Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Thiền Sư Chân Nguyên Con Người Của Thế Kỷ 17

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 9363)
8. Thiền Sư Chân Nguyên Con Người Của Thế Kỷ 17
thiensututuonggiacngo

Thiền Sư CHÂN NGUYÊN

Con người của thế kỷ thứ 17



 Chân Nguyên Thiền Sư, một trong những cây đuốc sáng rực và là nhà tư tưởng lớn trong Phật Giáo ở thế kỷ thứ 17. Những tác phẩm của ngài bị bỏ rơi ít được nhắc đến hoặc đề cập đến vẫn còn nhiều thiếu sót không chính xác. " Khi nói đến tình hình văn học ở những thế kỹ 16- 17,chúng ta thường phàn nàn về sự ít ỏi của những tác phẩm cũng như tác giả. Lấy thí dụ cả thế kỷ 17 chỉ có một tập thơ của Trịnh Căn, hai tập diễn ca lịch sử ở đàng ngoài , mấy bài văn của Đào Duy Từ ở Đàng Trong " chúng ta vội kết luận sự nghèo nàn những tác phẩm. Đáng ra nếu truy tầm đúng mức những tác phẩm bị lãng quên hoặc chưa quật khởi thì số lượng sáng tác ở thế kỷ này không đến nỗi nghèo nàn như chúng ta tưởng .

 Chân Nguyên và những tác phẩm của ngài là một minh chứng trong việc quên lãng đó. Chân Nguyên rất được những tác giả cổ điển biết đến, không những trong giới Phật Giáo, mà ngay cả lĩnh vực văn học cũng được nhiều người nhắc nhở đến tên ngài. Như Trừng (1696-1733) đã đề cập đến tên ngài nhiều lần trong Ngũ Giới Quốc Âm và Thập Giới Quốc Âm:

 Như như vâng giáo Chân Nguyên

 Diễn dương luật tạng lưu truyền sâu xa.

 Đồng thời Ngô Sỹ Liên(1726-1780)tác giả Việt Sử Tiêu Án đã nhắc nhở đến tên ngài với sự kính cẩn,qui định trong Đại Nghị Quốc Ngữ vai trò kế thừa sự nghiệp trước tác của Chân Nguyên như sau:

 Như thị cũng dòng Chân Nguyên

 Lịch triều pháp sự quốc ban rõ ràng

 Lịch triều nay đã đảm đang

 Theo đòi dấu trước mở mang kim thì.

Chân Nguyên được kể như tác giả vĩ đại, có những tư tưởng quan niệm khác thường, những tác phẩm của ngài bàng bạc sâu rộng trong quần chúng và đã tạo nên những điển tích rất có giá trị nhưng, phần nhiều người viết về văn học sử không nắm được tác quyền nên không xác định rõ rệt về vai trò của Chân Nguyên trong nền văn học ở thế kỷ 17.

 Thiền Sư Chân Nguyên họ Nguyễn tên Nghiêm, tự là Đình Lân, người làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương. Ông sinh năm 1647, nhân đọc sự tích Thiền Sư Huyền Quang dòng Trúc Lâm Yên Tử, ngài thấy " cổ nhân ngày xưa dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, nữa mình là học trò ". Câu này tác động mãnh liệt vào nội tâm của Nguyễn Nghiêm nên ông quyết dứt bỏ tất cả và đi xuất gia năm 19 tuổi.

I. CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘTƯ TƯỞNG THIỀN CỦA CHÂN NGUYÊN

 Trước tiên, ngài tìm đến chùa Hoa Tiên, học đạo với Thiền Sư Chân Trụ, được pháp danh là Tuệ Thông, nhưng vì Chân Trụ mất sớm, bèn cùng với bạn đồng liêu là Như Niệm đi tham học, thực hành hạnh đầu đà, không ở một chỗ nào nhất định, du phương tham vấn thêm Phật Pháp. Sau đó, Như Niệm bỏ cuộc về trù trì chùa Cô Tiêu. Tuệ Thông bèn đến núi Côn Lương làng Phù Lãng tham kiến thiền sư Minh Lương ở chùa Vĩnh Phúc, vị nầy đệ tử của Thiền Sư Chuyết Chuyết, và được Minh Lương đặt cho tên là Chân Nguyên. Chữ Chân này là chữ thứ hai trong bài kệ truyền pháp của ngài Minh Hành.

 Minh Chân như tính hải

 Kim Tường Phổ chiếu thông

 Chí đạo thành chánh quả

 Giác Ngộ chứng chân không.

Dịch:

 Thấy chân như biển rộng

 Ánh vàng chiếu vô cùng

 Đạt đạo thành chánh quả

 Giác ngộ chứng chân không.

 Theo sách Kế Đăng Lục nói rằng “một hôm ông tham vấn Minh Lương về một điều thâm diệu trong Phật Pháp, thì chỉ thấy Minh Lương nhìn thẳng vào hai mắt ông một hồi lâu nhờ đó mà ông giác ngộ. Minh Lương có để lại một bài kệ phó pháp sau đây cho Chân Nguyên”.

 Ngọc xinh ẩn trong đá

 Hoa sen nẩy tự bùn 

 Nên biết tìm giác ngộ

 Nơi sinh tử trầm luân.

 (Mỹ ngọc tàng ngoan thạch

 Liên hoa xuất ư nê

 Tự tri sinh tử xứ

 Ngộ thị tức bồ đề)

 Trước khi được tham vấn Minh Lương, Chân Nguyên đã từng tu tập nhiều nhất trong việc dụng công về Thiền, có lẽ là Công Án mà Bách Trượng Thiền Sư (724-814) trao cho Hương Nghiêm. “Hãy nói cho tôi nghe về mặt mũi của chính ông khi mà ông chưa được cha mẹ sinh ra ?

 Sau nhiều tháng năm tra vấn với nội tâm, đập tan những lớp phấn sơn bao bọc Vô Minh, cuối cùng mọi lẽ nhiệm mầu bỗng chốc bừng lên, khi được đôi mắt sáng như điện xẹt của Minh Lương chiếu thẳng, quét sạch những tàn dư đang ẩn núp trong tận cùng ngõ ngách, bóng đêm bị đẩy lùi ra khỏi ngưỡng cửa thời gian, ông vụt trong thấy toàn cõi tử sinh trong chốc lát mà không cần phải đi qua thứ lớp, tất cả mọi hiện tượng chứa đầy trong đôi mắt, cứ việc đem ra mà dùng, tìm cầu giác ngộ ở bên ngoài chỉ luống công, nhọc sức, nấu cát thành cơm. Công Án nầy Chân Nguyêndiễn tả trong sách Thiền Tông Bản Hạnh.

 Thuở xưa trời đất chưa sanh

 Cha mẹ chưa có thật mình Chân Không

 Chẳng có tướng mạo hình dung

 Tịch quang phổ chiếu viên đồng thái hư.

 Quan niệm về Thiền của Chân Nguyên, có nhiều sắc thái đặc biệt mới lạ hoàn toàn dung hòa giữa hai nền tâm linh của Ấn Độ, và Trung Hoa, tổng hợp trở thành tư tưởng Thiền có nhiều tính chất của Dân Tộc, ngài khai thác nội tâm mang đầy bản tính hiền hòa chất phác của người Việt, không nặng về quan niệm đẩy kẻ ấy rơi vào ngõ bí không lối thoát, nhưng ngài cho thấm nhuần và thấy được giá trị tuyệt vời của nó, một cách từ từ như đi trong sương ướt áo, dù trời không mưa. Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình. Ý thức trọn vẹn được điều này tất cả những tương quan hành động, ý tưởng của ta tự nhiên đi vào con đường giác ngộ mà không cần phải suy luận đắn đo, không một cử chỉ nào là không phù hợp với chân lý mầu nhiệm, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý dù tiếp xúc với trần cảnh như vào ngôi nhà rỗng không, chẳng có gì ràng buộc tạo được nghiệp sinh tử. Chân Nguyên đề cập điều này rất nhiều lần trong Thiền Tông Bản Hạnh.

 Hậu học đã biết hay chăng

 Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời

 Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi

 Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông.

 Chân Nguyên hay nhìn thẳng vào đôi mắt của người đối thoại, có lẽ thẩm định lại và làm hưng khởi tâm linh của con người ấy, may ra tìm thấy được sự chứng ngộ. Chân Nguyên vì nhờ Minh Lương nhìn thẳng vào mắt mà được giác ngộ. Nên cuộc đời còn lại Chân Nguyên đã dùng đến xảo diệu này. Ngài diễn tả trong Thiền Tông Bản Hạnh

 Tam Thế chư Phật tổ sư

 Tứ mục tương cố thị cừ Thiền cơ.

 Và ở khía cạnh khác bốn mắt nhìn nhau ông nói.

 Tứ mục tương cố nhãn đồng

 Thầy tớ trao lòng đăng chúc giao huy.

Và 

 Hóa Phật thọ ký vô biên

 Tứ mục tương cố mật truyền tâm tông.

 Chân Nguyên cũng lưu ý cho chúng ta, về vấn đề ngôn ngữ, theo ngài chỉ là phương tiện để đối trị lại những đảo điên mà ta đang trực diện. Ngài viết: “Xử dụng ngôn thuyết là việc bất đắc dĩ, phải dùng phương tiện để đối trị vọng tưởng của chúng sanh. Nếu không tùy trường hợpđối trị những vọng tưởng ấy, tức là không thể có giáo pháp. Mà không có giáo pháp thì không có Phật cũng không có Tăng. Tam Bảo đã không thì không có người thuyết pháp, không có người nghe pháp, cũng không có pháp được thuyết. Giáo Pháp đã từ nhân duyên mà có thì cũng chỉ là phương tiện để làm trẻ con nín khóc mà thôi, đâu phải là chân thực. Người ngu phu thì cần nhiều kinh điển, nhiều giáo pháp, bậc thượng trí thì chỉ cần một tiếng hét hay một nụ cười cũng có thể đốn ngộ tự tính.”

II. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA CHÂN NGUYÊN

 Chân Nguyên Thiền Sư là một cây bút lớn ở nền văn học thế kỷ thứ 17. Số lượng sáng tác của ngài khá nhiều, những tác phẩm sau đây đã được tìm thấy.

 1- An Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh – đã được tái bản đến 3 lần, 1745, 1805 và 1932

 2- Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh in 1850

 3- Ngộ Đạo Nhân Duyên

 4- Đạt Na Thái Tử hành, năm 1838

 5- Hồng Môn hành, năm “Minh Mạng vạn vạn niên”

 6- Thiền Tịch Phú năm 1932

 Đó là những tác phẩm bằng quốc âm. Sau đây là những tác phẩm bằng Hán Văn.

 7- Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới in 1748

 8- Tịnh độ yếu nghĩa in ba lần 1747, 1851, và 1860

 9- Nghênh sư duyệt định khoa in lại 1887.

 Ngoài ra ngài còn viết tựa một số các kinh sách khác do ngài chủ trương hay người khác đứng in như:

 - Long thư tịnh độ văn tự

 - Trùng san Long thư tịnh độ luận hậu bạt tự.

 Đó là những tác phẩm đã được tìm thấy, ngoài ra còn nữa chúng ta chưa khám phá ra. Và sự phát hiện bản in Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh năm 1850. Trước đó đã bị liệt vào loại khuyết danh, đã có những công cuộc nghiên cứu hai tác phẩm phổ biến trong nhân gian có một vài tư liệu phân tích về dữ kiện ngôn từ, ảnh tượngý tưởng cho rằng rất có thể tác giảChân Nguyên, đó là Quan Âm tống truyện và Phạm Tải Ngọc Hoa. Chúng ta thử đi sâu vào một vài tác phẩm của Chân Nguyên, chẳng hạn như Thiền Tịch Phú: Đây là bài Phú Nôm về Chùa Long Động mang nhiều sắc thái và từ ngữ thuần túy Việt Nam. Bài này được chùa Long Động bảo quản và được Thiền phố phiên âm và in trong Đuốc Tuệ số 7 ra ngày 21-1-1936 tại Hà Nội. Sau đây là một đoạn trong Thiền Tịch Phú:

 "Am thờ tổ ngói lấp gỗ lim

 Nhà trú tăng vách vôi tường gạch

 Mấy bức kẻ chữ tiện mực giồi

 Bốn bên diễu câu lơn sóc sách

 Gác rộng thênh chuông đưa ba chập, niệm Nam Mô nhẹ tiếng boong boong.

 Lầu cao vót trống điểm mấy hồi, đọc thần chú khua tang cách cách.

 …..

 Chè Bát đức sẵn đà lưu loát, chẳng phải lo củi nấu kỳ cầm

 Bánh Tam Thừa vốn đã chứa chan, nào có nhọc bột đâm thì thịch.

 Quả Bồ Đề ăn ngọt xớt, muôn kiếp hằng no.

 Hoa ưu bát ngửi thơm tho, ngàn đời chẳng dịch

 Sang tây phương bệ ngọc đứng chơi

 Về Đông Độ tòa vàng ngồi phịch

 Bể từ bi thênh thông rộng rãi, mặc sức chở người

 Thuyền Bát Nhã thăm thẳm bao la, giàu lòng độ khách

 Thích Ca Phật Tổ ngồi tuyết sơn khô chẳng gầy già

 Di Lặc Tiên Quang đi vận thủy đẫy đà phục phịch

 Đức Tuệ Năng bát nguyện trung phường

 Tổ Đạt Ma cửu niên diện bích

 Thần quan đoạn tý, lúc còn mê mặt khó đăm đăm

 Ca Diếp nhãn đồng, thoạt chốc ngộ miệng cười khềnh khệch.

 Dù ai quyết lòng học đạo, hỏi cho hay rừng Thỏ lông rùa

 Hoặc kẻ dốc chí chân tu, xem cho biết đầu cua tai ếch."

 Và trong tác phẩm Ngộ Đạo nhân duyên có một đoạn đề cập đến nhân tâm, nhằm hiển lộ nên lối truyền thừa, dĩ tâm truyền tâm, dĩ mục truyền mục, chúng ta thử đọc về hình ảnh này qua cách diễn đạt của Chân Nguyên.

 Đèn tâm mắt Phật mới vừa sinh

 Tâm Ấn truyền nhau bốn mắt nhìn

 Tiếp nối đèn kia về bất tận

 Thiền lâm thắp mãi ánh quang minh .

 (Nhất điểm tâm đăng Phật nhãn sinh

 Tương truyền tứ mục cố phân minh

 Liên phương tục diệm quang vô tận

 Phổ phó thiền lâm thọ hữu hình)

 Đó là điển hình trong việc đi vào một vài tư tưởng cũng như những tác phẩm của ngài. Ở đấy ta thấy được giá trị siêu việt của một văn tài đã bị lãng quên.

III. NHỮNG ĐÓNG GÓP TRONG LĨNH VỰC VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA CHÂN NGUYÊN

 Chân Nguyên trưởng thành trong thảm trạng, phân hóa chia rẽ, và là bãi chiến trường đẫm máu của những dòng họ thống trị quan liêu, chỉ lo củng cố địa vị, và tạo nên những cảnh tang thương tang tóc, do những tàn dư cuộc nội chiến để lại. Chân Nguyên không thể nào không cảm thấy xót xa trước sự đen tối của đất nước, và những nỗi khổ của dân tộc, mà Chân Nguyên đã chứng kiến tận mắt. Một thanh niên “thông minh, hạ bút thành văn” như Chân Nguyên làm sao an tâm trước những hiện tượng này. Lúc bấy giờ chỉ còn hai phương pháp để giải quyết cho những người trai mới lớn, một là tiếp tay với những kẻ thống trị, để tiếp tục tạo thêm những thảm cảnh tang thương cho dân tộc, và hai là đi làm kẻ chống lại những thế lực cai trị. Nhưng Chân Nguyên đã có cái may mắn hơn nhân đọc cuốn “Thực Lực sự tích Trúc Lâm đệ tam Tổ Huyền Quang” mà Chân Nguyên tìm thấy được con đường cần thiết để dấn thân. Huyền Quang đã từng đỗ Trạng Nguyên, nhưng chán mùi công danh phú quý, nên quyết chí đi tu. Nhờ đó, làm cho Chân Nguyên cảm thấy lại thân phận của mình là chọn con đường như Huyền Quang đã chọn đi vào nẽo xuất gia. Đây là một giải pháp hay nhất, cho việc phát huy đời sống tâm linh an lạc cho chính mình và đồng thời có nhiều cơ hội để chia xẻ những thống khổ của Dân Tộc, hành động của Chân Nguyên được kể như một lối thoát tuyệt hảo. Sau nầy trong Thiền tôn Bản Hạnh Chân Nguyên đã minh định sự bế tắc của xã hội và sự xuất gia của mình có đóng góp cho xã hội nhiều không? Và trong thơ văn của ngài hãy còn vấn vương những nỗi đau thương trong cuộc đời mà ngài đã cảm nhận. Những ưu tư vẫn còn tiềm ẩn trong quảng đời của Chân Nguyên.

 Ròng ròng nước mắt nhỏ sa

 Một là tiếc đạo hai là thương dân.

 Chân Nguyên đã chọn vị thế của mình là đứng trên lập trường của người dân để diễn tả những thảm cảnh nghèo đói, đau khổ mà người dân đang gánh chịu không một lời kêu cứu. Những cảnh tượng này đã từng phủ lên đầu Dân Tộc, từ khi lập quốc cho đến bây giờ luôn sống trong lầm than đen tối, qua những cuộc thống trị đô hộ của Tàu và Pháp. Chân Nguyên diễn tả trạng huống này với giọng thơ bùi ngùi xót xa cho duyên số của Dân Tộc của con người.

 Cơm thời chẳng có ăn rày

 Áo thời thuở này chẳng có che thân

 Cùng là gầy guộc tay chân

 Tối thui què quặt muôn phần xót xa.

 Và ngài cũng đã đề cập đến nỗi căm phẫn đối với những con người chỉ biết sống trên nỗi đau khổ của đồng loại.

 Người ấy ở nết chẳng lành

 Cậy cả tranh hành , thấy bé dễ đuôi

 Mình nhiều dễ kẻ mồ côi

 Cậy giàu để loại đói khờ cười chê.

 Đồng thời Chân Nguyên còn thay thế tâm trạng những người áp bức nói lên những ước mơ bình dị, như tâm hồn thanh thản của Dân Việt. Chỉ thích sống một cuộc sống an vui, không xây đắp hạnh phúc của mình trên những đau khổ của kẻ khác, tình thương mến lẫn nhau là một trong những đặc tính của người Việt, dù vẫn có những kẻ đã xử dụng và biến đặc tính này trở nên một thứ tính hung hãn tàn bạo khác, tuy nhiên chắc chắn sẽ bị bánh xe lịch sử của Dân Tộc nghiền nát như chính thân phận của họ sẽ bị tàn phá khủng khiếp bởi thời gian. Chân Nguyên nói lên ước mơ của người dân như sau:

 Tích lấy tài bảo làm chi

 Cho hay của ấy thật thì của chung

 Lòng tôi chẳng muốn Bắc Nam

 Lấy làm bốn bể anh em một nhà.

 Chân Nguyên đã được huân tập một thứ Thiền do vị vua Trần Nhân Tông khai sáng, mang đặc thù của Dân Tộc là dấn thân trong xã hội để phụng sự con người, đóng góp trong công cuộc phát huy và duy trì văn hóa, đặt sự tồn tại của Dân Tộc trong ý lực vượt thoát tử sinh của mình. Phật Giáo Việt Nam vốn đã gắn liền với vận mạng thịnh suy của Dân Tộc vì thế hầu hết những vị Thiền Sư Việt Nam đã cống hiến cuộc đời mình cho đất nước, nhất là thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần là những thời đại vàng son nhất của Dân Tộc và Phật Giáo.

 Thiền Việt Nam vượt hẳn Thiền Trung Hoa ở điểm không nhắm đến việc chỉ biết lo giải thoát cá nhân. Nên Chân Nguyên ước mơ tiếp thu huân tập thật nhiều ý thức Thiền phái Trúc Lâm để tạo lại ý thức mới trong bối cảnh xã hội bây giờ, cứu vãn lại những gì đã đổ vỡ băng hoại, trên tinh thần vượt thoát của Phật Giáo.

 Dù rằng Chân Nguyên không thành công nhiều trong việc hoán chuyển thực trạng lúc bấy giờ, nhưng ông dám khơi dậy ý thức này quả cũng vĩ đại và khác thường rồi. Chân nguyên đã đặt nỗi khổ đau của Dân Tộc như chính nỗi đau trầm thống của riêng mình, chính từ quan điểm ấy tạo cho Chân Nguyên dám đương đầu trước những biến thiên thời đại, và ông đã tạo nên bầu không khí tươi mát hào hứng cho nhiều người. Ngô Thời Sỹ đã nhắc đến tên ngài với niềm ái mộ sâu xa, và phải chăng đã truyền lại những gì mà Chân Nguyên chưa thực hiện được cho người con lỗi lạc của mình là Ngô Thời Nhiệm sau này? Chính Chân Nguyên đã dựng nên luồng sinh khí mới này và nó đã châm ngòi nổ tung trong con người Ngô Thời Nhậm.

 Chúng ta không bàn cãi nhiều những suy luận nầy, cần nhất là đi sâu vào những đóng góp trong lĩnh vực văn học nghệ thuật của Chân Nguyên.

 Dù rằng những tác phẩm của ngài nằm trong phạm vi Phật giáo, tuy nhiên không vì thế mà giảm đi giá trị sử học của chúng. Những tác phẩm này đã phản ánh khá nhiều thực trạng xã hội trong thời bấy giờ, những bối cảnh của một xã hội quân vương phong kiến và những suy tưởng của một con người đang cảm nhận nỗi cơ cực lầm than của dân chúng, đã được Chân Nguyên dệt nên một cách khá cụ thể. Ở một khía cạnh khác, đặc biệt nhất là về ngôn ngữ, ngoài một vài tác phẩm bằng Hán Văn, những tác phẩm bằng chữ quốc âm của Chân Nguyên đã đóng một vai trò quan trọng, thiết yếu trong công việc nghiên cứu về ngôn ngữ Dân Tộc nói chung và đặc biệtvăn tự quốc âm về phương diện sử học. Tình hình văn học quốc âm ở thế kỷ thứ 18 phần nhiều viết tay, việc xuất hiện những bản in quốc âm như Thiền Tôn Bản Hạnh, hẳn nhiên đã có một giá trị lớn, rất cần thiết cho những nhà nghiên cứu về quốc âm của thế kỷ thứ 17 nầy. Đối với nền Văn học Phật giáo Chân Nguyên hiệu đính và trùng khắc Thánh Đăng Lục và ngài phú chúc sự nghiệp nầy cho Như Trí trùng san sách Thuyền Uyển Tập Anh (1715) Như Sơn soạn Kế Đăng Lục (1734) Như Trừng và Như Hiện chuyển ra văn nôm những bản văn về giới luật như Sa Di Thập Giới, Hai Mươi Bốn Thiên Oai Nghi. Tịnh Quang trùng san Thánh Đăng Lục (1750) Tuệ Hiền trùng khắc Khóa Hư Lục (1763) Sách Tam Tổ Thực Lục cũng được trùng san năm 1765 do người trong pháp phái thực hiện.

 Và tác phẩm An Tử Sơn Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh viết bằng thơ nôm lục bát, dùng làm tư liệu của các sách như Thánh Đăng Lục, Khóa Hư Lục, Tam Tổ Thực Lục.

 Đồng thời Chân Nguyên cũng đã xây dựng Đài Diệu Pháp Liên Hoa tại chùa Vĩnh Phúc, và đài Cửu Phẩm Liên Hoa tại chùa Quỳnh Lâm.

 Chân Nguyên quả là nhà tư tưởng lớn ở thế kỷ thứ 17 đúng với sự ca ngợi “thông minh, hạ bút thành văn” ngài đã đóng góp nhiều trong mọi lĩnh vực mà chắc hẳn chúng ta không bao giờ phủ nhận và quên được công nghiệp vĩ đại này.

IV. SỰ NGHIỆP ĐÀO TẠO NGƯỜI KẾ THỪA VÀ TRÙNG SAN NHỮNG TÁC PHẨM ĐỜI LÝ TRẦN

 Chân Nguyên đã đào tạo người tiếp nối và đầu tư sự nghiệp giáo dục vào những đệ tử của ngài. Việc làm nầy của ngài có phương sách truyền đăng tục diệm, khai thác và duy trì khía cạnh văn hóa. Chân Nguyên ý thức mãnh liệt về văn hóa vì đó là yếu tố cơ bản quan trọng trong việc hướng dẫn tri thức của con người tìm tới đỉnh cao của suy tư và hành động, từ đó tạo nên những quan niệm thăng hoa con người trước những bao phủ đen tối. Đồng thời hoán chuyển tạo dựng xã hội đặt đúng vị trí của những chủ trương do văn hóa ấy tác động. Nó là đạo quân chinh phục xã hội một cách nhanh nhất và hiệu năng lâu dài nhất. Thân xác con người đã chôn vùi dưới mặt đất cả mấy trăm năm nhưng gia tài văn hóa đã để lại khó mà tan rã, nó sẽ bàng bạc thấm nhuần vào tư tưởng của mấy mươi thế hệ sau. Minh chứng của lịch sử đã cho chúng ta có một quan niệm vững chải về điều này. Có như thế Tần Thủy Hoàng mới chôn sống học trò và đốt sách vở. Có lẽ người ta quá sợ hãi giá trị ảnh hưởng của văn hóa nên đã không ngần ngại tìm cách tiêu hủy những tiềm năng này. Và có những thực trạng trái ngược, nhưng tùy theo người viết hoán cải nó và một vài năm sau thực trạng trước đó đổi thay theo ngòi bút của họ. Điều quan trọng đòi hỏi người xử dụng cây viết phải trung thực và đem lại an vui cho đồng loại. Điều này hoàn toàn tùy thuộc về mức độ tri thức của những quan niệm.

 Chân Nguyên là người ôm ấp hoài bão và ý thức thâm thiết về đạo quân Văn hóa nên ngài đã ươm mầm vào những đệ tửrèn luyện họ trở nên những người đem đóa hoa tâm linh truyền trao cho nhân thế, và thắp sáng hiện hữu bằng ngọn đuốc sáng rực mà ngài đã gởi gắm phó thác, có lẽ ngài là người thực hiện điều này có phương sách lâu dài hơn. Chân Nguyên có rất nhiều đệ tử xuất sắc, đặc biệt ta phải kể đến Thiền Sư Như Hiện và Như Trừng. Như Hiện được kế thừa y bát của phái Trúc Lâm và Như Trừng dựng Thiền phái lấy tên là Liên Tông, sau nầy hai phái tổng hợp làm một, góp phần tích cực vào việc khôi phục những tác phẩm đời Trần.

 Như Hiện xuất gia năm 16 tuổi, vào năm 1730 các chùa do ngài trông coi như chùa Quỳnh Lâm và Sùng Nghiêm được chúa Trịnh Giang trùng tu. Và năm 1748 ông được vua Lê Hiến Tông ban chức tăng cang, và năm 1757 được sắc phong Tăng Thống Thuần Giác Hòa Thượng.

 Thiền Sư Như Trừng vốn là một vị vương công họ Trịnh tên là Trịnh Thập, con của Phổ Quang Vương. Ông được vua Hy Tông chọn làm phò mã và gả công chúa thứ tư. Sau đó ông dâng sớ xin đi tu được sự chấp thuận của vua. Khi còn là Sa Di Như Như, ông có viết các bài Ngũ GiớiThập Giới Quốc Âm.

 Công tác trùng san những tác phẩm đời Lý Trần

 - Thuyền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, tác phẩm nầy bắt đầu vào đời Lý, do nhiều người biên soạn, trong số những vị có công là Thiền Sư Thông Biện, Thường Chiếu, Thần Nghi, Và Ẩn Không. Bản in cổ nhất còn lại là bản in năm 1715 do Thiền Sư Như Trí thực hiện trong khi Chân Nguyên còn sống.

 - Kế Đăng Lục: Do Thiền Sư Như Sơn chùa Hồng Phúc soạn, dưới sự bảo trợ của vua Lê Thuận Tông, khắc bản năm 1734.

 - Thánh Đăng Lục đã được trùng san ba lần do Chân Nghiêm, Chân Nguyên và Tính Lương.

 - Thượng Sỹ Ngữ Lục, sách do Pháp Loa biên tập, Trúc Lâm Điều Ngự khảo đính và Trần Khắc Chung đề bạt. Sách in nhiều lần vào đời Trần và sau Tuệ Nguyên Chùa Long Động trùng san.

 - Khóa Hư Lục do Trần Thái Tông soạn, và Tuệ Hiền sau này thực hiện.

 - Tam Tổ Thực Lục

 - Đại Nam Thuyền Uyển Truyền Đăng Tập Lục

 Sự nghiệp của Chân Nguyên lưu lại cho hậu thế vô cùng to lớn. Ngài có công phục hưng lại Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Ngài đã từng được vua Lê Hiến Tông ban cho mỹ hiệu Vô Thượng Công, vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng Thống ban hiệu Chính Giác Hòa Thượng năm 1722, Thiền Sư tịch năm 1726 hưởng thọ 80 tuổi, ngài để lại bài kệ truyền pháp được chép ở sách Kế Đăng Lục.

Hiển tích phân minh thập nhị thì
 Thử chi tự tính nhậm thi vi
 Lục căn vận dụng chân thường kiến
 Vạn pháp tung hoành chính biến tri.


 Chân Nguyên còn lưu lại một bài thơ hay nhất, và đẹp nhất.

 Nói ra là bị kẹt
 Không nói cũng chẳng xong
 Vì anh đưa một nét
 Đầu núi ánh dương hồng.


 (Hữu thuyết giai thành bảng
 Vô ngôn diệc bất dung
 Vị quân thống nhất tuyến
 Nhật xuất lĩnh đông hồng)


 Chân Nguyên đã nằm xuống cách đây mấy thế kỷ, nhưng hình ảnhtác phẩm của Ngài vẫn lớn dần theo nhịp thời gian.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11350)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11531)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13518)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14094)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10289)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10758)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11289)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11245)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11407)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10144)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9945)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10682)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11305)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42133)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10463)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11840)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 9998)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10444)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10590)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45689)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32070)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11300)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10666)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11284)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10606)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13445)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12352)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11010)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10597)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12279)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11131)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11815)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29222)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9194)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10520)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10204)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10543)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10886)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10787)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27350)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17765)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11841)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12237)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10426)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11681)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10403)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10751)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28002)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10119)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10248)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10623)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10754)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11210)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10377)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10675)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11456)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18218)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10499)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12824)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11734)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29128)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28558)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13298)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22752)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13420)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11545)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13785)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25666)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26036)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22270)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14463)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12047)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11781)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11672)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11460)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33142)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31815)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12005)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39588)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22438)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11946)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14201)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13335)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14291)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12039)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10383)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11211)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13281)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34478)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12591)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12205)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13517)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12599)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12936)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16278)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11706)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27346)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28368)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant