Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần I: Giáo lý Đại Ấn

11 Tháng Ba 201400:00(Xem: 7584)
Phần I: Giáo lý Đại Ấn

SÁU YOGA CỦA NAROPA

Nguyễn An Cư và Trùng Hưng Việt dịch

Phần I
Giáo lý Đại Ấn


Bài Ca Đại Ấn của Tilopa


Đại Ấn thì vượt khỏi mọi lời nóibiểu tượng,
Nhưng với con, nhiệt tâm và trung thành,
Naropa, điều này phải được nói ra.

Tánh Không không cần có chỗ trụ,
Đại Ấn nằm yên nơi không có gì cả.
Không khởi một nỗ lực nào,
Mà buông lỏng và tự nhiên,
Thì người ta có thể phá tan ách xiềng
Bèn có ngay giải thoát.

Nếu người ta thấy không có gì cả khi nhìn vào không gian,
Nếu với tâm bấy giờ người ta quan sát tâm,
Người ta phá tiêu những phân biệt chia cách
Phật quả viên thành.

Những đám mây lang thang qua bầu trời
Không gốc rễ, không nhà trú ;
Cũng thế những tư tưởng phân biệt trôi nổi qua tâm.
Một khi thấy được Tự Tâm,
Phân biệt bèn ngừng dứt.

Trong không gian những hình dạng và màu sắc thành hình,
Nhưng không gian không nhuốm màu đen, trắng.
Từ Tự Tâm mọi cái khởi lên
Nhưng tâm không nhiễm ô bởi tốt hay xấu.

Bóng tối bao đời không thể che tối mặt trời;
Những kiếp dằng dặc triền miên
Của sanh tử không thể che dấu
Ánh Sáng rạng rỡ của Tâm.

lời nói được nói ra để giải thích tánh Không,
Tánh Không là như vậy, không thể nào diễn tả.
chúng ta nói, “tâm là ánh sáng chói ngời”
Nó thì vượt khỏi mọi ngôn từ biểu tượng.
Dù tâm vốn là không trong bản chất
Nó bao trùm và chứa đựng mọi sự.

Chớ làm gì cả với thân mà chỉ buông xả,
Đóng kín miệng và giữ im lặng,
Tâm trống không và không nghĩ gì.
Như thân một cây tre rỗng

Để cho thân nghỉ ngơi thoải mái.
Không lấy cũng không bỏ,
Để cho tâm ở yên.
Đại Ấn là một tâm không bám trụ.
Thực hành như vậy, đến lúc con sẽ đạt đến Phật quả.

Thực hành Thần chúBa la mật,
Giáo huấn trong Kinh và Giới luật,
giáo lý từ những Trường phái và Luận điển sẽ không đem lại
Sự chứng ngộ Chân Lý Vốn Sẵn.
Vì nếu tâm còn ham muốn
tìm kiếm mục đích, nó chỉ che mất Ánh Sáng.

Người nào giữ những giới luật Mật thừa
Nhưng lại phân biệt, thì đã phản bội tinh thần Samaya.
Hãy ngừng mọi hoạt động, từ bỏ mọi ham muốn,
Hãy để những tư tưởng khởi lên và diệt mất
Như những làn sóng trong đại dương.
Người không hề làm chướng ngại cái Vô Trụ
Và nguyên lý Vô phân biệt,
Là đang giữ giới Mật thừa.

Người từ bỏ khao khát
Và không bám níu cái này cái nọ,
Bèn tri giác được thật nghĩa
Ban cho trong Kinh điển.

Trong Đại Ấn tất cả tội lỗi nhiễm ô cháy sạch ;
Trong Đại Ấn người ta được giải thoát
Khỏi ngục tù của thế gian này.
Đây là ngọn đuốc tối thượng của Pháp.
Những người không tin nó
Là những người ngu mãi mãi chìm sâu
Trong khốn khổ và muộn phiền.

Nỗ lực cho giải thoát
Người ta cần nương dựa một vị Thầy.
Khi tâm con nhận những ban phước của ngài
Giải thoát bèn ở ngay bên cạnh.

Than ôi, mọi sự trong thế gianvô nghĩa,
Chúng chỉ là những hạt giống của muộn phiền.
Những giáo lý nhỏ đưa đến những hành vi ;
Người ta chỉ nên theo
Những giáo lý Lớn.

Siêu vượt nhị nguyên
Là cái Thấy Tối Cao (Vua).
Chiến thắng những phóng dật
Là sự thực hành Vương Giả.
Con Đường không-làm
Là Đường chư Phật ;
Ai giẵm bước trên Con Đường đó
Thì đạt đến Phật quả.

Thoáng chốc là thế gian này ;
Như những bóng ma, những giấc mộng,
bản chất nào đâu.
Hãy buông bỏ nó, từ bỏ thân thích,
Cắt đứt những buộc ràng của tham lam, thù hận,

Hãy thiền định trong rừng trong núi.
Nếu không cố gắng nào mà thảnh thơi,
Con an trụ trong “trạng thái tự nhiên”,
Thì Đại Ấn sẽ sớm hiện tiền với con
Và chứng Vô Sở Đắc.

Cắt đứt rễ của một cái cây
Thì lá sẽ héo tàn ;
Hãy cắt đứt rễ của tâm con
Thì sanh tử rơi rụng.

Ánh sáng bất kỳ ngọn đèn nào
Xóa tan trong chốc lát
Bóng tối của những kiếp dằng dặc ;
Ánh sáng mạnh mẽ của tâm
Trong một tia chớp đốt cháy
Tấm màn của vô minh xưa cũ.

Người nào bám níu vào tâm thì không thấy
Sự thật của cái vượt khỏi tâm.
Người nào nỗ lực thực hành Pháp
Không tìm ra sự thật của cái vượt khỏi thực hành.
Để biết cái vượt khỏi cả tâm và thực hành,
Người ta cần cắt sạch gốc rễ của tâm
Và mở to mắt trần trụi. Như thế cần xa lìa
Mọi phân biệt và an trụ thảnh thơi.

Người ta không lấy hay bỏ
Mà ở yên tự nhiên,
Vì Đại Ấn thì vượt khỏi

Mọi chấp nhận và từ chối.
thức A Lại Da thì không sanh,
Không ai có thể ngăn lấp hay làm nhiễm ô nó ;
Ở trong “cảnh giới” không sanh
Mọi hình tướng xuất hiện sẽ tan vào Pháp tánh,
Mọi chấp ngãkiêu mạn sẽ tan thành không.

Sự Hiểu Ngộ tối thượng siêu vượt mọi đây và kia.
Hành Động tối thượng bao trùm phương tiện thiện xảo vĩ đại
Mà không bám luyến.
Sự Thành Tựu tối thượngchứng ngộ
Cái vốn sẵn mà không mong cầu.

Ban đầu thiền giả cảm thấy tâm thức mình
Đổ ào ào như một thác nước ;
Ở chặng giữa, nó chảy từ từ
Và êm ả như sông Hằng ;
Cuối cùng, nó là một đại dương bao la
Nơi đó hai Ánh Sáng
Của Con và Mẹ hòa thành một.

Lời Nguyện Đại Ấn
Karmapa Rangjung Dorje
thứ Ba

(1)
Trong Mạn đà la con thấy Guru, Bổn tôn và các Thánh,
Trong mọi lúc mọi phương con thấy chư Phật và chư Bồ tát,
Với thành tâm sâu xa con cầu nguyện tất cả các ngài ;
Ban phước cho những ước nguyện của con.

(2)
Những nghiệp thiện của tâm và thân
Và những công đức của tất cả chúng sanh
Là những dòng suối sạch trong từ Núi Tuyết.
Nguyện chúng tự do đổ về biển cả
Của Bốn Thân của Phật quả bao la.

(3)
Qua mọi đời tương lai của con
Nguyện con không nghe những từ
Như “khổ đau” và “tội lỗi”
Nguyện con luôn luôn
Chia xẻ niềm vui và cái tốt đẹp
Trong đại dương Pháp bao la.

(4)
Nguyện con luôn luôn có rảnh rang, lòng tin, chuyên cầntrí huệ,
Gặp những Guru và nhận những giáo huấn cốt lõi của các ngài.
Trong thực hành nguyện con không bao giờ gặp
Những trở ngại mà luôn luôn
Hưởng thụ Pháp trong những đời tương lai.

(5)
Nguyện Tỉnh Giác phân biện và thiêng liêng
Giải thoát cho con khỏi vô minh ;
Nguyện những Giáo Huấn cốt lõi phá tan mọi nghi ngờ bóng tối.
Qua ánh sáng của thiền định
Nguyện con thấy ra Chân Lý lộ bày,
Và đốt lên ánh sáng của Ba Trí Huệ.

(6)
Nền Tảng là Hai Chân Lý (nhị đế)
Vượt khỏi những kiến chấp có, không ;
Con đường là sự chuẩn bị tâm linh
Xa lìa tăng và giảm ;
Quả là Hai Lợi Lạc, tự giác giác tha
Siêu vượt khỏi sanh tửNiết bàn.
Nguyện con luôn luôn gặp được những giáo pháp
Chân chánh này suốt những đời vị lai.

(7)
Tinh túy Tâm rỗng rang và sáng chói –
Cội nguồn đích thực của Hai trong Một.
Đại Ấn kim cương cắt đứt thường tịnh hóa
Vô minhnhiễm ô, những mê lầm thoáng chốc.
Nguyện con đạt đến Pháp thân vô cấu
Quả của tịnh hóa, thường hiển lộ.

(8)
Cái Thấy của Đại Ấn là không thêm chút gì
Vào bản tánh của Tâm.
Chánh niệm với cái Thấy này, không xao lãngThiền Định.
Thường trực ở trong đó là Hạnh tối thượng.
Nguyện con xác quyết an trụ trong cái Thấy, Thiền Định và Hạnh này,

(9)
Mọi hình tướng chỉ là những biểu hiện của tự tâm
Tâm vốn vô tâm và trống không trong bản chất.
Dù trống không nhưng không đoạn diệt,
biểu lộ tất cả mọi sự.
Nguyện con luôn luôn quán sát Chân lý này
đạt được cái Thấy xác quyết.

(10)
Vì mê, những tự-biểu lộ vốn trống không
Chúng ta lầm cho là những đối tượng có thực và ở bên ngoài ;
Chúng ta chấp lấy tánh tự giác
Mà cho là ngã
Do hai cái chấp (ngã và pháp) này,
Con người lang thang trong sanh tử.
Ôi, nguyện con cắt đứt
Sự mù tối căn bản này.

(11)
“Không có gì thực sự có !”, vì ngay cả
Phật cũng không thấy có gì.
“Tất cả chẳng phải là không !“, vì niết bàn
sanh tử vẫn hiện hữu.
Trung đạo kỳ diệu này của Hai trong Một
Thì không thuận cũng không nghịch.
Ôi nguyện con chứng ngộ tự tâm
Thoát khỏi mọi phân biệt.

(12)
Không ai có thể diễn tả Nó bằng cách nói “Nó là cái này”.
Không ai có thể bác bỏ Nó bằng cách nói “Nó không phải là cái này”.
Cái Không này của thật pháp
Siêu vượt khỏi lãnh vực của thức –
Nguyện con hiểu ngộ nó
Với sự xác tín sâu xa.

(13)
Mê mờ Cái Này, người ta lang thang trong sanh tử ;
Thấy được Cái Này, không có giác ngộ nào khác.
Trong chân lý rốt ráo không có đây và kia.
Nguyện con chứng ngộ pháp tánh
Nghĩa và nguồn của tất cả hiện hữu.

(14)
Hình tướng biểu lộ là tâm ;
Tánh không cũng là tâm.
Giác ngộ là tâm.
Mê mờ cũng là tâm
Khởi diệt của các pháp
Cũng chỉ có trong tâm.
Nguyện con hiểu rằng mọi sự
Duy chỉ là tâm.

(15)
Không nhiễm ô bởi ý định thực hành hay nỗ lực,
Xa lìa khỏi ảnh hưởng thế gian và những phóng dật,
Nguyện con an trụ thong dong trong trạng thái tự nhiên của tâm
Và khéo học điểm vi diệu của tu tâm.

(16)
Mạnh và yếu, tỏ và mờ
Những sóng tư tưởng chìm lặng mất ;
Dòng tâm nhẹ nhàng chảy không hề bị quấy động,
Xa lìa cấu nhiễm của hôn trầm phóng dật.
Nguyện con đi vào đại dương chánh định thường trụ bất động.

(17)
Thường quán sát cái Tâm không thể quán
Thấy rõ ràng Chân lý không thể thấy.
Nguyện đoạn trừ những nghi ngờ thấy có thấy không.
Nguyện con nhìn thấy xác quyết Bản lai diện mục.

(18)
Khi quán sát ngoại vật, con chỉ tìm thấy tâm mình ;
Khi quán sát tâm, con chỉ tìm thấy tánh không ;
Khi quán sát cả tâm và vật,
Con thoát khỏi hai chấp ngã-pháp.
Nguyện con chứng ngộ tự tánh của tâm tỏa sáng.

(19)
Vì Cái Ấy siêu việt tâm thức,
Nó được gọi là Đại Ấn ;
Vì Cái Ấy thoát khỏi những cực đoan,
Nó được gọi là Trung Đạo vĩ đại ;
Vì Cái Ấy bao trùm tất cả,
Nó được gọi là Đại Toàn Thiện ;
Nguyện con luôn hiểu rằng
Biết cái một là biết tất cả.

(20)
Vì không tham luyến, Đại Lạc tương tục sanh khởi.
Thoát khỏi bám chấp, Ánh Sáng thành rạng rỡ
Thấu thoát những ngăn ngại và bóng mờ
Nguyện con hành không ngừng sự thực hành-không-cố gắng này,
Nó là tự do mà tự duy trì, không dính dáng gì đến tư tưởng.

(21)
Tham cầu kinh nghiệm thiền định tự tan biến về phần nó ;
Vọng niệmác niệm tự tịnh hóa trong Pháp Giới ;
Tâm bình thường trong đó không có lấy, bỏ, được mất ;
Nguyện con chứng ngộ Pháp tánh
Vốn xa lìa mọi hý luận, tạo dựng.

(22)
Không biết tự tánh của mình
Là một với tánh của Phật,
Chúng sanh không ngừng lang thang trong sanh tử.
Đối với tất cả chúng sanh trói buộc trong khổ đau phiền não,
Nguyện con luôn luôn xót thương chân thật
Bằng lòng đại bi không thể chịu đựng.

(23)
Khi lòng bi này sanh khởi,
Tánh không vĩ đại cũng sáng rỡ hiện bày.
Con Đường tối thượng sáng tỏ Hai trong Một này,
Nguyện con ngày đêm không lìa bỏ.

(24)
Nguyện con sử dụng nhãn và những thông
Có được từ thiền định,
Để thành tựu những chúng sanh,
phụng sự tất cả chư Phật và cõi của các ngài.
Nguyện con làm tròn đại nguyện của các bậc Giác Ngộ,
Và nhanh chóng đạt đến Phật quả tối thượng và toàn hảo.

(25)
Vĩ đại thay năng lực của mọi công đức trong vũ trụ,
Vĩ đại thay năng lực của lòng bi của chư Phật,
Bồ tát.
Với sự nâng đỡ của thần lực vĩ đại này,
Và được ánh sáng của Pháp hướng dẫn
Nguyện mọi nguyện lành của con và của chúng sanh
Được dễ dàng thành tựu.

Những Cơ Bản
của Thực Hành Đại Ấn
như được ban cho bởi
Lama Kong Ka

Lama Kong Ka nói :

Để thực hành thiền định Đại Ấn này, trước hết người ta cần được nhập môn (quán đảnh) với một vị Thầy đầy đủ phẩm chất. Mục tiêu của nhập môn này là làm cho học trò nhận biết tánh Giác minh-không của tự tâm mình. Chỉ sau khi nhận biết tánh giác vốn sẵn và không có tướng này mà học trò mới có thể thực hành Đại Ấn một cách đúng đắn. Trừ phi nó làm được điều đó, còn không nó cảm thấy khó thoát khỏi vướng mắc nhị nguyên chủ thể-đối tượng và nâng tâm thức nó đến trạng thái không phân biệt và không bám luyến. Để thâm nhập tánh giác minh-không (sáng tỏ và trống không) này, nó cần thường xuyên thực hành những giáo huấn cơ bản sau đây.

Người có thể để tâm nghỉ ngơi trong tánh Tỉnh Giác thuần tịnh của chính mình sẽ có thể làm bất cứ điều gì. Thực hành Đại Ấn, nó cần chấm dứt phân biệt, bỏ những tư tưởng thói quen lấy cái này, bỏ cái kia, và cố gắng đạt đến một trạng thái trong đó Samadhi (chánh định) và những hoạt động là một. Cho đến khi nó làm được điều đó, trước tiên nó cần nhấn mạnh vào thiền định tĩnh lặng, và rồi áp dụng tỉnh giác Đại Ấn vào những hoạt động hàng ngày như một thực tập phụ trợ.

• * *

Có ba cơ bản trong thực hành Đại Ấn : quân bình, thư giãn và tự nhiên.

Quân bình nghĩa là làm quân bình thân, khẩu và tâm. Cách làm quân bình thân theo Đại Ấn là buông lỏng nó, quân bình khẩu là làm chậm hơi thở, và quân bình tâm là không bám níu, nương dựa vào bất cứ cái gì.

Đây là cách tối thượng để điều phục thân, hơi thở (khí) và tâm.

Thư giãn buông lỏng tâm, để cho mọi sự tự diễn tiến, bỏ hết những ý niệmtư tưởng. Khi toàn thân và tâm trở nên buông lỏng, người ta có thể an trụ trong trạng thái tự nhiên mà không nỗ lực. Trạng thái tự nhiên này vốn không phân biệt và không có phóng dật.

Tự nhiên nghĩa là không lấy hay bỏ cái gì cả : nói cách khác, thiền giả hoàn toàn không làm một nỗ lực nhỏ bé nào. Nó để cho giác quan và tâm tự dừng hay tự chuyển động mà không hỗ trợ hay ngăn chặn chúng. Thực hành sự tự nhiên là không nỗ lực và để tự nhiên.

Những điều trên có thể tóm tắt như vầy :
Tinh túy của quân bình là không bám níu.
Tinh túy của thư giãn là không nắm giữ.
Tinh túy của tự nhiên là không nỗ lực.

NĂM THÍ DỤ
VỀ KINH NGHIỆM ĐẠI ẤN


Có năm thí dụ tương tự diễn tả kinh nghiệm đúng đắn về Đại Ấn :
Một thực tại bao la như hư không vô tận.
Tỉnh giác toàn khắp như đại địa.
Một tâm kiên cố vững vàng như ngọn núi.
Tánh Giác tự thấu suốt trong trẻo và sáng chiếu như một ngọn đèn.
Thức thuần tịnh, trong vắt như pha lê và không có tư tưởng phân biệt.
Kinh nghiệm Đại Ấn cũng có thể diễn tả như thế này :
Như một bầu trời không mây, thực tại thì khoáng đạt vô ngại.
Như một đại dương không sóng, tâm thì vững chắc không có tư tưởng phân biệt.
Như một ngọn đèn sáng trong đêm không gió, thức thì trong trẻo, sáng chiếu và vững chắc.

* * *

Để thực hành Đại Ấn, hãy giữ tâm và thân thư giãn nhẹ nhàng không gắng sức ; chấm dứt nghi ngờ lo toan và ở yên quân bình.

Khi thực hành Đại Ấn, hãy đồng hóa mọi cái gì bạn gặp với tánh không vô sanh và ở yên tự nhiên và thư giãn.

* * *

Giữ thân buông lỏng và nhẹ nhàng không phải là hoàn toàn từ bỏ mọi hoạt động, mà những hoạt động cần được tiến theo một cách êm ả, thư giãn và tự nhiên, tự phát.

Giữ thân buông lỏng và nhẹ nhàng không phải là làm cho nó trì độn hay không nhạy cảm, mà người ta cần làm cho sự tỉnh giác sáng chiếu của nó thêm sắc bén.

Đồng hóa mọi sự với tánh không vô sanh có nghĩa là người đã chứng ngộ tánh tỉnh giác của chính mình và có thể duy trì nó, bấy giờ hãy để cho mọi sự mà nó gặp và kinh nghiệm được tự-giải thoát vào trong tánh không.

NĂM CÁCH LẠC KHỎI ĐẠI ẤN

(1) Người ta có thể hiểu lầm tánh không là không có thiện ác nếu họ không biết rằng hiện hữu (sắc) và tánh không là đồng nhất trong bản chất, và điều này bao gồm mọi sự thậtquy luật đạo đức. Hiểu lầm như vậy là lạc khỏi cái Thấy của Đại Ấn. Mặt khác, nếu người chỉ có một kiểu hiểu nào đó về chân lý này nhưng không thể kinh nghiệm nó một cách thân thiết, người đó cũng được xem là lạc khỏi sự thấu hiểu Đại Ấn.

(2) Nếu người ta không biết rằng thực hành Đại Ấn (Con Đường) trong bản chất thì không khác với thành tựu Đại Ấn (Quả) và rằng mọi công đức kỳ diệu đều nằm trong chính sự thực hành, nó có thể nghĩ rằng thực hành có trước và chứng ngộ theo sau, như vậy giác ngộ là một sản phẩm của sự thực hành. Điều này có lẽ đúng trên cấp độ thông tục hàng ngày, nhưng khi ở trong cái Thấy, đó là sự đi lạc.

(3) Nếu người ta có một nỗ lực đích thực trong thực hành Đại Ấn mà không có niềm tin không chuyển dời vào bản thân giáo lý, nó có thể nuôi dưỡng một hy vọng thầm kín rằng một ngày nào đó nó sẽ đạt được một giáo lý cao hơn Đại Ấn. Đây cũng là một dấu hiệu đi lạc khỏi Đại Ấn.

(4) Người không biết rằng trong bản chất sự chữa trị và cái được chữa trị là một, thì có thể bám chấp quan niệm rằng sự thực hành Pháp (sự chữa trị) và những phiền não (cái được chữa trị) là hai cái tuyệt đối khác nhau. Đây cũng là sự lạc khỏi cái Thấy của Đại Ấn.

(5) Trong thực hành Đại Ấn, luôn luôn có một khuynh hướng của thiền giả làm quá nhiều chỉnh trị, sửa sai. Người thấy mình luôn luôn cố gắng sửa chữa những lỗi lầm thì hầu như đã lạc khỏi Con Đường.

BA KINH NGHIỆM CHÁNH CỦA ĐẠI ẤN

Trong tiến trình thực hành thiền định, thiền giả sẽ gặp ba kinh nghiệm : Lạc, Sáng Tỏ và Không phân biệt.

Trong kinh nghiệm Lạc, một số người cảm thấy một sự say sưa lớn lao bao trùm toàn thân và không giảm bớt dù trong những nghịch cảnh, như gặp khí hậu quá lạnh hay quá nóng. Một số cảm thấy cả thân và tâm biến mất, và họ cực kỳ vui sướng, và thường phá lên cười. Một số cảm thấy đầy cảm hứng và hăng say, hay cực kỳ bình an, hài lònghạnh phúc. Sự xuất thần có thể lớn lao và mạnh mẽ đến độ họ trở nên không còn ý thức ngày và đêm.

Trong kinh nghiệm Không phân biệt, một số người cảm thấy mọi sự đều trống không hay thấy bản chất trống không của thế giới ; những người khác kinh nghiệm mọi sự là không có tự tánh, hay cả thân và tâm là không hiện hữu ; trong khi có những người khác lại hiểu thật sự chân lý về tánh không.

Không có kinh nghiệm nào ở trên được xem là hoàn hảotrọn vẹn, và người ta không bao giờ nên bám lấy chúng. Trong ba kinh nghiệm ấy, Không phân biệt (không có tư tưởng) là quan trọng nhất và không đi lầm. Một số kinh nghiệm Sáng Tỏ và Lạc rất có thể dẫn đến lầm lạc và thậm chí có hại.

• * *

Điều sâu xa nhất của mọi giáo huấn truyền miệng về Đại Ấn là :

Buông bỏ mọi bám níu và bản tánh sẽ tức thời hiển lộ.

Cốt lõi của thực hành Đại Ấn gồm hai điều, không nỗ lực và không sửa trị. Tuy nhiên người ta cần biết không sửa trị là gì. Jetsun Milarepa giải thích điều này rất rõ ràng : “Về không sửa trị, người ta cần hiểu ba điều : Nếu những tư tưởng lang thang và những phiền não không được sửa trị, người ta sẽ rơi vào ba cõi thấp. Nếu Lạc, Sáng Tỏ, và Không phân biệt không được sửa trị, người ta sẽ rơi vào ba cõi sanh tử. Chỉ có tự tâm vốn sẵn là không cần sửa trị.”

* * *

Vào mọi lúc trong ngày, trong hay sau thời thiền định, người ta cần cố gắng không để mất bản tánh. Nói cách khác người ta cần cố gắng đem kinh nghiệm thiền định vào những hoạt động hàng ngày của nó.

Thật dễ hiểu là người ta thường bị xao lãng trong công việc hàng ngày, như vậy quên bẵng bản tánh, nhưng hễ cố gắng luôn luôn đem tỉnh giác trở lại, và nếu họ thành công, bản tánh sẽ lập tức hiển lộ.

Người ta cần cố gắng không mất tánh Tỉnh Giác cả ngày lẫn đêm. Thực hành Đại Ấn trong giấc ngủ và trong giấc mộng cũng cực kỳ quan trọng. Người nào không thể làm điều đó một cách thích đáng thì nên tránh mọi hoạt độngthực hành thiền định Đại Ấn trong năm, sáu ngày, rồi nghỉ ngơi trong một ngày trước khi tiếp tục. Người ta không nên chán nản nếu không thể giữ tỉnh giác luôn luôn sống cho suốt một ngày. Nỗ lực liên tụckiên trì là thiết yếu. Người làm được như thế chắc chắn sẽ mở rộng sự tỉnh giácchứng ngộ của mình.

TRAU DỒI ĐẠI ẤN QUA NHỮNG HOÀN CẢNH TRÁI NGHỊCH NHƯ THẾ NÀO

Sau khi đã chứng ngộ bản tánh, người ta cần tiếp tục thực hành cái gọi là ‘sử dụng những thực tập’. Thế nghĩa là người ta cần sử dụng một số hoàn cảnh đặc biệt để tăng thêm chứng ngộ.

(1) Sử dụng xao lãng và những tư tưởng phân biệt để tăng thêm chứng ngộ :

Điều này không có nghĩa là quan sát bản chất những tư tưởng phân biệt, cũng không phải thiền định về tánh không, cũng không chánh niệm về sự xao lãng, mà là giữ gìn ‘tánh giác sáng ngời’ – bản tánh của những tư tưởng phân biệt – một cách sống động linh hoạt. Tánh giác này trong trạng thái tự nhiên của nó chính là Đại Ấn. Nếu ban đầu rất khó khăn, người ta cần cố gắng vượt qua và hòa lẫn những tư tưởng xao lãng vào Con Đường.

(2) Sử dụng phiền não để tăng thêm chứng ngộ :

Đôi khi bạn cần chủ định khơi dậy những phiền não như tham muốn, thù hận, ghen tỵ v.v… rồi quan sát chúng một cách sâu xa. Bạn không nên chạy theo, đoạn trừ hay sửa trị chúng mà chỉ an trụ một cách sáng tỏtỉnh thức trong một trạng thái buông lỏng và tự nhiên. Khi ở trong giấc ngủ sâu bạn hãy hòa lẫn tánh giác với vô thức một cách không ráng sức. Đây là cách tốt nhất để chuyển hóa vô thức thành Ánh Sáng.

(3) Sử dụng những hiện hìnhma quỷ để tăng thêm chứng ngộ :

Bất cứ khi nào hiện hình đáng sợ nào xuất hiện, bạn hãy dùng thiền định Đại Ấn về sự sợ hãi. Chớ có xua tan sợ hãi mà hãy ở trong nó một cách sáng tỏ và buông lỏng. Khi làm thế, nếu hiện hình tan biến, bạn nên kêu gọi lần nữa những hiện hình còn đáng sợ hơn và lại áp dụng Đại Ấn với chúng.

(4) Sử dụng lòng bi và buồn thương để tăng thêm chứng ngộ :

Bởi vì phân tích rốt ráo, đời sống sanh tử chỉ bao gồm khổ đau, một Phật tử cần có lòng đại bi với tất cả chúng sanh. Khi suy ngẫm những khổ đau của con người, một lòng đại bi sẽ sanh khởi, ngay lúc lòng bi sanh khởi, người ta cần thực hành thiền định Đại Ấn về nó. Khi làm như vậy, cả Trí huệ và lòng Bi sẽ tăng trưởng.

(5) Sử dụng bệnh tật để tăng thêm chứng ngộ :

Khi nào bạn bệnh, bạn cần thực hành thiền định Đại Ấn về bệnh tật. Bạn cũng cần quán sát thấu suốt bản tánh của cả người bệnh và của bệnh tật, như thế loại trừ nhị nguyên của chủ thể và đối tượng.

(6) Sử dụng cái chết để tăng thêm chứng ngộ :

Người có thể thực hành Đại Aán như được chỉ dạy sẽ không hoang mang hay sợ hãi khi cái chết xảy ra. Bấy giờ nó có thể nhận thức mà không có sợ hãi mọi thị kiến và kinh nghiệm xảy ra trong tiến trình chết. Thoát khỏi bám luyến và ước mong, bấy giờ nó có thể hợp nhất Tịnh Quang (Ánh Sáng) Mẹ và Tịnh Quang Con thành một toàn thể vĩ đại.

NHỮNG LỖI LẦM TRONG THỰC HÀNH ĐẠI ẤN

(1) Nếu sự thực hành Đại Ấn chỉ nhằm cố gắng ổn định tâm, những hoạt động của tất cả sáu thức sẽ dừng lại hay mờ đi. Đây gọi là một kiểu thực hành ‘đóng băng’ và là một khuynh hướng rất tai hại trong thiền định Đại Ấn cần phải tránh.

(2) Người xao lãng tánh giác sáng tỏ mà chỉ an trụ vào cái Không phân biệt, Không tư tưởng sẽ không thấy hay nghe gì khi giáp mặt với sắc, thanh, hương, vị… Đây là một lỗi lầm vì sẽ trở nên đờ đẫn.

(3) Khi tư tưởng cuối cùng đã qua và tư tưởng tiếp theo chưa đến, khoảnh khắc hiện tại, trực tiếp là một sự rất kỳ diệu nếu người ta có thể ở trong đó ; nhưng nếu nó làm được như vậy mà lại không có tỉnh giác sáng tỏ, thì nó vẫn rơi vào lỗi lầm đờ đẫn.

(4) Người có thể hộ trì tánh giác sáng láng nhưng nghĩ rằng không có gì hơn nữa trong Đại Ấn thì cũng rơi vào lỗi lầm.

(5) Nếu người ta chỉ trau dồi Lạc, Sáng Tỏ và Không phân biệt mà không thực hành ‘quán sát thấu suốt vào tâm’, đó chưa thể được xem là thực hành Đại Ấn đúng đắn.

(6) Người phát triển một sự ghét bỏ đối với những hiện tướng ở bên ngoài thì hầu như đã đi lạc.

(7) Người tập trung vào tỉnh giáchộ trì Tự Tâm minh-không được nói là thực hành đúng đắn. Tuy nhiên, ‘nỗ lực tập trung’ này có một khuynh hướng làm ngăn ngại tính tự nhiêntự do của tâm ; không có tính tự nhiêntự do này sẽ khó khám phá Tâm bao latự tại. Thế nên người ta cần không bao giờ quên thực hành ‘buông lỏng’, ‘thênh thang’ và ‘tự nhiên’.

* * *

Thế thì sao là thực hành Đại Ấn đúng đắn?

Trả lời : Bản thân tâm bình thường (TT. Thal. Ma. Ces. Pa) là sự thực hành đúng đắn. Nghĩa là, để tâm bình thường ở yên trong trạng thái tự nhiên của chính nó. Nếu với tâm này người ta thêm hay bớt cái gì, bấy giờ đó không phải là tâm bình thường mà là cái gọi là ‘tâm đối tượng’ (TT. Yul). Không tạo thêm một ý định hay nỗ lực nhỏ nhất nào thêm cho sự thực hành, nhưng cũng không xao lãng một khoảnh khắc nào, là thực hành tâm tự nhiên một cách đúng đắn. Thế nên, chừng nào bạn vẫn giữ tánh Tỉnh Giác của chính mình, thì bất kể bạn làm gì, bạn vẫn đang thực hành Đại Ấn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9800)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9966)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9943)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20533)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10367)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9972)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10356)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9945)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34440)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9642)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8720)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9293)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11111)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8538)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9812)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9188)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20476)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19216)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8767)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8878)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12123)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9613)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23017)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9013)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9277)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9980)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9913)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10635)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10939)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12503)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9358)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9223)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9330)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10463)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22021)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22273)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16628)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9557)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10220)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8411)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8297)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9460)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8847)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8640)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12277)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9143)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9619)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8627)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9477)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8638)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8375)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8492)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10196)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23649)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9590)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9427)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9018)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8365)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8545)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7896)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7988)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8814)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8949)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10082)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8658)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8640)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30432)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30111)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24194)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9280)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9650)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9524)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9519)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7866)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9086)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28244)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23744)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12257)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8895)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9669)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9358)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9664)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30927)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27138)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32746)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34030)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27778)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10588)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12481)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58747)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10674)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9414)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9575)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13960)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14230)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10778)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28191)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23300)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant