Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần III: Những Bản Văn về Sáu Yoga của Naropa

11 Tháng Ba 201400:00(Xem: 9315)
Phần III: Những Bản Văn về Sáu Yoga của Naropa

SÁU YOGA CỦA NAROPA

Nguyễn An Cư và Trùng Hưng Việt dịch

Phần III
NHỮNG BẢN VĂN VỀ SÁU YOGA CỦA NAROPA



Giáo Huấn Khẩu Truyền về Sáu Yoga
Đại Thành Tựu giả Ấn Độ Tilopa


Kính lễ Chakrasamvara Vinh Quang.
Hãy tận dụng nhân quả nghiệp báo
Và chiết suất được tinh túy của tiềm năng làm người.

YOGA NỘI NHIỆT

Thân thiền giả, một nhóm những kinh mạch
năng lực,
Thô và tế, có những trường năng lượng,
Cần được đưa vào kiểm soát, sử dụng.
Phương pháp bắt đầu với những thực tập thân thể.
Những sinh khí được hút vào,
Làm đầy, giữ lại và hòa tan.
Có hai kinh mạch hai bên,
Kinh mạch trung ương avadhuti,
Và bốn luân xa (chakra)
Những ngọn lửa khởi từ nội nhiệt tumo(1) ở rốn.
Một dòng suối cam lồ giọt xuống
Từ chữ HAM ở đỉnh đầu,
Khơi dẫn bốn cái lạc.
Có bốn kết quả, như quả tương tự với nhân,
Và sáu thực tập bành trướng chúng.
Đây là giáo huấn của Charyapa.

YOGA THÂN HUYỄN

Mọi vật sống độngvô tri của ba cõi
Đều như những thí dụ về ảo ảnh, giấc mộng vân vân.
Hãy thấy điều này trong mọi lúc, cả khi chuyển động và dừng lặng.
Hãy quan sát một bổn tôn ảo ảnh phản chiếu trong một tấm gương ;
Hãy lấy một hình vẽ Vajrasattva, và xem xét
Hình ảnh phản chiếu xuất hiện sống động như thế nào.
Như hình tướng ấy là một hình tướng ảo ảnh,
Với tất cả mọi sự vật cũng thế.
Như vậy thiền giả quán sát mười hai sự so sánh
Và thấy sự thật mọi sự là ảo ảnh như thế nào.
Đây là giáo huấn của Nagarjuna (Long Thọ).
Hãy biết những giấc mộng là những giấc mộng,
thường trực thiền định về ý nghĩa sâu xa của chúng.
Hãy quán tưởng những chủng tử tự của năm đại
Với hạt, nada và vân vân.
Người ta tri giác chư Phật và những cõi Phật.
Thời gian ngủ là thời gian cho phương pháp
Đem đến sự thực hiện đại lạc.
Đây là giáo huấn của Lawapa.

YOGA TỊNH QUANG

Thiền giả làm việc với kinh mạch trung ương
Để tâm vào kinh mạch trung ương
Và tập trung vào hạt ở trái tim.
Những thị kiến sanh khởi, như những ánh sáng, tia sáng, cầu vồng,
Ánh sáng mặt trời và ánh sáng mặt trăng khi mọc,
Mặt trời, mặt trăng, và rồi
Những hình tướng xuất hiện của những bổn tôn và hình sắc.
Trong cách này vô số thế giới được tịnh hóa.
Con đường yoga kỳ diệu nhất này
giáo huấn của Nagarjuna.

YOGA TRUNG ẤM

Thiền giả vào lúc chết rút những năng lực
Của những giác quan và những nguyên tố
Và hướng những năng lực của mặt trờimặt trăng đến trái tim,
Làm khởi lên vô số samadhi (đại định).
Thức thường tham dự với những đối tượng bên ngoài,
Nhưng nó nhìn chúng như những vật của một giấc mộng.
Những hình tướng xuất hiện của cái chết kéo dài bảy ngày.
Hay nhiều nhất là bảy lần bảy,
Và rồi người ta phải nhận tái sanh.
Vào lúc đó hãy thiền định yoga bổn tôn
Hay chỉ đơn giản an trụ trong tánh không.
Sau đó khi thời gian tái sanh đến,
Hãy dùng yoga bổn tôn của một vị thầy mật thừa
thiền định về guru yoga với bất cứ cái gì xuất hiện.
Làm như vậy sẽ khiến kinh nghiệm trung ấm dừng lại.
Đây là giáo huấn của Sukhasiddhi.

NHỮNG YOGA CHUYỂN DI THỨC VÀ PHÓNG XUẤT MẠNH MẼ

Nhờ những yoga này, vào thời gian chuyển di
Và cũng nhờ phóng xuất mạnh mẽ vào thân khác,
Thiền giả có thể sử dụng chủng tử tự của bổn tôn
thực hành yoga bổn tôn phối hợp với
Hơi thở ra và vào, dài và ngắn
Và phóng xuất thức đến bất kỳ nơi đâu mình muốn.
Những người muốn chuyển di đến một cõi cao
Có thể chuyên tâm vào hai chữ YAM, cũng như
HI-KA, và HUM-HUM.
Thức được phóng đến trái tim
Của bổn tôn không tách lìa khỏi guru,
Và từ đó đến bất cứ cõi Phật nào mong muốn.
Đây cũng là giáo huấn của Sukhasiddhi.

Lời kết : Được viết ra từ lời dịch của đại thành tựu giả Tilopa ; được dịch bởi Pandit trí giả Ấn Độ Naropa và Marpa Lodrakpa Chokyi Lotru ở thánh địa Kash-miri, tức núi Pushpahara.
 

Những Câu Kệ Kim Cương của
Truyền Thống Thì Thầm nơi Tai
Đại Thành Tựu giả Ấn Độ Naropa

Kính lễ Phật Vajradhara siêu việtviên thành.

Eh-ma-hoh !
Giáo lý toàn hảo tối thượng của tất cả chư Phật,
Con đường của hạt tối thượng của trí huệ chiến thắng,
Là một thực tại vượt ngoài ngôn ngữ.
Nhưng một lần tôi nghe những lời này của con đường vĩ đại vô sanh :
“Ta, Vajradhara, sẽ nói về nghĩa tốt lành ấy.
Hãy kính lễ, hỡi Jnana Dakini, và lắng nghe.“

NHỮNG TƯ CÁCH CỦA VỊ THẦY VÀ HỌC TRÒ
Vị thầy cao cả là người đã
Uống say với kinh nghiệm của Giới, Định, Huệ.
Học trò đủ tư cách là người có
Tin tưởng, nghị lực, thông minh và lòng bi,
Nhớ nghĩ về những bất toàn của cuộc đời thế tục
Và đã vượt khỏi mọi lưu tâm đến thế gian.

QUÁN ĐẢNH NHẬP MÔN VÀ NHỮNG YOGA GIAI ĐOẠN PHÁT SANH
Lúc bắt đầu người ta cần nương dựa vào truyền thống mật thừa Chakrasamvara
Bằng cách có bốn quán đảnh để vào mạn đà la sáu mươi hai vị thần bổn tôn ;
Có lẽ cũng nhận bốn quán đảnh của mười lăm dakini.
Hãy làm trưởng thành tâm theo cách này, và thực hành trí huệphương tiện phối hợp.
Hãy nỗ lực hành bảy yoga, chẳng hạn những cái giống như vua và tể tướng ;
hòa hợp tất cả thành một vị, hãy chuyên tâm vào giới luật Samaya.

YOGA NỘI NHIỆT
Cột trụ của con đường là sự tự cháy bừng của nội nhiệt lạc phúc.
Với tư thế thân theo bảy điểm, hãy thiền định
Về một hình tướng của bổn tôn, thân thể như một vỏ rỗng.
Hãy hình dung kinh mạch trung ương avadhuti, những kinh mạch hai bên lalana và rasana,
Và bốn luân xa, âm AH và HAM,
Sự bừng cháy (của nội nhiệt) và nhỏ giọt (của các hạt).
Và sự đi vào (kinh mạch trung ương)
Của những năng lực sinh khí đi xuống
Hãy thiền định về trì tụng kim cương với năm năng lực gốc.
Hãy giữ lại và ổn định (những năng lực), và khởi dẫn kinh nghiệm về trí huệ.
Hãy hòa nhập bốn lạc và hòa lẫn những năng lực gốc và những hạt.
Năng lực và thức đi vào kinh mạch trung ương ;
Tâm vượt khỏi ý niệm sanh khởi, những xúc cảm méo mó được tự-bình lặng,
Và một dòng không dứt của lạc phúc và sáng chói tuôn chảy.

YOGA THÂN HUYỄN
Hãy thấy bản tánh của Pháp thân và trầm mình trong Pháp thân.
Để tăng cường tỉnh giác này, hãy thiền định về bản chất như huyễn, tự-giải thoát của tám quan tâm thế gian.
Hãy thấy mọi sự trong sanh tửniết bàn là những ảo tưởng ;
Chúng là như huyễn, như một cầu vồng và như trăng trong nước.
Những hiện tượng tác động này xuất hiện với tâm :
Nếu chúng là thật và tĩnh đọng như chúng có vẻ thế, thì làm sao thay đổi có thể xảy ra ?
Nhưng bởi vì chúng là những hình tướng hư vọng, trong bản chất chúng không thật.
Hãy thấy mọi hình tướng là những xuất hiện trống không, như tiếng dội trong hang.
Bám nắm vào nhị nguyên lắng xuống, và người ta thoát khỏi thích và ghét.
Với căn cứ là quán chiếu này, mọi hành động trở nên thoát khỏi bám chấp
Và người ta tiến đến thành tựu thân cầu vồng và Pháp thân.

YOGA GIẤC MỘNG
Vào ban đêm, hãy cố gắng cầu khẩn sự tự-tịnh hóa của những giấc mộng mê mờ ;
Hãy giữ ba cửa với cái móc của chánh niệm.
Giữ lại, tịnh hóa, tăng cườngchuyển hóa những nội dung của những giấc mộng,
loại bỏ mọi chướng ngại cho sự thực hành.
Người ta cỡi trên mặt trờimặt trăng, du hành đến mọi cõi Phật,
Và nhìn xem ! Mọi ảo tưởng “tốt” và ”xấu” đều trở thành tự-giải thoát.

YOGA TỊNH QUANG
Cuối cùng để chiếu rạng địa thứ mười và hoàn thành mục tiêu vĩ đại,
Và nhất là để tách lìa tịnh quang khỏi bóng tối vô minh,
Hãy trau dồi những phương pháp yoga và đi vào bốn Định (samadhi) ;
Và hãy nhìn ! Hạt thiêng liêng không bị ba độc giam giữ nữa.
Người ta giữ gìn khoảng giữa của giấc ngủ và giấc mộng với những ý tưởng,
Và hòa nhập bốn giai đoạn và hòa lẫn sự thực hành của ngày và đêm.
Một kinh nghiệm không ngăn ngại và không thể diễn tả về tịnh quang sanh khởi,
Nó là trí huệ bổn nguyên thoát khỏi bám nắm vào sáng tỏtánh không.
Và nhìn thấy bản thân Đại Ấn.

YOGA CHUYỂN DI THỨC
Trong phương pháp làm ra vàng của chuyển di thức,
Nhờ đó Phật quả được thành tựu mà không cần thiền định,
Hãy chờ đợi những dấu hiệu của cái chết xảy ra, và rồi
Để tâm trong một trạng thái hoan hỷ không bám nắm.
Hãy đóng chín cửa thoát ra, áp dụng những căn bản mật thừa,
trang hoàng sự thực hành với những nguyện vọng tâm linh.
Năng lực và tâm được hòa trộn với HUM trong kinh mạch trung ương,
Thần chú KSHA sáng chói ; (tâm) được phóng ra khỏi thân
Qua con đường của cổng brama, và được phóng
Đến Pháp thân của guru và rồi đến một cõi Phật.

YOGA CỦA TRAU DỒI CÁI THẤY
Để làm bật cháy sự rạng rỡ của trí huệ Đại Ấn,
Hãy giữ ba cửa bất động và siết chặt năm giác quan.
Thấy mà không thấy gì ; hãy nhìn thẳng vào bản tánh của tâm.
Để tâm vào chánh vị của nó, không tạo tác và không một đối tượng.
Không nhìn ra ngoài, hãy chứng ngộ bản tánh của tâm,
Từ nền tảng không tạo tác của nó, từ sự bắt đầu tự nhiên.
Hãy đặt nó trong truyền thống vĩ đại của người bình thường ;
Không chuyển động, thấy ra bầu trời bao la
Của Pháp thân bất sanh bất diệt.
Dù nhiều hiện tượng xuất hiện như những đối tượng bên ngoài,
Chúng chỉ là tâm của chính mình và không có hiện hữu nào khác,
Nào kể gì những méo mó, ý niệm, và bám nắm nhị nguyênbiểu lộ.
Và hãy nhìn xem ! Những thứ đó tan mất theo dòng của chúng.
Tinh túy của tâm là vô sanh, tánh không, Pháp thân.
Những hiện diện sáng chói không dứt sanh khởiHóa thân.
Đại lạc vô trụ của hợp nhất là Báo thân.
Đây là nghĩa của Đại Ấn hay (tiếng Tây Tạng) chak-gya chenpo,
Ở đây chak ám chỉ mọi sự được nhìn với trí huệ bất nhị ;
Gya ám chỉ lạc của sự cởi thoát những nút thắt của tâm thái sanh tử ;
Và chenpo có nghĩa rằng nó là Pháp thân tự-giải thoát
Sanh từ ngọn đèn của hợp nhất hoàn hảo, và không từ cái gì khác.
Hai che chướng là tự-giải thoát ; chủ thể và đối tượng không còn phân cực.
Tâm sanh diệt, và mọi sự vật trong sanh tửniết bàn, tan mất.
Phạm vi của hiểu biết là tự-tròn đầy với mọi đức tính
Và người ta trở thành một vị Phật tự-sanh, vượt khỏi tư tưởnglời nói.

NHỮNG YOGA TRUNG ẤM
Nghĩa sâu xa của đi vào trung ấm được phát lộ
Và cắt đứt ba trung ấm :
Trung ấm của sanh đến tử, trung ấm của giấc mộng, và trung ấm của trở thành.
Không cho, đó là cho ; không thấy, đó là cái thấy tối thượng.
Đây là tâm tự-tỉnh giác rỡ ràng, trống không vượt khỏi ý niệmthoát khỏi mọi che chướng ;
Đại lạc, cảnh giới của thực tại, trí huệ thanh tịnh rốt ráo,
Vốn bất khả phân, biểu lộ như là ba thân. Hãy nhìn !
Những người chưa chứng ngộ thực hành với ba trung ấm cần hòa hợp
Những yoga giai đoạn phát sanh, yoga thân huyễn và yoga tịnh quang và Pháp thân.
Những nguyên tố – đất, nước, lửa, không khí – tuần tự hòa tan ;
Tâm tám mươi ý niệm được dừng lại, và ba thị kiến đi qua.
Yếu tố trắng, yếu tố đỏ, và bản thân tâm gom vào hoa sen.
Khi điều này xảy ra, hãy nhìn xem khuôn mặt của tâm tịnh quang ;
Hãy hòa lẫn (hai tịnh quang) mẹ và con thành không thể tách lìa.

NHỮNG KẾT QUẢ CỦA THỰC HÀNH
Hành giả tốt nhất trên con đường của Phật quả Pháp thân
Thành tựu giác ngộ ngay trong đời này nhờ những yoga này.
Hành giả bậc trung hoàn thành giác ngộ trong trung ấm.
Như một con cá trong nước, họ làm những chuyển hóa thuộc Báo thân.
Năm điệu múa, năm ánh sáng, ba độc, những nghiệp lực,
Thích và ghét : khi đi đến tái sanh
Họ áp dụng năm sự hòa lẫn và lấy tất cả làm con đường.
Đối với những người trước kia đã tu hành bốn ấn,
Trung ấm của trở thành là nơi chốn cho tự-giải thoát.
Những hành giả bậc kém trở nên thoát khỏi thích và ghét
thành tựu một tái sanh với thân lưu xuất.
Dùng những giáo huấn tổng quát, họ loại trừ những trở ngại
nhận biết các ma.
Họ đi vào những thực tập thân kim cương khác nhau,
Như sáu yantra gốc với ba mươi chín nhánh,
Và dùng mỗi hoạt động như một nguồn cho những tích tập
Nếu người ta có thể hoàn thành ba giai đoạn thực hành này không lầm lỗi,
Trong bốn khoảnh khắc ba niềm vui được phát lộ.
Những hạt thanh tịnh rơi rắc từ trên và khởi sanh từ dưới ;
Những nút thắt trong các luân xa được cởi mở,
Và những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương.
Những năng lực sinh khí và những méo mó xúc tình – 21.600 và năm gốc –
Được dừng lại và trí huệ bổn nguyên sanh khởi.
Từ Pullimaru trở lên, hai mươi bốn thắng cảnh và gần như thắng cảnh
Đã được đầy ; những giáo lý từ miệng của một Hóa thân hay Báo thân hoàn hảo,
Một trăm thấu thị đã hoàn thành, và người ta tìm thấy một bình kho tàng.
Trong một đời người ta đi qua những giai đoạn của con đường giác ngộ
đạt đến trạng thái của một vị Phật Vajradhara.
Trong mười ba thế hệ giáo lý này
Cần được dấu kín như là sự trao truyền miệng.
Nó là tinh túy của tất cả Kinh và Tantra
Và đem đến giải thoát cho người có phước
Hãy dùng nó để thành tựu cái đầy ý nghĩa.

Lời kết : Là trọn vẹn bản văn Những Câu Kệ Kim Cương : Một Giáo Huấn cho Jnana Dakini. Nó từ miệng hiền triết Ấn Độ Mahapandita Naropa, và được dịch (thành tiếng Tây Tạng) và rồi được xác quyết bởi dịch giả Marpa Chokyi Lotru ở thắng cảnh thiêng liêng được biết với tên là Pushpahari.


Bản Chép Tay Con Đường Thậm Thâm Sáu Yoga của Naropa : Một Nguồn Tài Liệu của Mọi Chứng Ngộ
TT. Thabs lam na ro’i chos drug gi lag rjes dngos grub kun byung bởi Gyalwa Wensapa Lobzang Dondrup
1505-1566

Kính lễ Guru Vajradhara, cùng với vô số bổn tôn mạn đà la.

Để đi vào thực hành Sáu Yoga của Naropa người ta phải hiểu ba chủ đề : thực tại của nền tảng ; những giai đoạn đi trên con đường ; và cách thức biểu lộ những kết quả.

THỰC TẠI CỦA NỀN TẢNG
Thực tại của nền tảng của kinh nghiệm chúng ta gồm ba chủ đề : thực tại của thân ; thực tại của tâm ; và thực tại của thân và tâm chung nhau.

Thực tại của Thân
Thực tại của thân có ba : thô, vi tế và rất vi tế.
Thân thô là thân bình thường làm bằng thịt, máu, xương và sanh từ tinh trùng và trứng của cha mẹ.
Thân tế ám chỉ những kinh mạch chứa năng lực, những năng lực trôi chuyển, và những hạt có năng lực sáng tạo đỏ và trắng (nghĩa là âm và dương).
Thân rất vi tếnăng lực vi tế nâng đỡ thức của bốn cái không, đặc biệt là cái không thứ tư, được gọi là “cái không rốt ráo”, nó là tâm tịnh quang.
Thực tại của Tâm
Về phần tâm, nó cũng có ba chiều kích giống như vậy : thô, tế và rất vi tế.
Tâm thô là cái tâm đồng khởi với năm thức giác quan.
Tâm tế là cái tâm đồng khởi với sức mạnh điều khiển của sáu méo mó gốc, hai mươi méo mó phụ và tám mươi khởi tâm ý niệm.
Tâm rất vi tế là chiều kích của thức cùng một bản chất với bốn cái không, và đặc biệt cái thứ tư, “cái không rốt ráo”, nó là tâm tịnh quang.
Thực tại của cả Thân và Tâm chung nhau
Khi chúng sanh gặp gỡ cái chết, những phương diện rất vi tế của những năng lực sinh khí và của thức trở thành một thực thể. Thực thể này là thực tại chung của cả thân và tâm.

NHỮNG GIAI ĐOẠN ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG
Những giai đoạn đi trên con đường gồm hai loại kỹ thuật chính : những kỹ thuật để rút năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương và những kỹ thuật được áp dụng sau khi những năng lực đã được rút vào (kinh mạch trung ương).
Những Kỹ Thuật để Rút Những Năng Lực Sinh Khí vào Kinh Mạch Trung Ương

Kỹ thuật để rút những năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương bằt đầu với sự phát sanh hình ảnh của chính mình như là Phật Vajradhara kết hợp đôi, và hình dung những kinh mạch năng lực cùng với những chữ (âm) mật chú ở những luân xa. Rồi người ta thiền định về nội nhiệt và về những hạt chảy lỏng. Điều này làm cho năng lực sinh khí đi vào, ở lại và hòa tan.

Dấu hiệu chỉ sự đi vào của những năng lực sinh khí là, khi một hơi thở được hít vào để trắc nghiệm sự tiến bộ của người ta, không khí đi qua cả hai lỗ mũi một cách êm nhẹ, trơn tru. Dấu hiệu chỉ rằng những năng lực đã được làm ở lại là những thị kiến về những hòa tan cơ bản và cũng về sự hòa tan của ba trạng thái thị kiến xảy ra. Những hòa tan này phải được nhận biết một cách cá nhân.

Trước hết đất hòa tan vào nước và có một thị kiến như thấy một ảo ảnh. Rồi nước tan vào lửa, và có một thị kiến giống như khói. Tiếp theo lửa tan vào không khí, và có một thị kiến như đom đóm lập lòe. Nguyên tố không khí bắt đầu tan vào thức thì được gọi là “xuất hiện”, và có một thị kiến giống như ánh sáng mờ của một ngọn đèn sáp. Không khí hòa tan hoàn toàn vào “xuất hiện” và có một thị kiến màu trắng, như một bầu trời trong sáng mùa thu đầy ánh trăng tròn. Cái này tan vào thức thì gọi là “gần gần” (ở trước dịch là “tăng trưởng”), và có một thị kiến màu đỏ, như bầu trời trong sáng đầy ánh sáng mặt trời. Cái này tan vào “gần đạt” (ở trước dịch là “đạt đến”), và có một thị kiến bóng tối bao trùm, như bầu trời trước bình minh, không mặt trăng mặt trời. “Gần đạt“ bấy giờ tan vào tịnh quang ; có một thị kiến rạng rỡ trong sáng, như bầu trời lúc rạng đông, thoát khỏi ba hoàn cảnh. Người ta phải nhận biết những kinh nghiệm này khi chúng xảy ra. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Pháp thân trong trạng thái thức”.

Khi đến lúc xuất khỏi định tịnh quang, người ta đề khởi bản năng mạnh mẽ loại qua một bên những hợp uẩn cũ kỹ và khởi lên trong hình tướng một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Rồi khi người ta khởi lên từ tịnh quang, những hợp uẩn già nua sẽ bị bỏ qua một bên và trong tâm hình thành hình ảnh một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Đồng thời người ta áp dụng những kỹ thuật khơi dẫn những giai đoạn của sự hòa tan (mô tả ở trên) theo thứ tự ngược lại. Như vậy người ta đi từ tịnh quang đến gần đạt, đến gần gần, và đến xuất hiện. Người ta kinh nghiệm những dấu hiệu của sự hòa tan cơ bản (tức là hòa tan của những nguyên tố) theo chiều ngược lại : một ánh sáng mờ của đèn sáp, những lập lòe như đom đóm, khói và cuối cùng, ảo ảnh. Đây là tiến trình được biết như là “hòa nhập với Báo thân trong trạng thái thức”.

Người ta đi vào những giai đoạn thiền định về những chuyển hóa liên kết với hình tướng Báo thân ấy và tập chú cái định của người ta vào đó. Khi quyết định xuất khỏi định, người ta làm điều này bằng cách thiền định về những hợp uẩn cũ kỹ của người ta như là Con Người Biểu Tượng (samayasattva), với Con Người Trí Huệ (jnanasattva) ở trái tim. Đây là tiến trình được biết như là “hòa nhập với Báo thân trong trạng thái thức”.

Đồng thời với sự việc này, khi không khí bắt đầu qua hai lỗ mũi trở lại và năm thức giác quan sống lại, bất cứ hình tướng xuất hiện nào xảy ra đều được thấy là tánh không, tánh không như lạc, và lạc như mạn đà la và những bổn tôn của nó. Đây là sự thực hành được trau dồi trong những thời sau-thiền định.

Tương tự, khi đi ngủ người ta cố gắng giữ lại tịnh quang của giấc ngủ và quyết tâm sanh khởi như một bổn tôn Báo thân trong trạng thái mộng. Khi người ta chuẩn bị ngủ người ta đi vào những thiền định về những kinh mạch, năng lực và luân xa, làm cho những hạt tan chảy và những lạc sanh khởi. Những năng lực sanh khí đi vào, ở lại và hòa tan trong kinh mạch trung ương. Mọi dấu hiệu của tiến trình hòa tan xảy ra, từ “đất vào nước”, cho đến sự khởi hiện của tịnh quang. Bốn cái không khởi hiện trong bản chất của bốn cái lạc. Đồng thời khi tịnh quang xảy ra, người ta đi vào thiền định về lạc hòa hợp với (trí huệ) tánh không. Đây là tiến trình được biết là “hòa nhập với Pháp thân trong giấc ngủ”.

Khi đến lúc khởi lên từ tịnh quang ấy, người ta quyết tâm sanh khởi với một thân giấc mộng bằng cách bỏ qua một bên thân hợp uẩn cũ kỹ và mang lấy hình tướng của một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Rồi khi người ta khởi lên từ tịnh quang (của giấc ngủ) thân giấc mộng xuất hiện. Tuy nhiên, người ta không làm điều đó trong thân các hợp uẩn cũ ; mà thân giấc mộng sanh khởi với tâm như là một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Đây là cái được biết như “hòa nhập với Báo thân trong giấc mộng”.

Người ta tập chú cái định vào những thiền định của những tiến trình chuyển hóa của Báo thân ấy. Khi đến lúc thức dậy từ giấc ngủ, người ta làm điều đó bằng cách khởi lên với những hợp uẩn cũ được hình dung như là Con Người Biểu Tượng với Con Người Trí Huệ ở trái tim mình. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Hóa thân khi thức dậy”.

Đồng thời với điều này, khi không khí bắt đầu qua hai lỗ mũi và năm thức giác quan sống lại, bất cứ hình tướng nào xuất hiện đều được thấy là tánh không, tánh không như lạc, và lạc như những bổn tôn mạn đà la. Đây là sự thực hành được trau dồi trong những thời sau-thiền định.

Thiền giả không có khả năng hoàn thành những chứng ngộ giai đoạn cao nhất trước thời gian chết cần trau dồi quyết tâm áp dụng những kỹ thuật để lưu giữ tịnh quang của cái chết, sanh khởi trong Báo thân trong trung ấm và nhận lấy sự sanh với tái sanh của một vị thầy mật thừa, hay mantracharyin. Bấy giờ lúc cái chết đến gần, người ta cần thiền định về những kinh mạch, những năng lực, những luân xa… như ở trên, và thiền định về sự cháy hừng và tan chảy. Điều này khiến cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương và ở lại rồi hòa tan, phát sanh những dấu hiệu của những hòa tan, cho đến những dấu hiệu của tịnh quang xảy ra. Khi tịnh quang của cái chết khởi hiện, người ta chú tâm vào thiền định về tánh không. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Pháp thân vào lúc chết”.

Khi đến lúc sanh khởi từ tịnh quang, người ta phát khởi bản năng bỏ qua một bên những hợp uẩn cũ và, khi lấy một thân trung ấm, sanh khởi trong hình tướng một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Bấy giờ từ tịnh quang người ta phát khởi hình ảnh của thân trung ấm như là Phật Vajradhara kết hợp đôi, và những hợp uẩn cũ được bỏ qua một bên. Đồng thời những dấu hiệu của tiến trình hòa tan biểu lộ theo chiều ngược, thức trở ngược lại từ tịnh quang đến gần đạt… cho đến thị kiến ảo ảnh. Đây là tiến trình được biết như “hòa nhập với Báo thân trong trung ấm”.

Người ta vẫn chú tâm vào những cấp bậc định trong những thiền định của những chuyển hóa Báo thân. Rồi khi muốn nhận lấy tái sanh, người ta tìm một môi trường di truyền thích hợp trong những hạt trắng và đỏ của cha mẹ tương lai để hoàn thành tái sanh như là một pháp khí đặc biệt của một vị thầy mật thừa. Đây là tiến trình được biết như là “hòa nhập với Hóa thân vào lúc tái sanh”.

Chúng sanh vào bụng mẹ theo cách này sẽ đi qua năm giai đoạn lớn lên, như giai đoạn chỉ là một khối kết những tế bào… Đến lúc rời bụng mẹ, qua tuổi ấu thơ và thanh niên, rồi đi vào thực hànhhoàn thành phần còn lại của con đường, như thế thành tựu Phật quả.

Kỹ thuật được Áp dụng sau khi những Năng lực đã được rút vào (kinh mạch trung ương)

Sau khi chuyên tâm vào những phương pháp này để hướng dẫn những năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương, về sau người ta hoàn thành một nhập định thông thạo trong tiến trình. Người ta sớm tri giác những dấu hiệu tiếp cận giai đoạn trong đó thân huyễn có thể được phát sanh. Với điều kiện bên ngoàiquán tưởng karmamudra, người ta đi vào điều kiện bên trong, tức là thiền định về những kinh mạch, luân xa… và thiền định về cháy hừng và chảy lỏng. Những năng lực sinh khí được làm cho đi vào kinh mạch trung ương và ở lại và hòa tan, phát sanh những dấu hiệu của hòa tan, từ ảo ảnh v.v… cho đến dấu hiệu của tịnh quang. Bốn cái không hiện khởi trong bản chất của bốn lạc. Khi tịnh quang bổn nguyên (hay vốn sẵn, bẩm sanh) sanh khởi, người ta thiền định về lạc hòa hợp với tánh không. Đây là kỹ thuật đi vào tịnh quang bổn nguyên ‘tương tự’, và với nó căn cứ của thân huyễn được sanh thành.

Khi đến lúc xuất khởi khỏi tịnh quang, người ta phát khởi bản năng để qua một bên những hợp uẩn cũ và lấy hình tướng của một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi. Rồi khi người ta sanh khởi từ tịnh quang, năng lực sinh khí của năm ánh sáng chiếu diệu, trên đó tịnh quang bổn nguyên cưỡi lên, được dùng như nguyên nhân chất thể ; và tâm dùng như điều kiện hiện diện đồng thời. Căn cứ trên những cái đó, những uẩn cũ được bỏ qua và người ta sanh khởi trong hình tướng của một vị Phật Vajradhara kết hợp đôi, trang hoàng bằng những tướng chánh và phụ. Đây là giai đoạn của “thân huyễn chưa thanh tịnh”. Đồng thời người ta kinh nghiệm tiến trình hòa tan ngược lại, đi từ tịnh quang đến gần đạt v.v… cho đến dấu hiệu ảo ảnh.

Trong những hệ thống tantra như Guhyasamaja thân huyễn này được minh họa và giải thích bằng cách dùng mười hai cái tương tự.(2)

Vào lúc ấy ba yếu tố xảy ra đồng thời : sự dừng dứt của cái tương tự với cái bổn nguyên (nghĩa là thức tịnh quang “tương tự” hay “ẩn dụ”), sự viên mãn của gần đạt trong tiến trình hòa tan, và sự khởi lên trong hình tướng thực sự của một “thân huyễn chưa thanh tịnh”. Bấy giờ người với thân huyễn ấy chú tâm vào những giai đoạn của định.

Người ta đi vào những giai đoạn của định như thế nào ?

Trước hết người ta thiền định về những “pha” của tiến trình hòa tan, nó khiến cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan. Điều này làm khởi lên những dấu hiệu của các định, từ ảo ảnh đến tịnh quang. Khi đến lúc khởi lên khỏi tịnh quang người ta phát sanh quyết tâm có một thân huyễn chưa thanh tịnh chuyển hóa thành một thân huyễn thanh tịnh. Bấy giờ khi người ta sanh khởi từ tịnh quang, thân huyễn chưa thanh tịnh bị bỏ qua một bên và hình ảnh của thân huyễn thanh tịnh sanh khởi trong tâm. Đồng thời với cái đó, người ta kinh nghiệm tiến trình hòa tan theo chiều ngược lại. Người ta đi từ tịnh quang đến gần đạt v.v…, cho đến dấu hiệu ảo ảnh. Người đi vào hình tướng Báo thân ấy bấy giờ sanh khởi như Hóa thân, lưu xuất ra những mạn đà la được duy trìduy trì. Khi người ta muốn sanh khởi từ thiền định, người ta làm điều đó bằng cách thiền định về những uẩn cũ như là Con Người Biểu Tượng với Con Người Trí Huệ ở trái tim.

Ở trong bình chứa (pháp khí) này người ta chỉ dạy Pháp cho những người tu hành và trau dồi những hoạt động sau-thực hành, bao gồm cả những sinh hoạt như ăn, uống…

Hành giả của giai đoạn thân huyễn này trau dồi những thiền định cao cấp ấy và sau cùng thấy những dấu hiệu rằng sự thành tựu giai đoạn gọi là “đại hợp nhất của tu hành” đang đến gần. Nó đi vào điều kiện bên ngoàiđiều kiện bên trong là những thiền định về những giai đoạn hòa tan… làm cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan. Những dấu hiệu của những hòa tan xảy ra, từ ảo ảnh đến tịnh quang. Bốn cái không sanh khởi trong bản chất bốn lạc. Vào khoảnh khắc của tịnh quang bổn nguyên, người ta đi vào thiền định về lạc hòa hợp với tánh không.

Vào lúc đó năm yếu tố đồng thời xảy ra : trạng thái “gần đạt trong tiến trình hiển lộ” ngừng dứt ; lạc bổn nguyên khơi dẫn một chứng ngộ trực tiếp chưa từng có về tánh không ; thân huyễn được tịnh hóa trong tịnh quang thực sự, xuất hiện như một cầu vồng trong bầu trời rạng rỡ ; người ta hoàn thành giai đoạn không ngăn ngại trong đó đối trị trực tiếp với những che chướng xúc cảm (phiền não chướng) được sanh ra trong dòng tâm ; và dòng tương tục của người ta trở thành dòng tương tục của một vị thánh.

Lúc tiến trình khởi lên khỏi tịnh quang bắt đầu, sức mạnh hướng dẫn trước kia trong thực hành sẽ vào cuộc, đặt người ta ở cánh cửa qua đó thân huyễn thanh tịnh có thể được hoàn thành. Khi người ta khởi lên từ tịnh quang, với vai trò của nguyên nhân chất thể được vào cuộc bởi năng lực vi tế của năm ánh sáng chiếu diệu, trên đó thức tịnh quang bổn nguyên và thực sự cỡi lên, và vai trò của điều kiện hiện diện đồng thời được vào cuộc bởi tâm, người ta khởi lên trong một “thân huyễn thanh tịnh” thực sự. Thân huyễn thực sự này là một dòng không đứt đoạn trong một hình tướng như của Phật Vajradhara kết hợp đôi, trang hoàng bởi những tướng chánh và phụ, với những uẩn cũ để lại đàng sau.

Đồng thời biểu lộ những dấu hiệu của tiến trình hòa tan ngược lại, từ tịnh quang đến gần đạt cho đến dấu hiệu ảo ảnh. Vào lúc đó năm yếu tố cùng xảy ra : ‘thức tịnh quang bổn nguyên thực sự’ ngừng dứt ; trạng thái ‘gần đạt’ trong tiến trình hòa tan được sanh ra ; sự khởi lên của “thân huyễn thanh tịnh” ; người ta hoàn thành con đường giải thoát rốt ráo thoát khỏi những che chướng xúc cảm ; và dòng tương tục của người ta trở thành dòng tương tục của một A La Hán.

Con người của hình tướng Báo thân ấy bấy giờ chú tâm vào định.

Cái gì là những giai đoạn của định ấy? Người ta tập chú vào thiền định nhất tâm về tánh không và rồi khiến cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan, làm khởi lên những dấu hiệu, cho đến tịnh quang xảy ra. Vào lúc đó người ta đã đạt đến chỗ, nơi đó trạng thái đại hợp nhất có thể được hoàn thành không trở ngại, nơi thân và tâm có thể được cùng hòa hợp thành một thực thể duy nhất. Ở đây thân là thân huyễn thanh tịnh trang hoàng bởi những tướng chánh và phụ, và tâm là thức tịnh quang thực sự.

Khi đến lúc sanh khởi từ kinh nghiệm tịnh quang ấy, sức mạnh hướng dẫn trước kia từ sự thực hành vào cuộc, và người ta thấy mình ở cánh cửa qua đó thân của “đại hợp nhất trong tu hành” có thể trở thành thân của “đại hợp nhất vượt khỏi tu hành”. Khởi lên từ tịnh quang, người nơi giai đoạn của “đại hợp nhất của tu hành” tri giác hình ảnh thân thể của giai đoạn “đại hợp nhất vượt khỏi tu hành”. Đồng thời những dấu hiệu của tiến trình ngược lại xảy ra, từ tịnh quang đến gần đạt v.v… cho đến ảo ảnh.

Báo thân ấy nắm giữ tiềm năng của Hóa thânHóa thân lưu xuất một mạng hoạt động, như biểu lộ những mạn đà la được duy trìduy trì.

Khi người ta muốn sanh khởi khỏi thiền định, người ta đi vào những hợp uẩn cũ hay những hợp uẩn cũ khác, tùy cái nào thích hợp. Rồi, ở trong bình chứa đó, người ta chỉ dạy Pháp cho những người tu hành và trau dồi những hoạt động sau-thực hành…

CÁCH BIỂU LỘ NHỮNG KẾT QUẢ

Thiền giả ở giai đoạn đại hợp nhất của tu hành trau dồi những định của cấp độ đó trong cả thiền định chính thức và sau-thiền định, và sau cùng thấy những dấu hiệu của sự tiếp cận với chứng đắc “đại hợp nhất vượt khỏi tu hành”. Người ta có điều kiện bên ngoàiquán tưởng karmamudra và điều kiện bên trong là thiền định nhất tâm về tánh không, làm cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương, ở lại và hòa tan. Những dấu hiệu xảy ra, bắt đầu bằng ảo ảnh v.v… cuối cùng đến những dấu hiệu của tịnh quang biểu lộ. Bốn cái không sanh khởi trong bản chất của bốn lạc.

Giây phút tịnh quang bổn nguyên này biểu lộ, người ta đi vào thiền định về lạc hòa hợp với (trí huệ) tánh không. Khoảnh khắc thứ nhất của tịnh quang này là giai đoạn không ngăn ngại trong đó những chướng ngại tri giác (sở tri chướng) được vượt qua. Khoảnh khắc thứ hai của nó cũng là khoảnh khắc đầu tiên của Phật quả toàn giác, trong đó người ta an trụ trong định toàn hảo về bản tánh tối hậu của tất cả hiện hữu, cùng lúc thấy trực tiếp mọi thực tại quy ước rõ ràng như một miếng trái cây trong lòng bàn tay. Thân của đại hợp nhất của tu hành trở thành đại hợp nhất vượt khỏi tu hành, Báo thân thực sự phát ra hàng ngàn Hóa thân lưu xuất để làm lợi lạc cho những ai tu hành. Như vậy người ta hoàn thành Phật quả trọn vẹn trong bản tánh của ba thân.

Như một sơ bộ để đạt đến giai đoạn đại hợp nhất vượt khỏi tu hành, người ta phải đi qua giai đoạn đại hợp nhất của tu hành. Như một sơ bộ cho cái đó người ta phải hoàn thành thân huyễn, và để cho điều đó người ta trước hết thiền định về những kinh mạch, luân xa, cháy bừng, tan chảy v.v…

Lần lượt, như một sơ bộ (cho những thực hành của giai đoạn thành tựu này) người ta phải đi đến chỗ kết thúc của những thực hành giai đoạn phát sanh thô và tế, chúng lấy sanh, chết và trung ấm, những căn cứ cần tịnh hóa, như là những con đường của ba thân. Để cho điều này người ta phải đã nhận quán đảnh trọn bộ và trưởng thành, chín chắn trong việc tuân thủ những giới luật được trao vào lúc quán đảnh. Hơn nữa, trước khi vào thực hành mật thừa người ta cần tu hành tâm thức trong con đường chung, từ trau dồi một tương quan làm việc hiệu quả với một vị thầy tâm linh, cho đến tu hành thiền định phối hợp shamatha (chỉ) và vipassyana (quán).

Như vậy hành giả như viên ngọc quý đi vào con đường sâu xa của Sáu Yoga của Naropa theo cách này đã vào con đường trọn vẹn và không lỗi lầm cho sự thành tựu giác ngộ trong một đời ngắn ngủi, dù trong thời đại suy đồi này.

Lời kết : Những ghi chú về dòng những giáo lý của Vajradhara Lobzang Dondrup, với không có gì vượt quá và không có gì bỏ sót, được sao chép và ấn hành bởi nhà sư Phật giáo Basowa Tenpai Gyaltsen (đệ tử của ngài Lobzang Dondrup).
 

(1) Tummo : Tôi dịch từ Sanskrit chandahi là “nội nhiệt”. Từ tương đương của Tây Tạng là tummo, trong đó âm thứ nhất nghĩa là “mãnh liệt” và ám chỉ lạc ấm áp sanh khởi từ thực hành, và âm thứ hai, một phần tử giống cái, ám chỉ trí huệ là đối tượng của cái lạc ấy. Tum là giống đực và mo giống cái, chỉ ra sự cần thiết phải quân bình giữa hai yếu tố dương và âm – nghĩa là năng lựctrí huệ – trong sự tu tập.
(2) Mười hai cái tượng tự : một xuất hiện như ảo ảnh, những vật trong một giấc mộng, một ảo giác, một phản chiếu trong gương, tia chớp trong bầu trời, một tiếng vang trong hang núi, một cầu vồng, mặt trăng trong nước, một thành phố của Càn thát bà, những hình đám mây làm mắt mê lầm, và hình dạng do huyễn thuật.
 
 

NHỮNG SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN

Những Khai Thị Từ Đức Liên Hoa Sanh Về Con Đường Đại Toàn Thiện – Padmasambhava
Trí HuệĐại Bi – Dalai Lama Thứ 14
Một Tia Sấm Chớp Sáng Trong Đêm Tối – Dalai Lama Thứ 14
Kho Tàng Tâm Của Các Bậc Giác Ngộ – Dilgo Khyentse
Đại Toàn Thiện Tự Nhiên – Khenpo Nyoshul
Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng – Dalai Lama Thứ 14
Con Đường Kim Cương Thừa Về Sự Tịnh Hóa – Lama Yeshe
Cuộc Đời Siêu Việt Của 16 Vị Tổ Karmapa Tây Tạng – Karma Thinley
Mật Thừa Tây Tạng – Tsong Khapa và Dalai Lama Thứ 14
Những Yoga Tây Tạng Về Giấc Mộng Và Giấc Ngủ – Tenzin Wangyal Rinpoche
Những Giáo Huấn Của Gampopa – Lama Yeshe Gyamtso và Evans Wentz
Tu Hành Tâm Linh Liên Hệ Với Trung Ấm – Tulku Pema Wangyal
Năng Lực Chữa Lành Của Tâm – Tulku Thondup
Phật Tâm – Longchen Rabjam
Milarepa ¬– Lobsang P. Lhalungpa
Con Đường Căn Bản Đến Giác Ngộ – Chošgyam Trungpa
Tử Thư Tây Tạng – Chošgyam Trungpa và Francesca Fremantle
Nghệ Thuật Để Sống Trọn Vẹn Ý Nghĩa Cuộc Đời – Akong Tulku Rinpoche
Đại Ấn – Karmapa Thứ Chín Wangchug Dorje
Sông Lửa Sông Nước – Taitetsu Unno
Vài Chú Giải Về Thiền Đốn Ngộ – Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Một Kho Tàng Các Giáo Huấn Siêu Việt – H. H. Orgyen Kusum Lingpa
Bát Nhã Tâm Kinh Thiền Giải – Đương Đạo
Những Chữ Vàng – Garab Dorje
Bức Thư Bồ Tát Long Thọ Gởi Cho Vua Gautamiputra – Sakya Trizin
Yoga Giấc Mộng Và Sự Thực Hành Ánh Sáng Tự Nhiên – Namkhai Norbu
Tịnh Độ Tư Tưởng Luận – Các đại sư Tịnh Độ Trung Hoa
Uống Dòng Suối Núi – Milarepa
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Chúa Jésus – Dalai Lama Thứ 14
Mười Tư Tưởng Pháp Hoa Trong Đời Sống Hàng Ngày – Đương Đạo
Tánh Giác Lộ Toàn Thân – Karma Chagmé
Chánh Pháp Nhãn TạngThiền sư Đạo Nguyên
Sống Trong Tham Thiền Chu Kỳ Ngày Và Đêm – Namkhai Norbu
Thực Tại Thiền – Đương Đạo
Sáu Yoga Của Naropa – Garma C. C. Chang và Glenn H. Mullin
Xã Hội Giác Ngộ – Chošgyam Trungpa
Đánh Thức Trí Thông Minh – J. Krisnamurti
Viên Ngọc Như Ý – Dilgo Khyentse
Chú Giải Về P’howa – Chagdud Khadro
Những Lối Vào Pháp Thân – Dudjom Lingpa
Ngữ Lục Bồ Đề Đạt Ma – Nguyên Hảo dịch
Yên Tĩnh Và Trong Sáng – Lama Mipham
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10139)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10410)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9692)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23613)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11853)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10734)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10077)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28691)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21627)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29419)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11394)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12366)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26335)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31034)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25340)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22817)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13054)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21945)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12232)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14142)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12461)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11245)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10694)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38065)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13674)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13470)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12353)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12591)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12058)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10728)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11217)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23360)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33204)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12802)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7396)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12190)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12621)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12050)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12873)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11945)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10701)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11375)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11666)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10872)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10807)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10377)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10493)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10714)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10634)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11918)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10700)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12740)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10807)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11392)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11093)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11638)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10517)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11264)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12307)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11169)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12490)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11425)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11512)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11302)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11591)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12996)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14179)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11016)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11875)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13162)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11582)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11429)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10934)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11291)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10819)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11062)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10895)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10267)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17112)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11014)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10868)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10410)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10762)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11387)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11085)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10575)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11381)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10355)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10655)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12771)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19272)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19707)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21291)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20338)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19767)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19051)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20493)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21096)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17930)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21853)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant