dakini Yeshe Tsoygal đã có linh kiến thấy một hóa thân của Ngài gọi là Vô biên Kim cương Hải ở hướng Đông. Mỗi lỗ chân lông trên thân Ngài chứa một tỷ cõi và trong mỗi cõi chứa một tỷ hệ thống thế giới. Trong mỗi hệ thống thế giới này có một tỷ Guru Rinpoche mà mỗi vị lại tạo ra một tỷ hóa thân. Mỗi hóa thân này thuần phục cho một tỷ đệ tử. Sau đó Bà thấy sự phô diễn tương tự ở phương trung ương và trong mỗi phương khác.

Trong cõi Diêm Phù Đề này, Guru Rinpoche chỉ là một hóa thân, bậc điều phục chúng sanh[3] mà tùy theo khả năng, căn cơ của từng người sẽ cảm nhận Ngài theo nhiều cách. Quyển Lịch Sử Khẩu Truyền Kilaya và hầu hết nguồn tài liệu Ấn Độ đều giải thích rằng Ngài sinh ra là con vua hay là một bộ trưởng ở Uddiyana, trái lại phần lớn những kho tàng terma kể lại rằng Ngài sinh ra một cách kỳ diệu. Trong một số kinh văn nói Ngài xuất hiện từ một tia chớp trên đỉnh Malaya. Mỗi câu chuyện kỳ diệu đều khác nhau. Thật sự đây là một chủ đề vượt lên tầm hiểu biết của trí tuệ người thường.

Sự giải thích giới hạn của tôi chỉ là một nguyên nhân, cuộc đời Ngài Guru Rinpoche sinh ra kỳ diệu ra sao đã được ghi trong giáo huấn terma.

Trong xứ Uddiyana ở hướng tây Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng) có một hòn đảo trong Hồ Danakosha, nhờ ân phước của chư Phật, trên đó xuất hiện một hoa sen nhiều màu sắc. Đức Phật A Di Đà gởi từ giữa tâm Ngài một (chày) Vajra vàng có khắc chữ HRIH vào nụ hoa sen này, và kỳ diệu thay, hoa sen chuyển thành một đứa trẻ tám tuổi tay cầm một chày và một hoa sen, được trang hoàng bằng những dấu ấn chính và phụ. Đứa trẻ ngụ ở đó và giảng dạy Giáo Pháp cao sâu cho chư Thiên và Dakini trên hòn đảo đó.

Vào lúc đó vị vua của xứ này là Indrabodhi, không có con. Ông đã cúng dường hết kho tàng của mình lên Tam Bảobố thí cho người nghèo để cầu con. Như một phương sách cuối để tìm ngọc như ý, Ông bắt đầu cuộc du hành đến Hồ lớn Danakosha với vị bộ trưởng Krishnadhara. Trên đường về trước tiên là Krishnadhara và sau đó Vua Indrabodhi gặp đứa trẻ kỳ diệu. Nhà Vua xem Ngài như kết quả của việc cầu con và đem Ngài về cung điện, ở đó ông đặt tên Ngài là Padmakara, Liên Hoa Sanh. Sau đó Ngài Padmakara được mời ngồi lên ngai bằng những viên ngọc quý và tất cả dân chúng cúng dường rất nhiều.

Khi lớn lên, vị hoàng tử làm cho nhiều người cùng trưởng thành qua các môn thể thao và trò chơi thời thanh niên của Ngài. Ngài lập gia đình với Prabhadhari và cai trị vương quốc Uddiyana theo Giáo Pháp. Vào lúc nhận ngôi, Ngài thấy không thể đem lại lợi ích lớn lao cho người khác bằng việc làm cho đất nước phát triển nên Ngài xin Vua Indrabodhi cho phép thoái vị nhưng không được chấp thuận. Thế nên trong một cuộc chơi, Ngài giả vờ làm ngọn giáo tuột khỏi tay và giết chết con của một bộ trưởng. Do vậy Ngài bị kết án lưu đày đến một nghĩa địa. Ngài sống ở Băng Viên, Hoan hỷ Lâm, và Sosaling, thực hiện giới luận đạo đức của một hành giả yogi. Trong thời gian này Ngài nhận được quán đảnh và ân phước của hai dakini là Đấng Hàng phục Ma Vương và Bậc Duy trì Cực Lạc. Khi triệu thỉnh tất cả dakini của nghĩa địa dưới lệnh mình, Ngài được biết là Shantarakshita.

Padmakara trở về xứ Uddiyana đến hòn đảo trong hồ, ở đó Ngài thực hành Mật Chúngôn ngữ biểu tượng của chư dakini, nhờ vậy, Ngài đem chư dakini đến hòn đảo dưới mệnh lệnh của mình. Sau đó Ngài tu hànhRừng Khổ Hạnh và được ban phước linh kiến thấy Vajra Yogini. Ngài ràng buộc tất cả loài Rồng trong những hồ cũng như những tinh linh của hành tinh phát thệ bảo vệ Giáo Pháp nhờ sự trao quyền với năng lực siêu nhiên của tất cả chư daka và dakini. Vì vậy Ngài nổi danh là Dorje Drakpo Tsal (Đại lực Phẫn Nộ Kim Cương).

Sau đó Ngài du hành đến kim cương ngai ở Bồ Đề Đạo Tràng, tại đây Ngài phô diễn nhiều phép lạ. Dân chúng hỏi Ngài là ai, và khi trả lời Ngài là một vị Phật tự-hiện, họ không tin mà còn phỉ báng. Xét thấy có nhiều lý do phải có một vị thầy, Ngài đến Sahor, ở đó Ngài thọ giới với Prabhahasti và được ban pháp danh Shakya Sangye. Ngài nhận giáo huấn về tantra yoga mười tám lần và có linh kiến của các Bổn Tôn. Sau đó Ngài đến nữ đạo sư Kungamo, là bậc trí tuệ dakini Guhyasamaya xuất hiện trong thân tướng của một sư ni. Ngài yêu cầu được quán đảnh và Bà chuyển Ngài thành chủng tự HUM, sau đó Bà nuốt Ngài vào và nhả ra qua hoa sen của Bà. Bên trong thân Bà, Ngài được ban toàn bộ quán đảnh bên ngoài, bên trong, bí mật và được tịnh hóa ba che chướng (thân, khẩu, ý).

Sau này Ngài gặp tám vị Đại Trì Minh Vương và thọ tám phần nghi quỹ. Ngài thọ nhận Maya Jala từ đại sư Buddha Guhya và Dzogchen từ tổ Shri Singha. Theo cách này, Ngài thọ nhận và học tập tất cả sutra, tantra từ rất nhiều học giả và những vị tổ đã thành tựu của Ấn Độ. Ngài rất thông tuệ, chỉ cần nghiên cứu một chủ đề chỉ một lần mà đã có linh kiến của tất cả Bổn Tôn không cần thực hành. Vào lúc đó, Ngài được biết là Loden Choksey và phô diễn cách thức viên mãn của bậc vidyadhara đẳng cấp cao tột.

Kế tiếp, Ngài đến vùng ngoại ô của Sahor. Tại đó Ngài lôi cuốn công chúa Mandarava, con gái của Vua Vihardhara. Ngài nhận Bà như sự hỗ trợ nghi quỹ của mình, và họ thực hành ba tháng trong Động Maratika, sau này Đức Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus) xuất hiện trong thân người ban quán đảnh trên họ và ban phước để bất khả phân với Đức Phật. Họ được ban một tỷ tantra về trường thọ và đạt thành tựu của vidyadhara thuộc đẳng cấp làm chủ cuộc sống. Thành tựu Kim Cương Thân vượt khỏi sinh tử, các Ngài trở lại vương quốc Sahor để hoằng Pháp. Khi khất thực, các Ngài bị nhà vua và bộ trưởng bắt và đem thiêu sống, vị Thầy và consort tạo niềm tin bằng sự phô diễn huyền diệu; chuyển dàn hỏa thiêu thành hồ nước lạnh giá, các Ngài ngồi trên hoa sen giữa hồ. Các Ngài đã làm tất cả mọi người thực hành Giáo Pháp miên mật và đã đưa họ vào trạng thái vượt khỏi luân hồi.

Sau đó, Đức Padmakara trở lại xứ Uddiyana để chuyển hóa dân chúng. Trong khi trì bình khất thực, Ngài bị nhận diện và đem hỏa thiêu trong một lò thiêu lớn tại rừng đàn hương. Vị Thầy và phối ngẫu một lần nữa xuất hiện trên một hoa sen giữa hồ không bị thương tổn, đeo một chuỗi sọ người biểu tượng cho sự giải thoát tất cả chúng sanh khỏi luân hồi. Vì sự phô diễn phép màu này Ngài được biết là Padma Thotreng Tsal (Đại Lực Liên Hoa của Chuỗi Sọ). Ngài lưu lại Uddiyana trong mười ba năm như một vị thầy của nhà Vua và làm cho toàn vương quốc thực hành Giáo Pháp. Trong thời gian này, Ngài ban quán đảnhgiáo huấn cho Kadue Chokyi Gyamtso là Biển Pháp Biểu Tượng Cho Mọi Giáo huấn. Nhờ đó vua và hoàng hậu cùng tất cả những người có căn cơ đã thành tựu đẳng cấp vidyadhara tối thượng. Do vậy Ngài được biết là Padma Raja (Liên Hoa Vương).

Tương ứng với một tiên tri trong Kinh Tri Kiến Huyền Diệu, Ngài Padmakara tự biến thành nhà sư Wangpo Dey để chuyển hóa cho vua A Dục (Asoka). Để xây dựng cho vua A Dục niềm tin bất thoái chuyển, chỉ trong một đêm Ngài dựng nên trong thế gian này một tỷ bảo tháp chứa những xá lợi của Đấng Như Lai. Ngài cũng khuất phục một số vị thầy không phải Phật Giáo, Ngài đã bị đầu độc bởi một vị vua nhưng không bị thương tổn. Sau đó, khi bị ném xuống dòng sông, Ngài làm nước sông chảy ngược, còn Ngài thì nhảy múa giữa trời. Qua đó, Ngài được biết là Đại Lực Kim Xí Điểu.

Ngoài ra, Padmakara còn tự hiện thân trong thân tướng Acharya Padmavajra, vị Thầy đã phát hiện Tantra Hevajra, cũng như Brahmin Saraha, Dombi Heruka, Virupa, Kalacharya, và nhiều vị thành tựu (siddha) khác. Ngài tu hành trong những đại mộ địa, ở đó Ngài dạy Kim Cương Thừa cho chư dakini. Ngài hàng phục những tinh linh thế gian bên ngoài và bên trong, chỉ định cho họ làm những người bảo vệ Giáo Pháp. Vào lúc đó, Ngài được biết là Nyima Oser.

Khi năm trăm vị thầy ngoại đạo sắp đánh bại Giáo Pháp trong một cuộc tranh luận tại Bồ Đề Đạo Tràng, Đức Padmakara thách thức họ và Ngài đã chiến thắng. Một số tà sư phải viện đến tà thuật, nhưng Padmakara đánh tan họ bằng mantra phẫn nộ mà Ngài đã được dakini Hàng phục Ma Vương ban cho. Tất cả họ đều chuyển tâm theo Phật Giáo và ngọn cờ Giáo Pháp tung bay trên bầu trời. Vào lúc đó Ngài được biết là Senge Dradrok. Lúc đó Ngài diệt hết ba nhiễm ô và an trụ trong đẳng cấp Vidyadhara làm chủ cuộc sống.

Đi đến động Yanglesho ở giữa Ấn Độ và Nepal, Ngài gặp Shakya Devi con gái vua xứ Nepal, người đã nhận lời hỗ trợ và làm phối ngẫu cho nghi quỹ của Ngài. Trong khi Ngài thực hành Vishuddha Heruka, ba tinh linh hùng mạnh đã ngăn không cho mưa trong ba năm tạo ra bệnh tật và đói kém. Đức Padmakara gởi người đem tin về Ấn Độ cầu những vị thầy của Ngài ban cho một giáo huấn có thể chống lại những che chướng này. Hai người đã trở về mang theo kinh văn Kilaya, những che chướng tự nhiên được dẹp tan ngay khi họ vừa đến Nepal. Sau đó, Padmakara và vị phối ngẫu thành tựu tất địa tối thượng và an trụ trong đẳng cấp Vidyadhara đại ấn.

Guru Rinpoche nhận thấy việc thực hành nghi quỹ của Vishuddha Heruka đem lại đại thành tựu. Nhưng thực hành này cũng giống như người đi buôn gặp nhiều chướng ngại, còn Kilaya giống như sự bảo hộ không thể thiếu. Vì sự trùng hợp ngẫu nhiên này, Guru Rinpoche đã soạn thảo nhiều nghi quỹ chứa hai Heruka này. Tại nơi đây Ngài ràng buộc mười sáu vị bảo vệ thế gian phát nguyện giữ gìn nghi quỹ Kilaya.

Đức Padmasambhva viếng thăm nhiều vương quốc cổ khác và truyền dạy Giáo Pháp: như Hurmudzu ở gần Uddiyana, Sikojhara, Dharmakosha, Rugma, Tirahuti, Kamarupa, vàKancha, cũng như nhiều nơi khác. Kinh văn không nói rõ Ngài có đến xứ Droding hay không, nhưng những giáo huấn tantric Ngài đã ban về Hevajra, Guhyachandra Bindu, Vishuddha, Hayagriva, Kilaya, và Mamo vẫn còn truyền đến ngày nay.

Padmakara được xem là sống ở Ấn Độ đến ba ngàn sáu trăm năm giảng dạy làm lợi ích chúng sanh. Nhưng những học giả chỉ chấp nhận một nửa số năm; vì đó chỉ là con số tượng trưng.

Để chuyển tâm dân xứ Mông CổTrung Quốc, Đức Padmakara hóa thân thành Vua Ngonshe Chen và hành giả Tobden. Ngoài ra Ngài còn xuất hiện như thần đồng ở vùng ngoại ô Shangshung, Ngài đã ban những giáo huấn về dòng truyền nghe của Đại Viên Mãn (Dzogchen) và dẫn dắt nhiều đệ tử xứng đáng thành tựu thân cầu vồng.

Bằng nhiều phương tiện, xuất hiện nhiều nơi, trong nhiều thân tướng khác nhau, nói nhiều thứ tiếng, những hoạt động của Đức Padmakara thật sự vượt lên mọi suy lường.

Bây giờ, tôi xin mô tả lại việc Ngài Padmakara đến xứ Tây Tạng ra sao. Khi Vua Trisong Deutsen, một hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, được hai mươi tuổi; trong Ngài hình thành một khao khát mạnh mẽ về Giáo Pháp thiêng liêng được phổ biến. Ngài mời Bồ Tát Khenpo[4] từ Ấn Độ, bậc đã dạy thập thiện hạnh và thập nhị nhân duyên. Một năm sau, nền móng của một ngôi Đại Tự đã xong, nhưng những tinh linh của Tây Tạng tạo chướng ngạingăn cản việc xây cất. Phù hợp với tiên tri của Ngài Khenpo, nhà vua cử năm người nhanh chóng mời thỉnh đại sĩ Padmakara. Biết trước việc này, Padmakara đã đến Manyul ở giữa Nepal và Tây Tạng. Trên đường đến miền trung Tây Tạng, Ngài đi qua Ngari, Tsang, và Dokham dùng thần thông thăm tất cả các khu vực, ở đó Ngài ràng buộc mười hai thiên nữ Tenma, mười ba Gurlha và hai mươi mốt Genyen phát thệ, cũng như nhiều tinh linh hùng mạnh khác.

Tại Rừng Tamarisk ở Hồng Thạch, Ngài gặp vua Tây Tạng và lên đỉnh Hepori thu phục quỷ thần. Ngài đạt nền móng cho tu viện Samye và trông coi từ đầu đến khi hoàn tất, Ngài giao cho những quỷ thần trước đây gây cản trở việc xây cất phải làm việc. Trong năm năm đã xây dựng xong một quần thể tự viện Samye Quang Vinh, Bất BiếnThành Tựu Tự nhiên Vihara, bao gồm ba tu viện của hoàng hậu, các quần thể cung điện này đã xây theo biểu tượng Núi Tu Di bao quanh bởi bốn châu lục, tám châu lục phụ, mặt trời, mặt trăng, và tường thành của núi sắt. Trong lễ thánh hóa, đã xảy ra năm đấu hiệu kỳ diệu.

Sau đó nhà vua ước muốn phiên dịch kinh điểnthiết lập Giáo Pháp, nên vua chọn những thiếu niên Tây Tạng thông minh học để thành những dịch giả. Ngài mời những Pháp sư thông hiểu Kinh, Luật, Luận từ Ấn Độ, nhờ Ngài Khenpo thọ giới cho bảy vị tu sĩ đầu tiên và dần dần thiết lập một tăng đoàn đã thọ giới. Bồ Tát Khenpo, Đức Padmakara và các nhà hiền triết khác cùng Ngài Vairochana, Kawa Paltseg, Chog-ro Lui Gyaltsen và những dịch giả khác đã trao tất cả Kinh điển Hiển và Mật của Đạo Phật đang tồn tại cũng như những luận thư giảng nghĩa về chúng cho Tây Tạng.

Vairochana và Namkhai Nyingpo được gởi tới Ấn Độ, Ngài Vairochana học Dzogchen với Tổ Shri Singha, trong lúc Namkhai Nyingpo tiếp nhận giảng dạy về Vishuddha Heruka từ đại sư Hungkara. Cả hai đều thành tựu và về hoằng PhápTây Tạng.

Sau đó, Vua Trisong Deutsen thỉnh cầu Đức Padmakara quán đảnh và hướng dẫn. Tại Chimphu, nơi ẩn tu trên Samye, đại sư đã hiển lộ mandala tám nghi quỹ Heruka, Ngài làm lễ nhập dòng cho nhà vua và tám người khác. Mỗi một vị được giao phó với một trao truyền đặc biệt, và cả chín người đều thành tựu nhờ thực hành giáo huấn.

Padmakara đã ban vô số giáo huấn thâm sâukỳ diệu khác liên kết với ba tanra nội cho nhiều đệ tử đã định trước, đứng đầu là nhà vua và những con trai và hai mươi lăm vị đệ tử ở Lhodrak, Tidro và nhiều nơi khác.

Guru Rinpoche lưu lại Tây Tạng năm mươi lăm năm sáu tháng, bốn mươi tám năm lúc nhà vua còn sống và và bảy năm sáu tháng sau đó. Ngài đến Tây Tạng lúc nhà vua được hai mươi mốt tuổi (810 sau Công nguyên). Nhà vua qua đời vào tuổi sáu mươi chín. Padmakara ở lại vài năm sau đó trước khi rời khỏi xứ La Sát (Tây Tạng).

Padmakara đi thăm hai mươi ngọn núi tuyết của Ngari, hai mươi mốt nơi thực hành ở miền trung Tây Tạng và Tsang, hai mươi lăm nơi ở Dokham, ba thung lũng ẩn khuất và nhiều nơi khác. Mỗi nơi Ngài đều ban phước thành nơi thiêng liêng để thực hành. Biết trước vị vua sau này sẽ phá hoại Phật GiáoTây Tạng, Ngài ban nhiều tiên tri cho tương lai. Hội ý với nhà vua và những đệ tử thân cận, Padmakara chôn dấu vô số giáo huấn terma, chủ yếu tại tám kho tàng của cá nhân nhà vua, năm kho đại trí, và hai mươi lăm kho vi diệu. Lý do chôn dấu những terma này là ngăn ngừa sự hủy diệt giáo huấn Kim Cương Thừa, tránh sự thêm thắt hay làm sai lạc Kim Cương Thừa của giới trí thức sau này, để bảo tồn ân phước và làm lợi ích cho những đệ tử trong tương lai. Với mỗi kho tàng chôn dấu này, Đức Padmakara đều tiên tri thời gian phát hiện, người nào sẽ phát hiện và người gìn giữ giáo huấn đã định trước. Ngài biểu lộ tướng phẫn nộ khủng khiếp của trí tuệ điên ở mười ba nơi tên là Hang Cọp, ràng buộc tất cả tinh linh thế gian dưới lời thề phục vụ Giáo Pháp, và giao cho họ canh giữ những kho tàng terma. Vào lúc đó Ngài có tên là Dorje Drollo.

Để gợi niềm tin cho những thế hệ tương lai, Ngài để lại dấu ấn thân Ngài tại Bumthang dấu bàn tay Ngài tại Namtso Chugmo, và dấu chân tại Paro Drakat cũng như vô số dấu ấn ở những chỗ thực hành khác.

Sau cái chết của Vua Trisong Deutsen, Padmakara đưa Mutig Tsenpo lên ngôi. Ngài thực hiện một drubchen tại Tramdruk, Ngài trao giáo huấn thâm sâu cho Gyaltse, vị hoàng tử thứ hai và ban tiên tri rằng ông sẽ làm lợi ích chúng sanh do trở thành một vị khai mật tạng trong mười ba kiếp sau.[5] 

Không thể tính đếm được có bao nhiêu đệ tửTây Tạng đã nhận được quán đảnh từ Đức Padmakara trong thân người, nhưng phần lớn được nổi tiếng là hai mươi lăm vị đệ tử ban đầu, hai mươi lăm vị ở khoảng giữa, sau này là mười bảy và hai mươi mốt đệ tử. Có tám mươi đệ tử của Ngài đắc thân cầu vồng tại Yerpa, và một trăm lẻ tám thiền sư tại Chuwori, ba mươi hành giả tantrika tại Yangdzong, và năm mươi lăm bậc giác ngộ tại Sheldrag. Về đệ tử nữ có hai mươi lăm đệ tử dakini, và bảy yogini. Nhiều vị đệ tử thân cận này có dòng truyền thừa liên tục cho tới ngày nay.

Khi Ngài sắp rời khỏi xứ la sát đến hướng Tây Nam, nhà vua và bộ trưởng cùng tất cả đệ tử cố gắng can ngăn Ngài Padmakara không đi, nhưng không hiệu quả. Ngài ban cho mỗi người giáo huấn và khai thị rộng lớn và khởi hành từ đèo Gunthang, cưỡi trên một con ngựa hay sư tửchư thiên theo hộ tốngcúng dường. Tại Đỉnh Núi Màu Đồng Quang Vinh trên châu lục Chamara, Ngài giải thoát Raksha Thotreng, vua các la sát, và mang hình tướng này. Sau đó, Ngài kiến tạo một cách phi thường cung điện Liên Hoa Quang với nhiều trang hoàng kỳ diệu không thể tưởng và Ngài lưu xuất ra tám thân trên tám hòn đảo bao quanh, ở đó Ngài an trú như nhà vua giảng dạy tám nghi quỹ Heruka.

Hiện tại Ngài an trụ ở đẳng cấp vidyadhara tự-hiện trong tướng quan nhiếp chính của Vajradhara (Kim Cương Trì), bất biến với thời gian chừng nào luân hồi còn tồn tại. Tràn đầy lòng bi, Ngài lưu xuất nhiều hóa thân làm lợi ích chúng sanh. Thậm chí sau khi giáo huấn vinaya (luật tạng) bị hư hoại, Ngài cũng sẽ xuất hiện với những hành giả tantric. Sẽ có nhiều đệ tử đã định trước thành tựu thân cầu vồng. Trong tương lai khi Đức Phật Di Lạc xuất hiện đến thế gian này, Đức Padmakara sẽ hóa thân là một người được biết là Drowa Kundul và truyền bá giáo huấn của Kim Cương Thừa cho tất cả người xứng đáng.

Tiểu sử vắn tắt này chỉ là một phần tường thuật để thích nghi với những gì mà người học bình thường có thể tiếp nhận[6].

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10162)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10435)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9703)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23665)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11862)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10737)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10093)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28717)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21645)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29463)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11415)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12391)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26365)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31059)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25365)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22833)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13071)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21987)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12244)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14162)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12472)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11275)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10712)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38113)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13687)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13479)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12364)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12600)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12072)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10730)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11225)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23379)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33234)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12821)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7415)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12199)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12638)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12059)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12876)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11960)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10710)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11385)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11681)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10900)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10815)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10396)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10495)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10731)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10657)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11929)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10712)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12751)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10824)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11404)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11103)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11646)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10522)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11272)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12322)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11189)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12497)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11436)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11528)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11323)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11597)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 13017)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14197)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11022)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11884)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13184)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11598)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11445)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10946)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11297)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10839)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11068)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10904)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10274)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17137)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11019)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10880)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10426)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10779)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11400)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11090)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10590)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11393)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10363)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10664)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12788)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19308)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19752)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21321)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20371)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19790)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19077)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20518)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21119)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17960)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21876)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant