Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Lâm Tế Nghĩa Huyền Tiếng Hét Vang Động trong Vô Cùng

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 7519)
3. Lâm Tế Nghĩa Huyền Tiếng Hét Vang Động trong Vô Cùng
thiensututuonggiacngo


Lâm Tế Nghĩa Huyền Tiếng Hét Vang Động trong Vô Cùng

Lâm Tế (?--867) người được mệnh xưng hy hữu độc đáo trong Thiền Tông, có một tuyệt chiêu quái đản, xoáy thẳng vào trọng tâm Giác ngộ của người đối diện. Tiếng hét tựa như tiếng nổ long trời lở đất, kẻ nào nghe phải đinh tai nhức óc chấn động cả hệ thần kinh, đẩy thẳng kẻ ấy lên tận mây ngàn chơi vơi giữa khoảng không chẳng bám vào đâu được, âm ba của nó cuồn cuộn như hải triều quét sạch chướng ngại cuốn phăng vào lòng đại dương. Lâm tế xử dụng với những xảo thuật tinh diệu mà không cần phải lý luận, người tiếp nhận vẫn đạt được giác ngộ trong sự gay cấn, khiếp đảm, cùng cực nhất.
Lâm tế đã từng vung những cú đánh làm người thưởng ngoạn quên đi nỗi đau thân xác, lách mình tìm tới chặng đường trực giác. Mấy mươi thế kỷ đã đi qua những khởi động ngài tung ra vẫn còn tìm ẩn trên đỉnh non cao đổ xuống cuộc đời, tắm mát con người chìm lặng trong bể trầm luân, chơi vơi trong hố thẳm. Đâu đó âm vang như được dịp chọc thủng màng tai, ngự mãi trong dòng nhân sinh luân chuyển, còn lại khoảng không chứa đầy âm hưởng của tiếng hét huyền diệu năm xưa bỗng vọng về.


I. LÂM TẾCON ĐƯỜNG TÌM ĐẾN GIÁC NGỘ


Thời gian lững lờ trôi nhanh, như chiếc lá vàng vừa mới rụng, đã ba năm trôi quaLâm Tế chưa tìm thấy được bản lai diện mục của mình, dù hằng ngày sống trong không khí bao phủ của Thiền. Mãi đến khi vị thủ tọa hỏi:
- Ông ở đây bao lâu rồi ?
- Thưa ba năm.
- Ông đã gặp Thầy lần nào chưa ?
- Thưa chưa.
- Tại sao chưa?
- Tại vì tôi không có câu nào để hỏi Thầy.
Vị thủ tọa bảo: “Đi gặp Thầy và hỏi yếu chỉ đạo Phật là gì.” Lâm Tế vâng lời và đến gặp Hoàng Bá để hỏi: “Yếu chỉ đạo Phật là gì?” Câu hỏi vừa xong âm vang của nó chưa kịp tan loãng vào hư không Lâm Tế bị đánh ba mươi hèo. Đã ba lần như vậy và lần nào cũng đau thấu tâm can thân xác mỏi mệt vì thấm đòn. Ra về mà lòng vẫn còn hậm hực, thiểu não, Giác ngộ làm gì? Khi thân xác rã rời tâm tư khép chặt, nỗi đau nói không nên lời, nhưng Lâm Tế quyết không hề nãn lòng thối chí trước những hung bạo của Huỳnh Bá. Ba năm trường Lâm Tế đến Huỳnh Bá để tìm cầu sự chứng ngộ, lẽ nào không có một câu hỏi với sư phụ thì làm sao có thể giải đáp cho mình sự tha thiết cầu mong. Có lẽ sự yên lặng ấy là giai đoạn Lâm Tế đang tự mình truy cứu bằng những phương thức để thấy được bổn tâm, và có lẽ chính nhờ tự gõ vào tâm thức ấy mà Lâm Tế cảm thấy mù mờ mọi ngôn từ không có gì để hỏi Huỳnh Bá, từ đó quá trình tu tập thu ngắn lại, khi mà vị Thủ tọa biết thời cơ mới khuyên Lâm Tế tìm gặp Sư phụ. Sau đó ba lần hỏi đều bị ăn đòn, mà con đường giác ngộ vẫn chưa thấy. Lâm Tế quyết định đi tìm thầy khác. Huỳnh Bá chỉ ngài đến Đại Ngu, khi Lâm Tế đến, Đại Ngu hỏi:
- Ở đâu tới?
- Ở Hoàng Bá
- Hoàng Bá có dậy dỗ những gì ?
- Nghĩa Huyền nầy ba lần hỏi về yếu chỉ của đạo Phật thì cả ba lần đều lãnh đủ nhiều gậy mà chẳng được dạy gì cả, chẳng biết tôi có lỗi gì ?
Đại Ngu bảo:
- Chẳng ai có thể tốt bụng hơn gã hòa thượng hủ lậu đó, thế mà ngươi còn muốn biết mình có lỗi ở đâu.
Bị Đại Ngu la rầy quở mắng Lâm Tế mới chợt thấy được cái dụng của Hoàng Bá chứa đầy sự thương mến trong cung cách tàn bạo. Ngài bèn thốt lên:
- Thế ra Phật Pháp của Hoàng Bá chẳng có chi nhiều.
Đại Ngu nắm ngay lấy cổ áo của Lâm Tế và bảo:
- Phút trước nhà ngươi nói không hiểu nổi, bây giờ bảo chẳng có chi nhiều, thế nghĩa là gì ?
Lâm Tế không trả lời, lại đánh vào cạnh sườn Đại Ngu ba thoi. Đại Ngu gỡ ra và bảo: “Thầy ngươi là Hoàng Bá, việc này chẳng can gì đến ta”.
Khi Lâm Tế trở lại, Hoàng Bá hỏi:
- Sao lại về nhanh thế?
- Vì thầy quá tử tế như bà nội.
Hoàng Bá nói:
- Đợi khi nào gặp gã Đại Ngu ấy ta cho gã hai chục gậy.
Lâm Tế đáp: “Khỏi cần gặp, có ngay đây”.
Vừa nói, vừa vỗ cho lão hòa thượng một chưởng thật nặng. Lão hòa thượng cười ha hả !
Lâm Tế trải qua những trận đòn hối thúc đau điếng và cũng chính nhờ những lần đau ấy mà tâm thức trở nên tinh luyện, chặng đường đi đến tìm gặp Đại Ngu là cơ hội để Lâm Tế suy gẫm thật nhiều cung cách mà Hoàng Bá đã đối xử với Lâm Tế, và nhờ đó điểm cuối cùng có cơ may bùng dậy khi nghe những lời trách bảo của Đại Ngu. Lâm Tế dù không hỏi Hoàng Bá trước đó, bởi khoảng thời gian nầy đang có những cái bất an, bao phủ tâm tư một cách mù mờ, chưa tìm gặp vị thế hẳn hoi, nhưng không khí Thiền hàng ngày Lâm Tế cảm nhận vẫn là những trợ duyên vô cùng cần thiếttác động mãnh liệt trong nội tâm của ngài, tự mình chìm lặng trong cái ẩn hiện mênh mang của Thiền. Nếu không gõ cửa thì cửa không bao giờ mở. Lâm Tế chỉ thấy một cách mang máng ở tâm tư mình nhưng, vẫn chưa xác định sự hiện diện của nó là cái gì, chỉ có dấu hỏi to tướng nhưng Lâm Tế chẳng biết phải hỏi như thế nào, có cái gì không được an ổn đang ngự trị, những rối rắm chưa biết đâu là đầu mối để phăng ra khỏi cái gút, mãi đến khi “Yếu chỉ Phật Pháp là gì ?” Lâm Tế mới bám chặt vào công án nầy, từ đó phăng ra con đường đi đến giác ngộ. Những mù mờ thấp thoáng trở nên những chất liệu cần thiết để Lâm Tế đủ năng lực bám thật chặt vào gút ấy, cái ẩn ngăn nầy là những diệu dụngLâm Tế đã huân tập trong ba năm nhưng, không biết xử dụng nên nó trở thành bàng bạc không rõ. Nhờ cái ấn nhẹ tay của Đại Ngu, Lâm Tế mới choàng mình thấy được Phật Pháp nơi Hoàng Bá.
Con đường giác ngộ của Lâm Tế quả cam go, bù lại để được những lời giải thích thì có những cú đánh thay câu trả lời. Ngài đủ kiên nhẫn chịu đựng đến lần thứ ba quả cũng vĩ đại rồi. Để rồi sau đó cuộc đời Lâm Tế xử dụng tiếng hét, cú đánh như trước đó ngài tận hưởng. Chính nhờ thấu triệt tấm lòng từ của Sư Phụ nên Lâm Tế không ngần ngại áp dụng phương cách nầy và cũng để biểu lộ, khai thị kẻ đối diện sự thương mến đi kèm với tiếng hét cú đánh.


II. TIẾNG HÉT TUYỆT KỶ CỦA LÂM TẾ 


Tiếng hét của Lâm Tế đã từng gây rung chuyển núi đồi chập chùng, làm rúng động thiền môn. Kẻ nào nghe phải khiếp đảm đầu óc như vỡ tung ngay. Lâm Tế xử dụng nó như một tuyệt tác phi thường, âm ba tựa muôn ngàn âm thanh quái đản, khủng khiếp trỗi lên cùng lúc đẩy lùi khoảng không đến tận cùng sự vật.


Lâm Tế chia ra làm 4 loại hét:
- Có tiếng hét như gươm báu vua Kim Cang
- Có tiếng hét như bốn vó sư tử vàng trụ bộ trên mặt đất
- Có tiếng hét như cần câu quơ bóng cỏ
- Có tiếng hét không có tác dụng của tiếng hét.


Trước Lâm TếMã Tổ (709-788) đã xử dụng tiếng hét khi Bách Trượng (724-814) đến hỏi Thiền. Nhưng đến thời Lâm Tế khai triển nó trở thành tuyệt chiêu, do cách xử dụng vi diệuhiệu năng phi thường của nó, đẩy tung kẻ đối diện bay bổng lên tận trời cao, rơi vào khoảng không hụt hẫng. Hễ mở miệng ra là bị tiếng hét nầy chun vào đánh phá trong tận cùng tim phổi, và hễ chuẩn bị mở miệng là bị hét tới tấp, làm cho kẻ đối diện chùng bước trước những suy luận, không biết phải bám vào đâu, chỉ còn cách phải trực diện may ra có thể tránh né và tìm điểm tựa. Nhưng hình như Lâm Tế biết điều này, nên tiếng hét có công năng bao phủ tất cả những lối đi lại của tâm thức, và ngay lối vào Giác Ngộ nó cũng bao bọc, đầu óc căng ra như quả nổ đang châm ngòi, nếu được nổ tung lên thì những bao phủ nầy trở thành mây khói tan loãng ngay. Còn nếu không, những run sợ hoang mang ray rứt cứ thế mà đè nặng lên tâm tư, không còn kẽ hở để ấn xuống, nhưng vẫn phải chấp nhận đến độ quật ngược tung mình ra khỏi mọi tương quan. Mục đích những xảo dụng, nhằm đưa ta tìm tới sự giác ngộ, không cần phải đi qua những lối mòn mà kẻ khác để lại trong những lần dọ dẫm hụt chân. Tiếng hét giúp ta khơi dậy những gì yên ngủ bấy lâu nay, do Vô Minh phong tỏa lối về, những bất an lúc nào cũng chờ chực sẵn, xông tới đẩy chúng ta rơi vào thế đấu tranh trường tồn trên những lo sợ, khổ đau hệ lụy đang bao phủ suốt đời.

Thiền giúp chúng ta tìm đến sự an vui, không cần phải dùng đến những lý luận bàn cãi sôi động của ý thức chi phối, những điều này trước đó đã hơn một lần đưa ta rơi vào thế bí không lối thoát, sự dựng nên thành trì tri thức không bao lâu lại bị kẻ khác lôi xuống đập phá, thêm vào đó ý thức mới phù hợp với hiện tình, nhưng rồi sau đó cùng chung số phận như lần trước. Cuộc đời sao cứ diễn mãi những trò ảo mộng như thế ?


Tiếng hét của Lâm Tế dồn chứa công lực thâm hậu, khi được xử dụng mạnh như vũ bão, xoáy lốc những chướng ngại đang hiện diện, tạo thành cơn cuồn phong dữ dội, quét sạch mọi tăm tối đang ngự ẩn trong kẻ đối diện, hiệu năng này có tác dụng chuyển hóa những quan niệm sai biệt trở nên diệu dụng và đưa hành giả thoát ra ngoài những biên kiến. Nhiều khi lối xử dụng nầy nhẹ nhàng uyển chuyển như làn gió hạ hây hẩy thổi nhè nhẹ lùa qua khung cửa, làm kẻ thưởng ngoạn cảm thấy tâm tư nhẹ nhàng lâng lâng thoát tục. Lâm Tế xử dụng tiếng hét, thoạt đầu khi nghe nói đến hét con người sẽ hình dung ra những dữ dằn của hét và nét run sợ của kẻ bị nghe hét, tuy nhiên đây là phương thức diệu dụng nhằm đưa chúng ta choàng tỉnh sau những tháng năm yên mình trôi lăn trong phiền trược, đột nhiên một âm vang cao vút dội mạnh vào tâm tư, bao nhiêu ý nghĩ ngổn ngang hốt nhiên dừng lại, từ đó cho chúng ta thấy ngay sự hiện diện chính mình trước những đe dọa, để ta có thể tìm phương xô đẩy sự bao phủ nầy, thoát ra ngoài con đường dẫn đến hố thẳm điên loạn triền miên. Và xảo thuật này đánh mạnh vào ý lực, nếu chúng ta trước đó đã nhiều lần tra vấn, chiêm nghiệm bản lai của mình nhưng vẫn chưa tìm thấy mặt mũi của nó, thì may ra từ sự rung chuyển này đưa ta thoát khỏi cơn thèm khát giác ngộ. Tựa như một hòn đá khi cuốc đất đụng phải, bay bổng vào bụi tre, gặp phải cây tre phát ra tiếng vang mà người cuốc đất bỗng nhiên hoát ngộ. Cách xử dụng tiếng hét của Lâm Tế đạt đến mức chuyên nghiệp đúng thời điểm thì nó mới xuất hiệnchắc chắn kẻ nào diễm phúc được nghe, cởi bỏ thoát thân một lần. Lâm Tế không biện luận lôi thôi khi có kẻ tìm gặp, câu trả lời tuyệt diệu là tiếng hét đinh tai đưa đến trực ngộ.

Ngoài tuyệt kỷ hét này ra Lâm Tế còn xử dụng lối đánh một cách ngoạn mục nữa, nếu bị hét thì không đánh và ngược lại nếu đánh thì không hét, và cũng có lúc Lâm Tế xử dụng cả 2 phương cách, nếu dùng đến thì kẻ đối diện chớp nhoáng có thể tìm thấy bộ mặt thật của mình khi âm vang chưa tan loãng.

Lâm Tế chia ra làm 8 loại đánh (bát bổng)
- Thưởng bổng
- Phạt bổng
- Tung bổng
- Đoạt bổng
- Ngu si bổng
- Hàng ma bổng
- Tảo tích bổng
- Vô tình bổng 


một lần Định Thượng Tọa hỏi Lâm Tế: “Thế nào là đại ý của Pháp Phật”. Lâm Tế bước xuống Thiền sàng, nắm lấy thượng tọa, xáng cho một bạc tai, rồi xô ra. Định đứng khựng. Ông tăng đứng bên nhắc “Định thượng tọa sao không lạy Hòa thượng đi”. Định toan lạy thì ngay lúc ấy hốt nhiên đại ngộ.


III. DIỆU DỤNG CỦA TIẾNG HÉT TRONG THIỀN


Thiền nhắm đến phát huy và phục hồi nguyên ủy giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi con người, hiệu năng thông đạt mọi dính mắc của tiếng hét, trở nên một trong những nét độc đáo trong Thiền. Chưa ai có thể cho chúng ta định nghĩa chắc chắn về Thiền, bởi lẽ Thiền vốn thoát ly ra khỏi ngôn từ, không lưu lại bóng dáng gì cả và thiền là sự linh năng, tri thức con người không thể kéo nó xuống để dán vào đó những định lý được. Nếu có điều này, thì không thể gọi là Thiền, nhưng trong tất cả và trên tất cả đều có nó hiện hữu. Chính vì không trói buộc trong ngôn từ nên hầu hết những vị Thiền sư rất ít khi phải biện luận dông dài, đáp lại điều này những tiếng hét, cú đánh, một vài lời không lúc nào ăn khớp với câu hỏi. Nhưng những điều này nhằm đặt lại vị trí cần thiết để giác ngộ vụt lên. Biện luận nhiều cũng không thay đổi được tâm thức kẻ đối diện, vì hầu hết con người hay nương theo và lầm tưởng ngôn ngữyếu tố quan trọng, chấp ngón tay là mặt trăng. Nếu đã rơi vào cửa ngõ chết cứng nầy, thì làm sao có thể băng mình tìm tới cửa ngõ của rỗng không? Tiếng hét trút ra tất cả những định lực vốn un đúc sẵn trong Thiền sư đánh mạnh vào tâm thức may ra tìm thấy được thức giác kẻ đối mặt. Âm vang của nó cao vút lên tận trời xanh, luồng kình lực nầy đẩy lùi những toan tính đang chận lối rơi vào hố thẳm của hư vô, phục hồi lại những giá trịthời gian không tàn phá vốn có sẵn trong mỗi con người.

Trong lịch sử Thiền Tông hai vị nổi danh nhất trong việc dùng tiếng hét để khai thị đó là: Vân Môn Văn Yển (?949) và Lâm Tế Nghĩa Huyền (?867) Vân Môn thì quát “Quan” còn Lâm Tế thì hét “Ha”. Hai thán từ nầy khác nhau, nhưng giống nhau nhằm mục đích quát tháo để giác ngộ bùng lên. Tuyết Đậu (980-1052) ca ngợi về thán từ nầy “Quan”: “Đã mất tiền toi còn mang tội vạ” Bạch Ẩn (1683-1768) bình rằng “Quả đấm dầu giận mấy, cũng không đánh vào mặt hoa” Nếu dùng ý niệm tri thức để truy cứu thì sẽ không tìm thấy được trả lời nào cho chúng ta, lạc lối như Lưu Nguyễn tìm lại động Thiên Thai.

Những Thiền sư khi vấn đáp với kẻ tìm đến không nằm trong khuôn phép luận lý nào, vì vậy hé mở cho chúng ta thấy đàng sau ngôn từ, sự cảm thông để nương theo đó tìm đến giác ngộ vẫn gần hơn, khi phải co mình trong những luận cứ, lập luận. Cách trả lời này chỉ là trá hình của tiếng hét hay cú đánh nhưng, bằng ngôn từ nửa thực nửa vô. Tiếng hét của Lâm Tế rất thịnh hành. Cho đến bây giờ trong thiền môn vẫn còn ngự trị tiềm ẩn, bước vào cổng tam quan chấn động ngay chữ “Quan” của Vân Môn dù chữ Quan nầy là cửa ải nhưng ở đây không có cửa nào hết, nếu có thì mở tung cửa để giác ngộ. Tiếng Ha từ trong tống thẳng ra làm bay bổng lên tận mây trời, nó len lõi vào thời không, ẩn mình trong tất cả những ngõ ngách, ngay khóm trúc cành hoa cũng có mặt tiếng Ha nầy ngự tìm, núp ẩn. Nếu không rũ sạch bụi trần thì không thể nào tìm thấy được sự có mặt vô cùng của nó.

Tiếp nhận sự vi diệu tuyệt vời của tiếng hét, đòi hỏi kẻ đối diện phải dứt trừ mọi nắm bắt đuổi theo phiền trược, đối diện với nó như nhìn với tất cả tâm thành tha thiết, bặt hết trần lao, nhưng yếu tố quan trọng là phải vận dụng xương tủy máu thịt mình, để những tác động của tiếng hét đánh thức màng vô minh bao trùm, phải tạo khoảng không để tiếng hét nầy tìm vào thì mới có cơ duyên để giác ngộ trỗi dậy, tìm được con đường đó không phải là một chuyện ai làm cũng được, hầu hết chúng ta ít chịu tạo cho mình cửa ngõ để đến tịch nhiên. Phải huân tập thật nhiều ý lực vượt thoát tử sinh và đánh phá liên tục vào tâm tư thì mới có thể dọn đường cho tiếng hét đến tác động thẳng trong ấy. Những đột biến do công năng của nó khơi dậy, may ra đó là đường dây để ta có thể phăng mình tới được đầu mối đích thực trực tiếp với chân lý, không còn run rẩy với cuộc sống không một chỗ dừng cho tương lai nầy nữa.

Dù rằng hiệu năng của tiếng hét Lâm Tế bắt tâm của mình phải tìm cách giải quyết một vấn đề không thể giải quyết được. Thực ra nếu không dồn chúng ta vào thế bí, thì làm sao từ đó có thể thoát ra khỏi bóng tối, nếu Lâm Tế không đẩy ta vào tận cùng những đe dọa khiếp đảm, thì ta không có đủ nghị lực để bình an trước những hãi sợ. Những vấn đềchúng ta cho là không giải quyết được, bởi lẽ chưa lần nào ta đem nó lên bàn mổ tâm linh để chiêm ngưỡng, nếu đã đem lên thì không còn quan trọng nữa, dầu sao cơ hội tìm lại một cách thật sự trong nội tâm, vẫn có khả năng lãnh hội được những diệu dụng khi có cơ duyên đối gặp Thiền Sư. Chỉ sợ khi nào chúng ta phó mặc thân phận mình cứ mặc cho con nước đưa đến đâu thì đến, muôn kiếp khó có thể thông đạt được mọi lý lẽ tử sinh của cuộc đời.

IV. GIÁ TRỊ ĐỘC ĐÁO NHỮNG BÀI PHÁP CỦA LÂM TẾ

Lâm Tế có lối nói pháp khiến tóc tai ta phải dựng đứng, trợn mắt, nhằm cách mạng đập tan hiển lộ nên sự thật, lắm lúc sự thật nầy phũ phàng như chính cái phũ phàng mà ta đang lặn hụp. Lâm Tế muốn lột trần cuối cùng tất cả, những giả dối con người đang trang sức phết tô để dệt nên một thần tượng phi lý, tôn thờ theo chủ nghĩa của lừa lọc. Lâm Tế còn đập vỡ tung những hình tướng con người qui phục. Vì hình tướng chỉ là lớp sơn bên ngoài tự nó phải tiêu hủy.

“Bậc đạo nhân chân chánh tuyệt không nắm Phật, không nắm Bồ Tát La Hán, cũng không nắm ba cõi thù thắng, quyết nhiên không câu chấp vào ngoại vật, thì trước mắt chánh pháp, vào lửa không phỏng, vào nước không chìm, vào ba đường địa ngục như dạo vườn cảnh, vào ngạ quỉ súc sanh mà chẳng thọ báo, vào sắc giới chẳng bị sắc mê hoặc, vào thanh giới chẳng bị thanh mê hoặc, vào vị giới chẳng bị vị mê hoặc, vào xúc giới chẳng bị xúc mê hoặc, vào pháp giới chẳng bị pháp mê hoặc".

Sáu căn của con người khi đối diện với trần cảnh thường khởi ra những tham đắm nên phải trôi lăn trong tử sinh, nếu xoay chuyển tất cả cửa ngõ bên ngoài để quán chiếu vào thể tánh thì mới có thể đi vào đâu nơi đó thành niềm an lạc, nếu điều này không được thực ngộ thì muôn kiếp làm kẻ sống trong phù vân nổi chìm, không chỗ dừng cho tương lai.

Tìm đến tư tưởng của Lâm Tế phải buông bỏ tất cả những ý niệm dù ngay hai chữ buông xả, bặt hết mọi ngôn từ, đừng tìm kiếm tra hỏi những thuật ngữ trong ấy, mà cần nhất thoát ra ngoài dính mắc thì mới có thể cảm nhận được sự thâm sâu và tấm lòng từ không bờ bến mà ngài để lại cho chúng ta. Ngài phá tung tất cả để đưa cho ta thấy đàng sau đó còn lại một cái gì mà trong ngôn từ, trong ý niệm không có.
“Cứ tự nhiên mà động dụng, mặc áo ăn cơm, cần đi cứ đi, cần ngồi cứ ngồi, đừng mảy may tâm niệm nào cầu Phật quả. Quí ông cho rằng đạo có tu có chứng, chớ nói nhảm. Đặt ra tu chứng là tạo nghiệp sanh tử. Ông nói sáu đạo muôn hạnh cùng tu, ta thấy toàn là nghiệp. Cầu Phật, cầu Pháp là tạo nghiệp địa ngục. Cầu Bồ Tát cũng là tạo nghiệp. Coi kinh coi giáo cũng là tạo nghiệp. Phật với Tổ Sư đều là người vô sự. Quí ông nói có đạo tu được, có pháp chứng được. Đạo nào mà tu? Pháp nào mà chứng? Chỗ thọ dụng của ông nay còn thiếu hụt vật gì chứ? Mà bồi đắp vào đâu chứ?”


Lối nói Pháp này của Lâm Tế làm chúng ta phải khiếp sợ trước những dụng ngữ không bị giới hạn ở định mức nào. Nhưng có ai dám bảo nó không tìm ẩn cả sự giải phóng con người ra khỏi triền phược trong ấy? Chúng ta vốn bị nhốt kín quá nhiều ngay trong quan niệm, trong mọi hệ lụy không phút nào độc lập tự do một cách toàn triệt, đâu đâu cũng ngăn cách, lôi kéo, làm sao tìm thấy được con đường thênh thang rộng mở không có mưa phùn nắng quái. Nếu không nhờ vào phương cách, san bằng tiêu hủy những ngăn ngại vi tế, dù đó là biểu tượng hình tướng, thì chặng đường nầy hãy còn đong đưa lẩn quẩn. Lâm Tế từng chặt tan dù đó là Phật là Tổ, với Lâm Tế ngôn từ từng gây khổ đau cho con người, tạo nên những xung đột phi lý trong nội tại và tạo ý thức chỉ biện luận so đo. Nếu không vượt ra ngoài những trì trệ ngăn cách này, sẽ phải lạc lối ngay, khó mà tìm lại được. “Nầy quí ông cầu chân lý ! muốn ngộ vào chánh tông (Thiền) chớ để thiên hạ phỉnh mình. Trong cũng như ngoài, gặp chướng ngại nào cứ đạp ngã ngay, gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La Hán hoặc họ hàng thân thiết giết hết. Chớ ngần ngại, đó là con đường độc nhất để giải thoát. Đừng để bất cứ ngoại vật nào trói buộc mình, hãy vượt lên, hãy bước qua, hãy tự do. Tôi thấy suốt trong thiên hạ những vị gọi là cầu đạo, không ông nào đến với tôi tự dođộc lập hết. Hễ gặp việc tôi đạp nhào hết, không cần biết họ đến với tôi bằng cách nào. Họ ỷ mạnh tay, tôi chặt đứt tay, họ ỷ giỏi nói, tôi bóp câm miệng, họ ỷ tinh mắt, tôi đập đui mắt. Quả thật bao năm rồi chưa một ông nào đơn độc đối diện với tôi, hoàn toàn tự do, hoàn toàn độc lập. Ông nào cũng mắc phải như nhau những trò lừa dối không đâu của hàng cổ đức. Tôi không có gì để cho quí vị. Tất cả những gì tôi có thể làm được là tùy bịnh mà cho thuốc, là giải phóng cho quí vị tất cả triền phược.”
“Này chư vị cầu chân lý, hãy tỏ ra đôc lập tự cường. Tôi trân trọng đặt vấn đề ấy với quí vị. Suốt năm mười năm gần đây, tôi chỉ nhờ có vậy mà chưa được gì hết. Người ta đến với tôi toàn là người ma, những súc sanh cổ quái vất vưởng bờ tre, rừng bụi, đồng hoang cỏ dại, điên khùng gặp gì cắn nấy, dơ dáy thối tha. Quí vị loài ở hang, sao dám hoang phí của tín thí? Quí vị đáng gọi là sư sao khi còn vọng tưởng điên đảo như vậy? Tôi nói cho biết, không Phật, không Pháp, không tu, không chứng ! Quí vị tìm gì ở nhà láng giềng? Đó là trên đầu ghép thêm một cái đầu mượn ! Quí vị thiếu gì?”

“Quí vị cầu chân lý, những gì quí vị thọ dụng hiện giờ đây có khác gì với chư Phật chư Tổ đâu. Nhưng quí vị không tin tôi mãi đi tìm bên ngoài. Đừng mê tưởng như vậy. Không có gì ở ngoài, mà cả bên trong vẫn không có gì nắm giữ được. Quí vị chấp theo lời tôi nói, nhưng thà dứt tuyệt tất cả tham cầu, đừng làm gì hết.”


TỨ LIỆU GIẢN CỦA LÂM TẾ 


Lâm tế được kể như một trong những tay cự phách trong Thiền Tông. Tứ liệu giản là một minh chứng cụ thể, hay và rõ rệt nhất, nhờ vào đó hành giả có thể cảm nhận được những đòn bí hiểm mà chặng đường công án đã vén mở, dù rằng công án không nằm trong một phạm trù, kích thước, chỉ nhằm quật tung những gì câm nín yên nghĩ bấy lâu. Lối xử dụng và hiệu năng vẫn còn nằm trong mức độ thể nghiệm chặng đường tra vấn ấy.


Tứ Liệu Giản Lâm Tế đưa ra như sau:


- Có khi đoạt nhân không đoạt cảnh
- Có khi đoạt cảnh không đoạt nhân
- Có khi nhân cảnh đều đoạt
- Có khi nhân cảnh đều không đoạt


(Hữu thời đoạt nhân bất đoạt cảnh
Hữu thời đoạt cảnh bất đoạt nhân
Hữu thời nhân cảnh câu đoạt
Hữu thời nhân cảnh câu bất đoạt)


Lâm Tế hé mở cho chúng ta thấy rằng, có những lúc phải khước từ, bác bỏ, phản đối, hoặc chấp nhận. Biên giới của nó tựa như đường tơ kẻ tóc, nhích một cái là muôn trùng xa cách. Nó mênh mang và thâm sâu, không bám vào đâu được khi phải đối diện với Thiền Sư. Lắm lúc không chấp nhận người đến tham vấn các Thiền Sư, hoặc không phản đối lời của người ấy. Hoặc có những lúc cả hai đối tượng đều bắt gặp ở nhau một cái gì, hoặc chẳng bao giờ tương hợp được theo nghĩa không đoạt.


Lâm Tế giải thích trong ngữ lục của Sư:
- Có ông tăng hỏi: “Thế nào là đoạt nhân không đoạt cảnh?”
Sư đáp: Mặt trời ấm hiện phô gấm vóc
Trẻ thơ rũ tóc trắng như tơ
- “Thế nào là đoạt cảnh không đoạt nhân?”
Sư đáp: Lệnh vua đã ban hành khắp thiên hạ
Tướng quân ngoài ải dứt khói bụi
- “Thế nào là đoạt cả nhân lẫn cảnh?”
Sư đáp: Tịnh Phần bặt tin tức
Một mình ở một nơi.
“Thế nào là nhân cảnh đều không đoạt?”
Sư đáp: Vua bước lên ngai
Lão quê ca hát


Lối giải thích của Lâm Tế cũng vẫn còn bí hiểm như cái bí hiểm độc đáo của tiếng hét. Dù ở đây Lâm Tế còn cho ta một ý niệm so với tiếng hét cũng là một ý niệm, nhưng tựu thành bằng ngữ ngôn. Đầu mối để giác ngộ không nằm trong những suy tư khắc khoải, mà phải nằm trong thường nghiệm trực tiếp với tâm năng. Mức độ cảm nhận ở nội tại là điều tiên quyết để đạt được nguyên ủy nầy, hay ngược lại bung xuống hố thẳm, hoàn toàn tùy vào cảm nhận đúng mức hay không. Lâm Tế xử dụng Tứ Liệu Giản là mở thêm một cánh cửa khác để hành giả có thể dễ dàng hơn trong việc quật khởi tâm linh.


Riêng ở Việt Nam, thiền Phái Lâm Tế đã được truyền vào lần đầu tiên do Thiền Sư Thiên Phong thế kỷ thứ 13. sau đó phái Lâm Tế truyền vào nước ta một lần nữa Đàng Ngoài do các Thiền Sư Chuyết Chuyết và Minh Hành, Đàng Trong thì do các Thiền Sư Nguyên ThiềuMinh Hoằng Tử Dung, Minh Hải Pháp Bảo, Minh Vật Nhứt Trí, Minh Hành Từ Toại và Minh Giác Kỳ Phương.


Ảnh hưởng của Lâm Tế rộng lớn mạnh như vũ bão, quét sạch và cuốn phăng đi những trì trệ như tiếng hét của Lâm Tế đã gây phản ứng khốc liệt trong nội tại. Sự phát triển bành trướng của Tông Lâm Tế là tạo dựng lại Tông phái một cách rõ rệt truyền đăng cả mấy thế kỷ nay, hầu hết trong chúng ta đều mang trong mình giòng máu tâm linh của tiếng hét huyền nhiệm năm xưa, Lâm Tế đã từng tung ra chấn động cả thời gian, để rồi mười mấy thế kỷ nay nó hãy còn đi vào cuộc đời, chuyển hóa những trạng huống để trở nên một con người đích thực đã thừa hưởng âm vang của tiếng hét.


Dù qua những biến thiên của trời đất, của những bão tố bao phủ cho mỗi thời đại, một cách sáng tạo hay đập phá những di sản tối hậu, cũng đều tùy thuộc vào mức độ chứng nhập được những tinh hoa đã huân tập, và có lẽ đôi khi chỉ còn lại nhãn hiệu gắn vào mỗi người, nhưng thực ra trong ấy trống không, theo nghĩa chẳng có gì, chứ không phải trống không theo nghĩa không dính mắc. Lắm lúc đem nhãn hiệu nầy vung vãi mà không cần kiểm chứng lại sự có mặt cần thiết hay không.


Làm sao khơi dậy tiếng hét Lâm Tế năm xưa, để điểm tô cho con người trong sự đe dọa của cuộc sống hôm nay ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11392)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11553)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13544)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14125)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10311)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10777)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11330)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11284)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11440)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9969)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10715)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42226)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10488)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10019)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10460)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10636)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45781)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32126)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11327)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10707)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11329)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10636)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13461)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12377)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11029)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10621)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12328)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11173)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11849)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9219)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10546)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10244)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10596)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10911)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10810)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32150)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27393)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17796)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11879)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12291)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10447)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11700)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10437)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10789)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28084)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10154)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10283)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10658)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10771)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11227)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10403)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10696)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11480)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18265)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10525)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12848)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11755)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29202)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28600)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28306)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13329)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22788)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13443)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11581)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13825)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26085)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22317)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14490)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12073)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11809)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11691)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11492)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33201)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31851)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12042)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39636)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22499)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11964)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14233)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13350)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14306)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12074)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10411)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11236)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13318)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34534)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12627)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12234)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13534)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12625)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12984)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16308)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11758)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27402)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28439)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant