Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần I: Giáo lý Đại Ấn

11 Tháng Ba 201400:00(Xem: 7493)
Phần I: Giáo lý Đại Ấn

SÁU YOGA CỦA NAROPA

Nguyễn An Cư và Trùng Hưng Việt dịch

Phần I
Giáo lý Đại Ấn


Bài Ca Đại Ấn của Tilopa


Đại Ấn thì vượt khỏi mọi lời nóibiểu tượng,
Nhưng với con, nhiệt tâm và trung thành,
Naropa, điều này phải được nói ra.

Tánh Không không cần có chỗ trụ,
Đại Ấn nằm yên nơi không có gì cả.
Không khởi một nỗ lực nào,
Mà buông lỏng và tự nhiên,
Thì người ta có thể phá tan ách xiềng
Bèn có ngay giải thoát.

Nếu người ta thấy không có gì cả khi nhìn vào không gian,
Nếu với tâm bấy giờ người ta quan sát tâm,
Người ta phá tiêu những phân biệt chia cách
Phật quả viên thành.

Những đám mây lang thang qua bầu trời
Không gốc rễ, không nhà trú ;
Cũng thế những tư tưởng phân biệt trôi nổi qua tâm.
Một khi thấy được Tự Tâm,
Phân biệt bèn ngừng dứt.

Trong không gian những hình dạng và màu sắc thành hình,
Nhưng không gian không nhuốm màu đen, trắng.
Từ Tự Tâm mọi cái khởi lên
Nhưng tâm không nhiễm ô bởi tốt hay xấu.

Bóng tối bao đời không thể che tối mặt trời;
Những kiếp dằng dặc triền miên
Của sanh tử không thể che dấu
Ánh Sáng rạng rỡ của Tâm.

lời nói được nói ra để giải thích tánh Không,
Tánh Không là như vậy, không thể nào diễn tả.
chúng ta nói, “tâm là ánh sáng chói ngời”
Nó thì vượt khỏi mọi ngôn từ biểu tượng.
Dù tâm vốn là không trong bản chất
Nó bao trùm và chứa đựng mọi sự.

Chớ làm gì cả với thân mà chỉ buông xả,
Đóng kín miệng và giữ im lặng,
Tâm trống không và không nghĩ gì.
Như thân một cây tre rỗng

Để cho thân nghỉ ngơi thoải mái.
Không lấy cũng không bỏ,
Để cho tâm ở yên.
Đại Ấn là một tâm không bám trụ.
Thực hành như vậy, đến lúc con sẽ đạt đến Phật quả.

Thực hành Thần chúBa la mật,
Giáo huấn trong Kinh và Giới luật,
giáo lý từ những Trường phái và Luận điển sẽ không đem lại
Sự chứng ngộ Chân Lý Vốn Sẵn.
Vì nếu tâm còn ham muốn
tìm kiếm mục đích, nó chỉ che mất Ánh Sáng.

Người nào giữ những giới luật Mật thừa
Nhưng lại phân biệt, thì đã phản bội tinh thần Samaya.
Hãy ngừng mọi hoạt động, từ bỏ mọi ham muốn,
Hãy để những tư tưởng khởi lên và diệt mất
Như những làn sóng trong đại dương.
Người không hề làm chướng ngại cái Vô Trụ
Và nguyên lý Vô phân biệt,
Là đang giữ giới Mật thừa.

Người từ bỏ khao khát
Và không bám níu cái này cái nọ,
Bèn tri giác được thật nghĩa
Ban cho trong Kinh điển.

Trong Đại Ấn tất cả tội lỗi nhiễm ô cháy sạch ;
Trong Đại Ấn người ta được giải thoát
Khỏi ngục tù của thế gian này.
Đây là ngọn đuốc tối thượng của Pháp.
Những người không tin nó
Là những người ngu mãi mãi chìm sâu
Trong khốn khổ và muộn phiền.

Nỗ lực cho giải thoát
Người ta cần nương dựa một vị Thầy.
Khi tâm con nhận những ban phước của ngài
Giải thoát bèn ở ngay bên cạnh.

Than ôi, mọi sự trong thế gianvô nghĩa,
Chúng chỉ là những hạt giống của muộn phiền.
Những giáo lý nhỏ đưa đến những hành vi ;
Người ta chỉ nên theo
Những giáo lý Lớn.

Siêu vượt nhị nguyên
Là cái Thấy Tối Cao (Vua).
Chiến thắng những phóng dật
Là sự thực hành Vương Giả.
Con Đường không-làm
Là Đường chư Phật ;
Ai giẵm bước trên Con Đường đó
Thì đạt đến Phật quả.

Thoáng chốc là thế gian này ;
Như những bóng ma, những giấc mộng,
bản chất nào đâu.
Hãy buông bỏ nó, từ bỏ thân thích,
Cắt đứt những buộc ràng của tham lam, thù hận,

Hãy thiền định trong rừng trong núi.
Nếu không cố gắng nào mà thảnh thơi,
Con an trụ trong “trạng thái tự nhiên”,
Thì Đại Ấn sẽ sớm hiện tiền với con
Và chứng Vô Sở Đắc.

Cắt đứt rễ của một cái cây
Thì lá sẽ héo tàn ;
Hãy cắt đứt rễ của tâm con
Thì sanh tử rơi rụng.

Ánh sáng bất kỳ ngọn đèn nào
Xóa tan trong chốc lát
Bóng tối của những kiếp dằng dặc ;
Ánh sáng mạnh mẽ của tâm
Trong một tia chớp đốt cháy
Tấm màn của vô minh xưa cũ.

Người nào bám níu vào tâm thì không thấy
Sự thật của cái vượt khỏi tâm.
Người nào nỗ lực thực hành Pháp
Không tìm ra sự thật của cái vượt khỏi thực hành.
Để biết cái vượt khỏi cả tâm và thực hành,
Người ta cần cắt sạch gốc rễ của tâm
Và mở to mắt trần trụi. Như thế cần xa lìa
Mọi phân biệt và an trụ thảnh thơi.

Người ta không lấy hay bỏ
Mà ở yên tự nhiên,
Vì Đại Ấn thì vượt khỏi

Mọi chấp nhận và từ chối.
thức A Lại Da thì không sanh,
Không ai có thể ngăn lấp hay làm nhiễm ô nó ;
Ở trong “cảnh giới” không sanh
Mọi hình tướng xuất hiện sẽ tan vào Pháp tánh,
Mọi chấp ngãkiêu mạn sẽ tan thành không.

Sự Hiểu Ngộ tối thượng siêu vượt mọi đây và kia.
Hành Động tối thượng bao trùm phương tiện thiện xảo vĩ đại
Mà không bám luyến.
Sự Thành Tựu tối thượngchứng ngộ
Cái vốn sẵn mà không mong cầu.

Ban đầu thiền giả cảm thấy tâm thức mình
Đổ ào ào như một thác nước ;
Ở chặng giữa, nó chảy từ từ
Và êm ả như sông Hằng ;
Cuối cùng, nó là một đại dương bao la
Nơi đó hai Ánh Sáng
Của Con và Mẹ hòa thành một.

Lời Nguyện Đại Ấn
Karmapa Rangjung Dorje
thứ Ba

(1)
Trong Mạn đà la con thấy Guru, Bổn tôn và các Thánh,
Trong mọi lúc mọi phương con thấy chư Phật và chư Bồ tát,
Với thành tâm sâu xa con cầu nguyện tất cả các ngài ;
Ban phước cho những ước nguyện của con.

(2)
Những nghiệp thiện của tâm và thân
Và những công đức của tất cả chúng sanh
Là những dòng suối sạch trong từ Núi Tuyết.
Nguyện chúng tự do đổ về biển cả
Của Bốn Thân của Phật quả bao la.

(3)
Qua mọi đời tương lai của con
Nguyện con không nghe những từ
Như “khổ đau” và “tội lỗi”
Nguyện con luôn luôn
Chia xẻ niềm vui và cái tốt đẹp
Trong đại dương Pháp bao la.

(4)
Nguyện con luôn luôn có rảnh rang, lòng tin, chuyên cầntrí huệ,
Gặp những Guru và nhận những giáo huấn cốt lõi của các ngài.
Trong thực hành nguyện con không bao giờ gặp
Những trở ngại mà luôn luôn
Hưởng thụ Pháp trong những đời tương lai.

(5)
Nguyện Tỉnh Giác phân biện và thiêng liêng
Giải thoát cho con khỏi vô minh ;
Nguyện những Giáo Huấn cốt lõi phá tan mọi nghi ngờ bóng tối.
Qua ánh sáng của thiền định
Nguyện con thấy ra Chân Lý lộ bày,
Và đốt lên ánh sáng của Ba Trí Huệ.

(6)
Nền Tảng là Hai Chân Lý (nhị đế)
Vượt khỏi những kiến chấp có, không ;
Con đường là sự chuẩn bị tâm linh
Xa lìa tăng và giảm ;
Quả là Hai Lợi Lạc, tự giác giác tha
Siêu vượt khỏi sanh tửNiết bàn.
Nguyện con luôn luôn gặp được những giáo pháp
Chân chánh này suốt những đời vị lai.

(7)
Tinh túy Tâm rỗng rang và sáng chói –
Cội nguồn đích thực của Hai trong Một.
Đại Ấn kim cương cắt đứt thường tịnh hóa
Vô minhnhiễm ô, những mê lầm thoáng chốc.
Nguyện con đạt đến Pháp thân vô cấu
Quả của tịnh hóa, thường hiển lộ.

(8)
Cái Thấy của Đại Ấn là không thêm chút gì
Vào bản tánh của Tâm.
Chánh niệm với cái Thấy này, không xao lãngThiền Định.
Thường trực ở trong đó là Hạnh tối thượng.
Nguyện con xác quyết an trụ trong cái Thấy, Thiền Định và Hạnh này,

(9)
Mọi hình tướng chỉ là những biểu hiện của tự tâm
Tâm vốn vô tâm và trống không trong bản chất.
Dù trống không nhưng không đoạn diệt,
biểu lộ tất cả mọi sự.
Nguyện con luôn luôn quán sát Chân lý này
đạt được cái Thấy xác quyết.

(10)
Vì mê, những tự-biểu lộ vốn trống không
Chúng ta lầm cho là những đối tượng có thực và ở bên ngoài ;
Chúng ta chấp lấy tánh tự giác
Mà cho là ngã
Do hai cái chấp (ngã và pháp) này,
Con người lang thang trong sanh tử.
Ôi, nguyện con cắt đứt
Sự mù tối căn bản này.

(11)
“Không có gì thực sự có !”, vì ngay cả
Phật cũng không thấy có gì.
“Tất cả chẳng phải là không !“, vì niết bàn
sanh tử vẫn hiện hữu.
Trung đạo kỳ diệu này của Hai trong Một
Thì không thuận cũng không nghịch.
Ôi nguyện con chứng ngộ tự tâm
Thoát khỏi mọi phân biệt.

(12)
Không ai có thể diễn tả Nó bằng cách nói “Nó là cái này”.
Không ai có thể bác bỏ Nó bằng cách nói “Nó không phải là cái này”.
Cái Không này của thật pháp
Siêu vượt khỏi lãnh vực của thức –
Nguyện con hiểu ngộ nó
Với sự xác tín sâu xa.

(13)
Mê mờ Cái Này, người ta lang thang trong sanh tử ;
Thấy được Cái Này, không có giác ngộ nào khác.
Trong chân lý rốt ráo không có đây và kia.
Nguyện con chứng ngộ pháp tánh
Nghĩa và nguồn của tất cả hiện hữu.

(14)
Hình tướng biểu lộ là tâm ;
Tánh không cũng là tâm.
Giác ngộ là tâm.
Mê mờ cũng là tâm
Khởi diệt của các pháp
Cũng chỉ có trong tâm.
Nguyện con hiểu rằng mọi sự
Duy chỉ là tâm.

(15)
Không nhiễm ô bởi ý định thực hành hay nỗ lực,
Xa lìa khỏi ảnh hưởng thế gian và những phóng dật,
Nguyện con an trụ thong dong trong trạng thái tự nhiên của tâm
Và khéo học điểm vi diệu của tu tâm.

(16)
Mạnh và yếu, tỏ và mờ
Những sóng tư tưởng chìm lặng mất ;
Dòng tâm nhẹ nhàng chảy không hề bị quấy động,
Xa lìa cấu nhiễm của hôn trầm phóng dật.
Nguyện con đi vào đại dương chánh định thường trụ bất động.

(17)
Thường quán sát cái Tâm không thể quán
Thấy rõ ràng Chân lý không thể thấy.
Nguyện đoạn trừ những nghi ngờ thấy có thấy không.
Nguyện con nhìn thấy xác quyết Bản lai diện mục.

(18)
Khi quán sát ngoại vật, con chỉ tìm thấy tâm mình ;
Khi quán sát tâm, con chỉ tìm thấy tánh không ;
Khi quán sát cả tâm và vật,
Con thoát khỏi hai chấp ngã-pháp.
Nguyện con chứng ngộ tự tánh của tâm tỏa sáng.

(19)
Vì Cái Ấy siêu việt tâm thức,
Nó được gọi là Đại Ấn ;
Vì Cái Ấy thoát khỏi những cực đoan,
Nó được gọi là Trung Đạo vĩ đại ;
Vì Cái Ấy bao trùm tất cả,
Nó được gọi là Đại Toàn Thiện ;
Nguyện con luôn hiểu rằng
Biết cái một là biết tất cả.

(20)
Vì không tham luyến, Đại Lạc tương tục sanh khởi.
Thoát khỏi bám chấp, Ánh Sáng thành rạng rỡ
Thấu thoát những ngăn ngại và bóng mờ
Nguyện con hành không ngừng sự thực hành-không-cố gắng này,
Nó là tự do mà tự duy trì, không dính dáng gì đến tư tưởng.

(21)
Tham cầu kinh nghiệm thiền định tự tan biến về phần nó ;
Vọng niệmác niệm tự tịnh hóa trong Pháp Giới ;
Tâm bình thường trong đó không có lấy, bỏ, được mất ;
Nguyện con chứng ngộ Pháp tánh
Vốn xa lìa mọi hý luận, tạo dựng.

(22)
Không biết tự tánh của mình
Là một với tánh của Phật,
Chúng sanh không ngừng lang thang trong sanh tử.
Đối với tất cả chúng sanh trói buộc trong khổ đau phiền não,
Nguyện con luôn luôn xót thương chân thật
Bằng lòng đại bi không thể chịu đựng.

(23)
Khi lòng bi này sanh khởi,
Tánh không vĩ đại cũng sáng rỡ hiện bày.
Con Đường tối thượng sáng tỏ Hai trong Một này,
Nguyện con ngày đêm không lìa bỏ.

(24)
Nguyện con sử dụng nhãn và những thông
Có được từ thiền định,
Để thành tựu những chúng sanh,
phụng sự tất cả chư Phật và cõi của các ngài.
Nguyện con làm tròn đại nguyện của các bậc Giác Ngộ,
Và nhanh chóng đạt đến Phật quả tối thượng và toàn hảo.

(25)
Vĩ đại thay năng lực của mọi công đức trong vũ trụ,
Vĩ đại thay năng lực của lòng bi của chư Phật,
Bồ tát.
Với sự nâng đỡ của thần lực vĩ đại này,
Và được ánh sáng của Pháp hướng dẫn
Nguyện mọi nguyện lành của con và của chúng sanh
Được dễ dàng thành tựu.

Những Cơ Bản
của Thực Hành Đại Ấn
như được ban cho bởi
Lama Kong Ka

Lama Kong Ka nói :

Để thực hành thiền định Đại Ấn này, trước hết người ta cần được nhập môn (quán đảnh) với một vị Thầy đầy đủ phẩm chất. Mục tiêu của nhập môn này là làm cho học trò nhận biết tánh Giác minh-không của tự tâm mình. Chỉ sau khi nhận biết tánh giác vốn sẵn và không có tướng này mà học trò mới có thể thực hành Đại Ấn một cách đúng đắn. Trừ phi nó làm được điều đó, còn không nó cảm thấy khó thoát khỏi vướng mắc nhị nguyên chủ thể-đối tượng và nâng tâm thức nó đến trạng thái không phân biệt và không bám luyến. Để thâm nhập tánh giác minh-không (sáng tỏ và trống không) này, nó cần thường xuyên thực hành những giáo huấn cơ bản sau đây.

Người có thể để tâm nghỉ ngơi trong tánh Tỉnh Giác thuần tịnh của chính mình sẽ có thể làm bất cứ điều gì. Thực hành Đại Ấn, nó cần chấm dứt phân biệt, bỏ những tư tưởng thói quen lấy cái này, bỏ cái kia, và cố gắng đạt đến một trạng thái trong đó Samadhi (chánh định) và những hoạt động là một. Cho đến khi nó làm được điều đó, trước tiên nó cần nhấn mạnh vào thiền định tĩnh lặng, và rồi áp dụng tỉnh giác Đại Ấn vào những hoạt động hàng ngày như một thực tập phụ trợ.

• * *

Có ba cơ bản trong thực hành Đại Ấn : quân bình, thư giãn và tự nhiên.

Quân bình nghĩa là làm quân bình thân, khẩu và tâm. Cách làm quân bình thân theo Đại Ấn là buông lỏng nó, quân bình khẩu là làm chậm hơi thở, và quân bình tâm là không bám níu, nương dựa vào bất cứ cái gì.

Đây là cách tối thượng để điều phục thân, hơi thở (khí) và tâm.

Thư giãn buông lỏng tâm, để cho mọi sự tự diễn tiến, bỏ hết những ý niệmtư tưởng. Khi toàn thân và tâm trở nên buông lỏng, người ta có thể an trụ trong trạng thái tự nhiên mà không nỗ lực. Trạng thái tự nhiên này vốn không phân biệt và không có phóng dật.

Tự nhiên nghĩa là không lấy hay bỏ cái gì cả : nói cách khác, thiền giả hoàn toàn không làm một nỗ lực nhỏ bé nào. Nó để cho giác quan và tâm tự dừng hay tự chuyển động mà không hỗ trợ hay ngăn chặn chúng. Thực hành sự tự nhiên là không nỗ lực và để tự nhiên.

Những điều trên có thể tóm tắt như vầy :
Tinh túy của quân bình là không bám níu.
Tinh túy của thư giãn là không nắm giữ.
Tinh túy của tự nhiên là không nỗ lực.

NĂM THÍ DỤ
VỀ KINH NGHIỆM ĐẠI ẤN


Có năm thí dụ tương tự diễn tả kinh nghiệm đúng đắn về Đại Ấn :
Một thực tại bao la như hư không vô tận.
Tỉnh giác toàn khắp như đại địa.
Một tâm kiên cố vững vàng như ngọn núi.
Tánh Giác tự thấu suốt trong trẻo và sáng chiếu như một ngọn đèn.
Thức thuần tịnh, trong vắt như pha lê và không có tư tưởng phân biệt.
Kinh nghiệm Đại Ấn cũng có thể diễn tả như thế này :
Như một bầu trời không mây, thực tại thì khoáng đạt vô ngại.
Như một đại dương không sóng, tâm thì vững chắc không có tư tưởng phân biệt.
Như một ngọn đèn sáng trong đêm không gió, thức thì trong trẻo, sáng chiếu và vững chắc.

* * *

Để thực hành Đại Ấn, hãy giữ tâm và thân thư giãn nhẹ nhàng không gắng sức ; chấm dứt nghi ngờ lo toan và ở yên quân bình.

Khi thực hành Đại Ấn, hãy đồng hóa mọi cái gì bạn gặp với tánh không vô sanh và ở yên tự nhiên và thư giãn.

* * *

Giữ thân buông lỏng và nhẹ nhàng không phải là hoàn toàn từ bỏ mọi hoạt động, mà những hoạt động cần được tiến theo một cách êm ả, thư giãn và tự nhiên, tự phát.

Giữ thân buông lỏng và nhẹ nhàng không phải là làm cho nó trì độn hay không nhạy cảm, mà người ta cần làm cho sự tỉnh giác sáng chiếu của nó thêm sắc bén.

Đồng hóa mọi sự với tánh không vô sanh có nghĩa là người đã chứng ngộ tánh tỉnh giác của chính mình và có thể duy trì nó, bấy giờ hãy để cho mọi sự mà nó gặp và kinh nghiệm được tự-giải thoát vào trong tánh không.

NĂM CÁCH LẠC KHỎI ĐẠI ẤN

(1) Người ta có thể hiểu lầm tánh không là không có thiện ác nếu họ không biết rằng hiện hữu (sắc) và tánh không là đồng nhất trong bản chất, và điều này bao gồm mọi sự thậtquy luật đạo đức. Hiểu lầm như vậy là lạc khỏi cái Thấy của Đại Ấn. Mặt khác, nếu người chỉ có một kiểu hiểu nào đó về chân lý này nhưng không thể kinh nghiệm nó một cách thân thiết, người đó cũng được xem là lạc khỏi sự thấu hiểu Đại Ấn.

(2) Nếu người ta không biết rằng thực hành Đại Ấn (Con Đường) trong bản chất thì không khác với thành tựu Đại Ấn (Quả) và rằng mọi công đức kỳ diệu đều nằm trong chính sự thực hành, nó có thể nghĩ rằng thực hành có trước và chứng ngộ theo sau, như vậy giác ngộ là một sản phẩm của sự thực hành. Điều này có lẽ đúng trên cấp độ thông tục hàng ngày, nhưng khi ở trong cái Thấy, đó là sự đi lạc.

(3) Nếu người ta có một nỗ lực đích thực trong thực hành Đại Ấn mà không có niềm tin không chuyển dời vào bản thân giáo lý, nó có thể nuôi dưỡng một hy vọng thầm kín rằng một ngày nào đó nó sẽ đạt được một giáo lý cao hơn Đại Ấn. Đây cũng là một dấu hiệu đi lạc khỏi Đại Ấn.

(4) Người không biết rằng trong bản chất sự chữa trị và cái được chữa trị là một, thì có thể bám chấp quan niệm rằng sự thực hành Pháp (sự chữa trị) và những phiền não (cái được chữa trị) là hai cái tuyệt đối khác nhau. Đây cũng là sự lạc khỏi cái Thấy của Đại Ấn.

(5) Trong thực hành Đại Ấn, luôn luôn có một khuynh hướng của thiền giả làm quá nhiều chỉnh trị, sửa sai. Người thấy mình luôn luôn cố gắng sửa chữa những lỗi lầm thì hầu như đã lạc khỏi Con Đường.

BA KINH NGHIỆM CHÁNH CỦA ĐẠI ẤN

Trong tiến trình thực hành thiền định, thiền giả sẽ gặp ba kinh nghiệm : Lạc, Sáng Tỏ và Không phân biệt.

Trong kinh nghiệm Lạc, một số người cảm thấy một sự say sưa lớn lao bao trùm toàn thân và không giảm bớt dù trong những nghịch cảnh, như gặp khí hậu quá lạnh hay quá nóng. Một số cảm thấy cả thân và tâm biến mất, và họ cực kỳ vui sướng, và thường phá lên cười. Một số cảm thấy đầy cảm hứng và hăng say, hay cực kỳ bình an, hài lònghạnh phúc. Sự xuất thần có thể lớn lao và mạnh mẽ đến độ họ trở nên không còn ý thức ngày và đêm.

Trong kinh nghiệm Không phân biệt, một số người cảm thấy mọi sự đều trống không hay thấy bản chất trống không của thế giới ; những người khác kinh nghiệm mọi sự là không có tự tánh, hay cả thân và tâm là không hiện hữu ; trong khi có những người khác lại hiểu thật sự chân lý về tánh không.

Không có kinh nghiệm nào ở trên được xem là hoàn hảotrọn vẹn, và người ta không bao giờ nên bám lấy chúng. Trong ba kinh nghiệm ấy, Không phân biệt (không có tư tưởng) là quan trọng nhất và không đi lầm. Một số kinh nghiệm Sáng Tỏ và Lạc rất có thể dẫn đến lầm lạc và thậm chí có hại.

• * *

Điều sâu xa nhất của mọi giáo huấn truyền miệng về Đại Ấn là :

Buông bỏ mọi bám níu và bản tánh sẽ tức thời hiển lộ.

Cốt lõi của thực hành Đại Ấn gồm hai điều, không nỗ lực và không sửa trị. Tuy nhiên người ta cần biết không sửa trị là gì. Jetsun Milarepa giải thích điều này rất rõ ràng : “Về không sửa trị, người ta cần hiểu ba điều : Nếu những tư tưởng lang thang và những phiền não không được sửa trị, người ta sẽ rơi vào ba cõi thấp. Nếu Lạc, Sáng Tỏ, và Không phân biệt không được sửa trị, người ta sẽ rơi vào ba cõi sanh tử. Chỉ có tự tâm vốn sẵn là không cần sửa trị.”

* * *

Vào mọi lúc trong ngày, trong hay sau thời thiền định, người ta cần cố gắng không để mất bản tánh. Nói cách khác người ta cần cố gắng đem kinh nghiệm thiền định vào những hoạt động hàng ngày của nó.

Thật dễ hiểu là người ta thường bị xao lãng trong công việc hàng ngày, như vậy quên bẵng bản tánh, nhưng hễ cố gắng luôn luôn đem tỉnh giác trở lại, và nếu họ thành công, bản tánh sẽ lập tức hiển lộ.

Người ta cần cố gắng không mất tánh Tỉnh Giác cả ngày lẫn đêm. Thực hành Đại Ấn trong giấc ngủ và trong giấc mộng cũng cực kỳ quan trọng. Người nào không thể làm điều đó một cách thích đáng thì nên tránh mọi hoạt độngthực hành thiền định Đại Ấn trong năm, sáu ngày, rồi nghỉ ngơi trong một ngày trước khi tiếp tục. Người ta không nên chán nản nếu không thể giữ tỉnh giác luôn luôn sống cho suốt một ngày. Nỗ lực liên tụckiên trì là thiết yếu. Người làm được như thế chắc chắn sẽ mở rộng sự tỉnh giácchứng ngộ của mình.

TRAU DỒI ĐẠI ẤN QUA NHỮNG HOÀN CẢNH TRÁI NGHỊCH NHƯ THẾ NÀO

Sau khi đã chứng ngộ bản tánh, người ta cần tiếp tục thực hành cái gọi là ‘sử dụng những thực tập’. Thế nghĩa là người ta cần sử dụng một số hoàn cảnh đặc biệt để tăng thêm chứng ngộ.

(1) Sử dụng xao lãng và những tư tưởng phân biệt để tăng thêm chứng ngộ :

Điều này không có nghĩa là quan sát bản chất những tư tưởng phân biệt, cũng không phải thiền định về tánh không, cũng không chánh niệm về sự xao lãng, mà là giữ gìn ‘tánh giác sáng ngời’ – bản tánh của những tư tưởng phân biệt – một cách sống động linh hoạt. Tánh giác này trong trạng thái tự nhiên của nó chính là Đại Ấn. Nếu ban đầu rất khó khăn, người ta cần cố gắng vượt qua và hòa lẫn những tư tưởng xao lãng vào Con Đường.

(2) Sử dụng phiền não để tăng thêm chứng ngộ :

Đôi khi bạn cần chủ định khơi dậy những phiền não như tham muốn, thù hận, ghen tỵ v.v… rồi quan sát chúng một cách sâu xa. Bạn không nên chạy theo, đoạn trừ hay sửa trị chúng mà chỉ an trụ một cách sáng tỏtỉnh thức trong một trạng thái buông lỏng và tự nhiên. Khi ở trong giấc ngủ sâu bạn hãy hòa lẫn tánh giác với vô thức một cách không ráng sức. Đây là cách tốt nhất để chuyển hóa vô thức thành Ánh Sáng.

(3) Sử dụng những hiện hìnhma quỷ để tăng thêm chứng ngộ :

Bất cứ khi nào hiện hình đáng sợ nào xuất hiện, bạn hãy dùng thiền định Đại Ấn về sự sợ hãi. Chớ có xua tan sợ hãi mà hãy ở trong nó một cách sáng tỏ và buông lỏng. Khi làm thế, nếu hiện hình tan biến, bạn nên kêu gọi lần nữa những hiện hình còn đáng sợ hơn và lại áp dụng Đại Ấn với chúng.

(4) Sử dụng lòng bi và buồn thương để tăng thêm chứng ngộ :

Bởi vì phân tích rốt ráo, đời sống sanh tử chỉ bao gồm khổ đau, một Phật tử cần có lòng đại bi với tất cả chúng sanh. Khi suy ngẫm những khổ đau của con người, một lòng đại bi sẽ sanh khởi, ngay lúc lòng bi sanh khởi, người ta cần thực hành thiền định Đại Ấn về nó. Khi làm như vậy, cả Trí huệ và lòng Bi sẽ tăng trưởng.

(5) Sử dụng bệnh tật để tăng thêm chứng ngộ :

Khi nào bạn bệnh, bạn cần thực hành thiền định Đại Ấn về bệnh tật. Bạn cũng cần quán sát thấu suốt bản tánh của cả người bệnh và của bệnh tật, như thế loại trừ nhị nguyên của chủ thể và đối tượng.

(6) Sử dụng cái chết để tăng thêm chứng ngộ :

Người có thể thực hành Đại Aán như được chỉ dạy sẽ không hoang mang hay sợ hãi khi cái chết xảy ra. Bấy giờ nó có thể nhận thức mà không có sợ hãi mọi thị kiến và kinh nghiệm xảy ra trong tiến trình chết. Thoát khỏi bám luyến và ước mong, bấy giờ nó có thể hợp nhất Tịnh Quang (Ánh Sáng) Mẹ và Tịnh Quang Con thành một toàn thể vĩ đại.

NHỮNG LỖI LẦM TRONG THỰC HÀNH ĐẠI ẤN

(1) Nếu sự thực hành Đại Ấn chỉ nhằm cố gắng ổn định tâm, những hoạt động của tất cả sáu thức sẽ dừng lại hay mờ đi. Đây gọi là một kiểu thực hành ‘đóng băng’ và là một khuynh hướng rất tai hại trong thiền định Đại Ấn cần phải tránh.

(2) Người xao lãng tánh giác sáng tỏ mà chỉ an trụ vào cái Không phân biệt, Không tư tưởng sẽ không thấy hay nghe gì khi giáp mặt với sắc, thanh, hương, vị… Đây là một lỗi lầm vì sẽ trở nên đờ đẫn.

(3) Khi tư tưởng cuối cùng đã qua và tư tưởng tiếp theo chưa đến, khoảnh khắc hiện tại, trực tiếp là một sự rất kỳ diệu nếu người ta có thể ở trong đó ; nhưng nếu nó làm được như vậy mà lại không có tỉnh giác sáng tỏ, thì nó vẫn rơi vào lỗi lầm đờ đẫn.

(4) Người có thể hộ trì tánh giác sáng láng nhưng nghĩ rằng không có gì hơn nữa trong Đại Ấn thì cũng rơi vào lỗi lầm.

(5) Nếu người ta chỉ trau dồi Lạc, Sáng Tỏ và Không phân biệt mà không thực hành ‘quán sát thấu suốt vào tâm’, đó chưa thể được xem là thực hành Đại Ấn đúng đắn.

(6) Người phát triển một sự ghét bỏ đối với những hiện tướng ở bên ngoài thì hầu như đã đi lạc.

(7) Người tập trung vào tỉnh giáchộ trì Tự Tâm minh-không được nói là thực hành đúng đắn. Tuy nhiên, ‘nỗ lực tập trung’ này có một khuynh hướng làm ngăn ngại tính tự nhiêntự do của tâm ; không có tính tự nhiêntự do này sẽ khó khám phá Tâm bao latự tại. Thế nên người ta cần không bao giờ quên thực hành ‘buông lỏng’, ‘thênh thang’ và ‘tự nhiên’.

* * *

Thế thì sao là thực hành Đại Ấn đúng đắn?

Trả lời : Bản thân tâm bình thường (TT. Thal. Ma. Ces. Pa) là sự thực hành đúng đắn. Nghĩa là, để tâm bình thường ở yên trong trạng thái tự nhiên của chính nó. Nếu với tâm này người ta thêm hay bớt cái gì, bấy giờ đó không phải là tâm bình thường mà là cái gọi là ‘tâm đối tượng’ (TT. Yul). Không tạo thêm một ý định hay nỗ lực nhỏ nhất nào thêm cho sự thực hành, nhưng cũng không xao lãng một khoảnh khắc nào, là thực hành tâm tự nhiên một cách đúng đắn. Thế nên, chừng nào bạn vẫn giữ tánh Tỉnh Giác của chính mình, thì bất kể bạn làm gì, bạn vẫn đang thực hành Đại Ấn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15530)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22954)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13996)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12927)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55045)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9110)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14387)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14134)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14161)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13861)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36237)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19837)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18130)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19154)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19084)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20248)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17591)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31477)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15884)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14944)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14644)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46114)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35873)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20997)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21544)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23323)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34302)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19446)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18902)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22885)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20131)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18306)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19794)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19493)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33361)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34406)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54457)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37634)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21096)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17852)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63566)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17325)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49581)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27351)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20237)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22982)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18856)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16302)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17879)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20911)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17321)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14422)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16829)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16344)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15976)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17438)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21928)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15076)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13456)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14333)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15340)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14950)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12648)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13311)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27348)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12465)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13155)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14443)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16182)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12355)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15368)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12842)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12162)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13172)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21584)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11254)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22653)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15010)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14908)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46162)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22395)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14493)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12588)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18870)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14694)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43803)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56909)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13804)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47419)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13614)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14537)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28964)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33238)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38300)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15365)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31170)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12496)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40340)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43348)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46591)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant