Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Mươi Ba Công Án Của Trần Thái Tông

08 Tháng Bảy 201408:28(Xem: 8536)
Bốn Mươi Ba Công Án Của Trần Thái Tông

BỐN MƯƠI BA CÔNG ÁN CỦA TRẦN THÁI TÔNG

Nhất Hạnh dịch

Công Phu Khóa Hư Cử Niêm Tụng

Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất giatại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.

Công án thứ nhất

Cử: Thế Tôn chưa rời cung Đâu Suất đã giáng sinh vương cung, chưa ra khỏi mẫu thai đã hoàn tất sự nghiệp cứu độ

Niêm: Gươm kích chưa vung, tướng quân đã để lộ
tung tích.

Tụng: Đứa bé hình hài chưa có ấy
Nửa đêm đưa dắt người đồng hương
Rong chơi khắp biển trời lồng lộng
Không cần phao nổi, không đò giang.

Công án thứ hai

Cử: Thế Tôn khi sơ sinh, một tay chỉ trời một tay chỉ đất: “trên trời dưới đất, duy ta độc tôn”.

Niêm: Một đám bạch vân qua cửa động
Bao nhiêu chim chóc lạc đường về

Tụng: Vì muốn giáng sinh cung Tịnh Phạn
Độ sinh nên phải lộ hành tung
Bảy bước chân đi, trời đất chỉ
Biết bao Phật tử táng gia phong.

Công án thứ ba

Cử: Thế Tôn cầm đóa hoa đưa lên, Ca Diếp mỉm cười.[1]

Niêm: Dương đôi mắt ra mà nhìn: tư duy đàm thuyết phía trước còn cách nghìn dãy núi.

Tụng: Thế Tôn tay nắm một cành hoa
Ca Diếp hôm nay trở lại nhà
Nếu gọi đó là “truyền pháp yếu”
Con đường Nam Bắc hẵng còn xa

Công án thứ tư

Cử: Có nhà triết học ngoại đạo [2] đến tham vấn Phật, nhưng không muốn nghe danh từ hữu cũng không muốn nghe danh từ vô.

Niêm: Trừ là con cái trong nhà ta, còn ai lại dám đi vào chốn ấy nữa.

Tụng: Cửa lao khôn buộc, nào ai biết
Ngôn ngữ mất rồi, níu tựa đâu?
Chẳng phải ngựa hay trên cõi thế
Bỗng dưng sao có được cơ mầu?

Công án thứ năm

Cử: Thế Tôn vừa bước lên pháp tọa, Văn Thù đánh khánh bạch: “Hãy lắng nghe pháp của Pháp Vương: Pháp của Pháp Vương là như thế”.

Niêm: Gẩy khúc Dương Xuân trên chỗ không có tơ đồng, ngàn đời sau âm thanh mãi còn bất tuyệt.

Tụng: Tuy nói nên lời không dấu vết
Sừng dấu đuôi còn để ló ra
Nâng một cành tiêu không có lỗ
Vì ngươi, thổi khúc Thái Bình Ca

Chú thích:

[1]. Ca Diếp, Mahakasyāpa, là một trong mười vị đệ tử của Phật. Một hôm trên đại hội Linh Sơn, Phật cầm một cành hoa nhìn đại chúng không nói năng gì. Tất cả đại chúng đều giữ im lặng. Duy có Ca Diếp mỉm cười. Phật nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay phú chúc cho Ma Ha Ca Diếp”.

[2]. Một nhà triết học ngoại đạo tới hỏi Phật; nhưng không
muốn nghe về hữu mà cũng không muốn nghe về vô. Phật ngồi yên lặng hồi lâu trên pháp tọa, không nói năng gì. Nhà triết học khen ngợi: “Đức Thế Tôn đã phá tan màn mây vô minh khiến cho tôi thấy được chân lý”. Nói rồi làm lễ Phật và rút lui. A Nan hỏi Phật: “Người ngoại đạo đó đã chứng được gì? Tại sao ông ta làm lễ Phật rồi bỏ đi?” Phật nói: “Con ngựa hay chỉ cần thấy bóng của cây roi là đã chạy rồi”.

Công án thứ sáu

Cử: Tần Quốc Vương cầm kiếm gọi Tôn Giả, Tổ thứ 24, hỏi rằng: “Sư chứng được pháp uẩn không chưa?” Tổ nói: “Chứng”. Vua hỏi: “Lìa sinh tử chưa?” Tổ nói: “Lìa”. Vua hỏi: “Có bố thí cho ta đầu Sư được không?” Tổ nói: “Thân còn không phải là của ta, huống là đầu”. Vua bèn chém. Sữa trắng tuôn lên. Tay vua tự rớt xuống.

Niêm: Gươm trắng kề đầu tướng, như chém gió mùa Xuân.

Tụng: Trên nước sáng lòe gươm báu chém
Trở ngại điều kia chẳng có gì
Xin biết hôm nay rời khói sóng
Ai hay riêng lại có tư duy.

Công án thứ bảy

Cử: Đạt Ma đại sư tới Lạc Dương núi Thiếu Thất, chín năm ngồi xoay mặt vào vách.

Niêm: Mở mắt nhìn cho tỏ, đừng có mê ngủ.

Tụng: Chim bằng liệng cánh về Nam Hải
Chỉ uổng công lao vạn dặm đường
Đêm trước vì tham ăn tiệc sướng
Sáng nay say ngủ khó hồi dương.

Công án thứ tám

Cử: Nhị tổ xin Đạt Ma an tâm giùm. Đạt Ma nói:
“Đem tâm tới đây ta an cho”. Nhị tổ đáp: “Tìm tâm mãi không đặng”. Đạt Ma nói: “Thế là ta an tâm cho ngươi rồi”.

Niêm: Đứa trẻ lên ba thì múa trống, ông già tám chục lại chơi cầu.

Tụng: Tâm đã là không, nói với ai?
Hồn nhiên đâu lúc ở bào thai?
Lão tăng nói khoác: “An rồi đó”
Lừa kẻ bàng quan mà không hay.

Công án thứ chín

Cử: Văn Thù thấy một phụ nữ tọa tam muội một bên Phật. Văn Thù đánh thức người ấy mãi không được. Phật bảo Võng Minh đánh thức, Võng Minh đánh thức được ngay.[3]

Niêm: Đứa con oan gia làm tan nát cả gia phong ta.

Tụng: Trước Phật sao còn niệm sơ, thân
Định ấy còn chưa được chính chân
Nếu quả hóa công không hậu bạc
Xuân về, đâu lại chẳng mùa Xuân?

Công án thứ mười

Cử: Mã tổ Đạo Nhất, ba mươi năm sau cơn loạn
Hồ, chưa từng thiếu muối thiếu tương.

Niêm: Dù là không mảy may vi phạm thì cũng còn cầm đũa mà mút ngón tay.

Tụng: Lưu Linh đã lỡ nên bầu bạn
Nhà là quán rượu ngủ quanh năm
Dù tự khoe mình trang hảo hán
Đóng vai mất áo giữa đường chăng?

Công án thứ mười một

Cử: Bách Trượng trở lại tham vấn Mã Tổ. Mã Tổ
hét một cái, Bách Trượng đại ngộ.

Niêm: Chùy ngọn đâm nghìn nhát, không bằng thuổng cùn ấn xuống một nhát.

Tụng: Xưa kia, xe, sách [4] chưa hòa hợp
Bốn bên giặc giã dậy bầy ong
Một lần vung kiếm thiêng trên ngựa
Đường đạo từ nay tin tức thông.

Công án thứ mười hai

Cử: Quốc sư [5] một hôm kêu thị giả ba lần, thị giả dạ ba lần. Quốc sư nói: “Đâu phải là ta phụ ngươi, chính là ngươi phụ ta đó”.

Niêm: Như người uống nước, nóng lạnh tự mình biết.

Tụng: Đôi bên xướng họa vẫn tương đương
So sánh vào đâu biết đoản trường?
Gan ruột đã bày ra tất cả
Lòng ta ta biết, ý ta tường.

Chú thích:

[3]. Khi Văn Thù tới Phật hội thì chư Phật đã tục tục giải tán đi về. Chỉ có một phụ nữ tiến đến gần pháp tọa của đức Thế Tôn rồi ngồi nhập thiền định. Văn Thù liền thưa với Phật: “Tại sao một phụ nữ còn được tiến lại gần pháp tọa của Ngài còn con thì không?” Phật nói: “Ngươi hãy đánh thức người đàn bà này dậy rồi hỏi ngay người đó”. Văn Thù đi quanh ba lần và búng ngón tay. Người đàn bà không xuất định. Văn Thù bay lên trời Phạm Thiên và dùng thần thông kéo người đàn bà đứng dậy. Cũng không thành công. Phật nói: “Dù cho cả trăm ngàn Văn Thù hợp lại cũng không thể đánh thức người đàn bà này. Chỉ có Bồ Tát Võng Minh cách đây hằng hà sa thế giới mới có thể đánh thức được”. Sau đó, Võng Minh xuất hiện từ dưới đất lên và đảnh lễ Phật. Phật ra hiệu cho Võng Minh. Võng Minh búng ngón tay và người đàn bà xuất định. Nên nhớ Văn Thù Bồ Tát tượng trưng cho trí tuệ còn Võng Minh thì trái lại.

[4]. Xe và sách: Sách Trung Dung có câu: “Nay cùng ở dưới gầm trời, xe chung đường, sách chung chữ”. Ý nói: có sự liên lạc thông cảm giữa mọi người trong thiên hạ.

[5]. Huệ Trung Quốc Sư, người Chiết Quang, pháp tử của Lục Tổ Huệ Năng.

Công án thứ mười ba

Cử: Đại Quy nói: “Khái niệm về có và về không như giây leo quấn cây lớn”. Sơ Sơn hỏi: “Cây lớn ngã, giây quấn khô, thì có và không đi về đâu?” Nói rồi cười ha ha.

Niêm: Nước tuy chảy đi nhưng vẫn còn nơi biển cả
Trăng tuy lặn mất nhưng không lìa khỏi bầu trời.

Tụng: Sóng lặng khi nào gió đứng yên
Mất công hướng ngoại luống lao phiền
Một tiếng cười tan nghi vạn mối
Phân thành sỏi ngọc rõ đôi bên.

Công án thứ mười bốn

Cử: Bách Trượng nói: “Thế nào gọi là pháp không vì người mà nói?” Nam Tuyền trả lời: “Không phải tâm, không phải Phật, cũng không phải vật”.

Niêm: Cả ngàn vị thánh đi tìm dấu chân nó cũng không
được; toàn thân nó ẩn tại hư không lớn.

Tụng: Công án là kia, hãy đối đầu Thẳng nhìn vào mặt của cao sâu Nhà Phật lưu mời không chịu ở Đêm đêm thói cũ ngủ bờ lau.

Công án thứ mười lăm

Cử: Nam Tuyền nói: “Tâm không phải là Phật, trí không phải là đạo”.

Niêm: Hô hấp tất cả lý lẽ huyền vi, trên đường về bước dưới ánh trăng.

Tụng: Vạn tiếng âm thầm tinh tú chuyển
Thái hư trầm lặng không vết gì
Nương gậy lên lần trông bốn phía
Tịch tịch liêu liêu nào ngại chi?

Công án thứ mười sáu

Cử: Lâm Tế sau khi xuất thế, chỉ dùng có phép bổng yết để khai thị đồ chúng. Hễ thấy một vị tăng nào vào cửa là hét.

Niêm: Giữa trưa mồng năm tháng năm, miệng lưỡi
độc địa tiêu trừ sạch hết.

Tụng: Vừa tới cửa ngoài nghe tiếng hét
Tỉnh giấc hôn trầm lũ cháu con
Một tiếng sấm Xuân vừa chấn động
Khắp nơi cây cỏ nẩy mầm non.

Công án thứ mười bảy

Cử: Nam Tuyền nói: “Bình thường tâm thị đạo”.[6]

Niêm: Lạnh thì nói rằng lạnh, nóng thì nói rằng nóng.

Tụng: Ngọc trắng nguyên lai không tội trạng
Cứ gì mài giũa mới là xinh
Quê cũ không do đường lối ấy
Núi dốc buông tay, phó mặc mình.

Công án thứ mười tám

Cử: Triệu Châu nói: “Các người bị hăm bốn giờ trong một ngày sai sử, ta đây sai sử hăm bốn giờ trong một ngày”.

Niêm: Cậy thế khinh người, không căn cứ trên căn bản nào cả.

Tụng: Rồng thiêng cọp dữ nên thuần thục
Hăm bốn giờ vâng phép một ngày Biến sắt thành vàng dù phép lạ
Ai đem tiết lộ cho người hay ?

Công án thứ mười chín

Cử: Có vị tăng hỏi Lâm Tế: “Thế nào là vô vị chân nhân ?” Lâm Tế nói: “Cọng cứt khô”.[7]

Niêm: Bắn chim sẻ thì sợ mất đạn, đập chuột lại sợ dơ gậy.

Tụng: Cứt khô: vô vị chân nhân
Gia phong Phật tử nát bao lần
Kìa kìa chú mục mà quan sát:
Lội biển trâu bùn mất dấu chân.

Chú thích:

[6]. Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: “Đạo là gì?” Nam Tuyền đáp: “Tâm hàng ngày của ta là đạo”. Triệu Châu nói: “Như vậy thì không cần tu hành phải không?” Nam Tuyền nói: “Nếu ngươi có ý định tu hành thế là đạo không còn nữa”. Triệu Châu nói: “Nếu tôi không có ý định, thì làm sao tôi biết đó là đạo?” Nam Tuyền nói: “Đạo không phải ở nơi biết hay là không biết. Nếu nói là biết thì là biết cái gì; đó chỉ là vọng giác. Nếu nói nó là không biết, thì là vô ký mất. Nếu ngươi đạt đến trình độ không còn nghi ngờ gì nữa thì tự nhiên thái hư mở rộng, sự vật dung hợp. Đạo không nằm ở chỗ phân biệt và phê phán phải trái”.

[7]. Lâm Tế Lục: Triệu Châu một hôm khai thị đại chúng: “Các ngươi biết không, có một bậc vô vị chân nhân trên đống thịt đỏ thường hay ra vào ở cái cửa phía trước mặt các ngươi. Các ngươi có biết người ấy là ai không. Nếu không biết thì hỏi ta”. Có một vị tăng hỏi: “Thế nào là vô vị chân nhân?” Triệu Châu liền đánh một gậy và nói: “Vô vị chân nhân là cái cứt khô gì?” Trong bài Phổ Thuyết Sắc Thân ở Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông cũng nhắc đến đề tài Vô Vị Chân Nhân như sau: “Đã mang lấy thân thể này thì bỏ nó đi thật là một chuyện thiên nan vạn nan. Làm sao để không bị thân thể này ràng buộc? Nếu còn bị ràng buộc thì hãy nghe đây:

Vô vị chân nhân thịt đỏ au
Hồng hồng trắng trắng khéo lừa nhau
Ai hay mây cuốn, trời quang tạnh
Hiện rõ bên trời đỉnh núi cao”.

Công án thứ hai mươi

Cử: Triệu Châu nói: “Ta đã khám phá ra được bà giàNgũ Đài Sơn rồi”.[8]

Niêm: Kẻ phạm tội ngũ nghịch nghe sấm, không cho bịt tai.

Tụng: Đài Sơn nháy mắt không còn nữa
Chẳng cần bước mệt vẫn về nhà
Giặc hết, không ai chủ chiến
Gươm báu cần chi phải tuốt ra?

Công án thứ hai mươi mốt

Cử: Triệu Châu nói: “Phật bằng vàng không độ được lò, Phật bằng gỗ không độ được lửa, Phật bằng đất không độ được nước. Phật chân chính ngồi trong nhà”.

Niêm: Sơn là sơn, thủy là thủy. Phật ở đâu?

Tụng: Võng Xuyên [9] cảnh ấy đã thành tranh
Xưa cậy Vương Duy mới đắc danh
Uổng nét đan thanh không chỗ họa
Trời kia trăng sáng gió thơm lành.

Công án thứ hai mươi hai

Cử: Triệu Châu nói: “Ở Thanh Châu, tôi làm được một chiếc áo gai bố nặng tới bảy cân”.[10]

Niêm: Nói củ cải Trấn Châu còn nghe được, nói gai bố Thanh Châu chỉ khiến người ta rầu.[11]

Tụng: Một chiếc áo gai thật dị thường
Rương tre họ Triệu cất sao đương
Cân nhắc từng ly, phân với lượng
Tám chàng họ Mạnh chết không thương

Chú thích:

8. Có một bà già lập quán nước trên đường đi Đài Sơn. Những vị tăng hành cước sau khi uống trà xong thường hỏi: “Đường này đi lên Đài Sơn đây phải không bà cụ?” Bà già đáp: “Cứ đi thẳng lên đấy”. Khi vị tăng vừa đi khỏi vài ba bước là bà già nói thầm: “Cái ông thầy tu a dua này cũng thế”. Việc xảy ra nhiều lần, lọt đến tai Triệu Châu. Triệu Châu nói: “Như vậy để ta thử đi xem sao!” Đến nơi, uống nước xong Triệu Châu hỏi: “Này bà cụ, có phải con đường lên Đài Sơn đây không?” Bà già đáp: “Cứ theo đường ấy là được”. Triệu Châu vừa đi khỏi vài bước, bà cụ lại nói: “à cái ông thầy a dua này, lại cũng đi như thế nữa!” Triệu Châu không nói gì, về nói lại với đại chúng: “Cái bà già ở Đài Sơn ấy hôm nay ta đã khám phá ra tung tích rồi!”

9. Địa danh huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, phong cảnh thanh tú. Vương Duy đời Đường đã vẽ nhiều bức tranh về vùng này.

10. Câu nói này của Triệu Châu là để trả lời câu hỏi của một vị tăng: “Vạn pháp đi về một, một đi về đâu?”

11. Có vị xuất gia hỏi thiền sư Triệu Châu: “Nghe nói Ngài có đích thân gập thiền sư Nam Tuyền, phải không?” Triệu Châu nói: “Ở Trấn Châu củ cải lớn lắm”.

Công án thứ hai mươi ba

Cử: Có vị tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tính không?” Đáp: “Không”. Rồi có kẻ hỏi trở lại câu hỏi đó. Châu đáp: “Có”.

Niêm: Hai lần chọn một lần thi.

Tụng: Trước mặt tùy cơ nói hữu, vô
Lời ra, diệt hết cả quần Hồ
Một đời tự phụ trang anh hán
Rốt cuộc vẫn còn chưa trượng phu.

Công án thứ hai mươi bốn

Cử: Triệu Châu nói: “Chốn có Phật thì không được ở lại; chốn không Phật thì phải vượt qua cho mau”.

Niêm: Nước dồn lại thành vụng, gậy đánh xuống thành vết.

Tụng: Nơi có nơi không đều mất hết
Lời kia rốt cuộc vẫn chưa tròn
Sau bữa niêm hoa, tường thuật lại
Không rời nửa bước tới tây phương.

Công án thứ hai mươi lăm

Cử: Thủ Sơn cầm chiếc gậy tre nói: “Gọi cái này là gậy tre thì sẽ nhận một gậy, mà không gọi nói là gậy tre thì sai trái. Vậy thì gọi nó là cái gì?”[12]

Niêm: Đừng cựa quậy; ai cựa quậy sẽ lảnh đủ ba mươi gậy.

Tụng: Phải trái đôi bên phải rạch ròi
Nói cho minh bạch, đấy là ai?
Tuy là đường rộng thênh thang đó
Vẫn còn lận đận lắm chông gai.

12. Sau đó một vị tăng tên Quy Tỉnh đoạt chiếc gậy, liệng xuống đất nói: “Là cái gì?” Thủ Sơn nói: “Cái ông thầy mù chột”. Nghe câu ấy, Quy Tỉnh đại ngộ.

Công án thứ hai mươi sáu

Cử: Có vị tăng hỏi Động Sơn: “Phật là gì?” Động
Sơn nói: “Ba cân gai trên vách”.

Niêm: Gọi là một vật rốt cũng không đúng.

Tụng: Phật vốn là gì? Xin đáp rõ
Ba cân gai ấy của Động Sơn
Tuy không lặn lội phong trần nữa
Vẫn còn lấy cảnh chỉ bày tâm.[13]

Công án thứ hai mươi bảy

Cử: Có vị tăng hỏi Hiện Tử hòa thượng về ý của Tổ sư từ Tây Vức tới. Hiện nói: “Cái đài bàn cúng rượu trước miễu thờ thần”.

Niêm: Chưa phải sư tử con thì còn chưa miễn chạy theo cục đất.

Tụng: Dứt hết cội nguồn không chỗ tựa
Mượn điều trước mắt gọi chiều sâu
Tổ ý nếu là bàn cúng rượu
Gọi quần là khố được hay sao?

Công án thứ hai mươi tám

Cử: Vô Nghiệp quốc sư nói: “Nếu trên đầu một mũi lông mà quan niệm phân biệt phàm thánh chưa dứt thì vẫn chưa miễn được cái cảnh đi vào thai lừa bụng ngựa”. Bạch Vân Đoan hòa thượng nói: “Thiết sử trên đầu một mũi lông mà quan niệm phân biệt phàm thánh đã dứt, thì cũng vẫn chưa miễn được cái cảnh đi vào thai lừa bụng ngựa kia mà”.

Niêm: Đốt núi thì cọp chạy, khua bụi thì rắn hoảng.

Tụng: Lời nói vẫn còn chưa khí phách
Cần chi đập bụi để xà kinh
Trường An lối cũ đà thông thạo
Thì hỏi thăm chi nữa lộ trình?

Công án thứ hai mươi chín

Cử: Huyền Sa khai thị chúng: “Các vị lão túc nói thường hết lòng tiếp vật độ sinh. Giá có một kẻ vừa mù vừa câm vừa điếc đi tới, làm sao tiếp độ? Cầm chùy đưa phất trần lên thì kẻ kia không thấy, giảng thiền tam muội thì kẻ kia không nghe, dạy đọc kinh thì kẻ kia mở miệng không được”.

Niêm: Khát thì uống, đói thì ăn, lạnh thì choàng áo, nóng thì phẩy quạt.

Tụng: Buồn thì xịu xuống; vui, cười lên
Mũi giọc mày ngang lẽ tự nhiên
Nóng lạnh đói no tùy xử sự
Nghi ngờ chi nữa luống ưu phiền ?

13. Về câu hỏi “Ý của Tổ sư từ Tây Vức lại”. Một hôm Triệu Châu trả lời một vị tăng: “Cây bách ở trước sân”. Vị tăng nói: “Xin hòa thượng đừng lấy cảnh chỉ bày tâm”. Triệu Châu nói: “Lão tăng chưa từng lấy cảnh chỉ bày tâm bao giờ”. Vậy thì thế nào là “Ý của Tổ sư từ Tây Vức lại ?” Triệu Châu nói: “Cây bách ở trước sân”.

Công án thứ ba mươi

Cử: Thoại Nham thường tự gọi: “Này chủ nhân ông! Tỉnh tỉnh dậy! Từ nay về sau đừng để cho người ta khinh khi nữa !”

Niêm: Kêu được thì chỉ chảy máu miệng ra thôi, nào có ích gì đâu. Chẳng bằng ngậm miệng lại mà đợi mùa Xuân tàn.

Tụng: Tài lược trầm cơ đã dụng công
Ngờ đâu chưa đáng mặt anh hùng
Nếu quả tướng tài vô địch thật
Mặt trời bắn thử rớt hay không ?

Công án thứ ba mươi mốt

Cử: Tam Thánh [14] nói: “Ta gặp người thì ra, nhưng chẳng phải là ra vì người”. Hưng Hóa nói: “Ta gặp người thì không ra, nếu ra là vì người mà ra”.

Niêm: Một con rùa mù làm bạn với hai con ba ba què.

Tụng: Khi khát nào ai uống nước tương
Cả ngày bụng lép, nói “ăn” suông
Dao sắc đôi chiều, đừng liếm mật
Có ngày đứt lưỡi, chớ khinh thường.

Công án thứ ba mươi hai

Cử: Nam Tuyền thấy Đặng Ẩn Phong tới, liền chỉ vào tịnh bình mà nói: “Tịnh bình là cảnh, ông không nên dính vào cảnh”.

Niêm: Nói rằng có cảnh, nhưng dính vào đâu ?

Tụng: Gương trong thanh tịnh, bụi đâu ra,
Lau rửa mà chi nhọc sức ta
Nhàn tịnh vui theo từng cảnh giới
Cơm xong hãy uống một chung trà.

[14]. Tam Thánh: tên chữ và cũng là danh hiệu của thiền sư Tuệ Nhiên, môn đệ thiền sư Lâm Tế, người biên chép Lâm Tế Lục

Công án thứ ba mươi ba

Cử: Thạch Đầu nói: “Như vậy cũng không được, không như vậy cũng không được, vừa như vậy vừa không như vậy cũng không được”.

Niêm: Chư hạnh vô thường, tất cả đều chứa chấp khổ não.

Tụng: Muốn kể cho người câu chuyện hay
Hiềm vì cửa động đám mây bay
Dù có tài tình trong lúc nói
Vạn dặm còn xa ý chỉ này.

Công án thứ ba mươi tư

Cử: Có vị tăng hỏi: “Cảnh giới Giáp Sơn thế nào?” Sơn đáp: “Sau khi vượn mẹ ôm con về rừng xanh, hoa rụng tơi bời nơi thung lũng biếc”.

Niêm: Đem theo cây gậy, gặp sân khấu ở đâu thì múa chơi ở đó.

Tụng: Giáp Sơn u tịch không ai tới,
Ai thấy cho tường cảnh giới xa?
Gặp bậc siêu phàm đôi mắt tuệ
Thì nghe trống ngọ giữa canh ba.

Công án thứ ba mươi lăm

Cử: Có vị tăng hỏi Mục Châu: “Trong một hơi thở, có thể thông qua một đại tạng kinh không ?” Châu nói: “Có anh chàng bán bánh Tất La [15] thì dắt tới đây mau”.

Niêm: Buông xuôi hai tay mà về được tới nhà, không cần bước mỏi.

Tụng: Kinh tạng chuyển hồi trong hơi thở
Tìm cành nhặt lá để làm chi
Diệu nghĩa thâm uyên đà hiện sáng
Tham vấn sơn tăng được ích gì ?

Công án thứ ba mươi sáu

Cử: Trong một kỳ chúng hội dưới sự chủ tọa của Lâm Tế, cả hai vị thủ tọa của hai thiền đường đồng thời hét lớn. Có vị tăng hỏi: “Như thế còn có chủ khách nữa thôi ?” Lâm Tế nói: “Thì chủ khách rõ ràng đó”.

Niêm: Cũng chỉ là khỉ bạch nói lăng nhăng.

Tụng: Phật tại trời cao reo tiếng gió
Ý sâu công án thế mà thôi
Cũng nhờ phân được rành cương giới
Mới hiểu lòng dân giúp đỡ đời.

15. Tất La là một thứ bánh. Sách Tây Dương Tạp Trở kể chuyện có người nằm mơ vào ăn bánh Tất La trong quán, đến khi tỉnh dậy anh chàng bán quán tới nhà nói: “Ông là khách vào quán ăn hết hai cân bánh Tất La sao chưa trả tiền mà lại bỏ đi ?”

Công án thứ ba mươi bảy

Cử: Huyền Sa nói: “Ta cũng như chủ nhân một thửa ruộng, đem cắt bán hết cho người khác, duy còn lại một cái cây ngay giữa trung tâm, ta giữ trong quyền sở hữu của ta”.

Niêm: Biển lớn không dung nạp tử thi.

Tụng: Nếu quả là người chân liễu ngộ
Thì tâm vô niệm hết phân vân
Dù xem vàng vạc như hơi bụi
Mắt vẫn còn rơi một mảy trần.

Công án thứ ba mươi tám

Cử: Có vị tăng hỏi Thiền Sư Huệ Tư về đại ý Phật pháp. Tư nói: “Gạo ở Lư Lăng giá bao nhiêu?”

Niêm: Bóng trúc quét thềm, bụi trên thềm không lay động
Vầng trăng chiếu nước, mặt nước không vết ghi.

Tụng: Ngữ khí quả là trang hảo hán
Tùy theo căn tính độ quần sinh Lư Lăng giá gạo bao nhiêu nhỉ?
Rút lại gang tay vạn lý trình.

Công án thứ ba mươi chín

Cử: Có vị tăng hỏi Văn Thù [16]: “Vạn pháp đi về một, một đi về đâu?”
Thù nói: “Sông Hoàng Hà chín khúc”.

Niêm: Có lúc vì trăng sáng quá, chẳng biết rằng thuyền đã vượt quá Thương Châu.

Tụng: Chín khúc sông Hoàng khai tuệ nhãn
Đường xa không bước vẫn về nhà
Mở mắt bao lần quan sát lưới
Không dè chim hạc đã bay qua!

Công án thứ bốn mươi
Cử:
Nam Tuyền hỏi Triệu Châu: “Chú là sa di có chủ hay sa di chưa có chủ?” Triệu Châu nói: “Có chủ”. Nam Tuyền hỏi: “Chủ là ai?” Triệu Châu chấp tay trước ngực nói: “Hôm nay trời lạnh, mong hòa thượng giây phút nào cũng có hạnh phúc”.[17]

Niêm: Khéo tay thì dùi cũng như kim.
Kẻ khéo sử dụng thì vẫn thấy tiện lợi.

Tụng: Chú Triệu chấp tay mà nói khéo Né hai thái cực, đứng trung dung Đâu biết Hoa Lam Hàn lệnh thuật Nào hay chàng Hội rút về không?

Công án thứ bốn mươi mốt

Cử: Có vị tăng hỏi Một Am: “Thế nào là nạp y hạ
sự?”[18] Am nói: “Kim đâm không thủng”.

Niêm: Tĩnh tọa không còn một mảy bụi, hư không chẳng có lối thông thương.

Tụng: Mũi sắt dùi đồng xuyên chẳng thủng
Cầm lên mềm mại như bông tơ
Hư không lành lặn không khe hở
Đêm về hoa mộc nở thơm tho.

Công án thứ bốn mươi hai

Cử: Bàng cư sĩ [19] tuyên bố:
“Đây là trường thi tuyển Phật, ai tâm không thì trúng tuyển vinh quy”.

Niêm: Danh đề tháp nhạn, không cho nạp quyển trắng đâu nhé.20

Tụng: Lông chim mà kết được giày rơm
Tuyển Phật trường kia vượt vũ môn
Nếu nói tâm không thì trúng tuyển
Coi chừng bầm tím vết roi đòn.

Công án thứ bốn mươi ba

Cử: Từ Minh hỏi Chân Điểm Trụ: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Chân nói: “Không có mây sinh trên đỉnh núi mà có mặt trăng rụng trong lòng sóng nước”. Minh hét: “Đầu bạc răng long mà còn có kiến giải tệ như thế ư?” Chân khóc một hồi rồi nói: “Như thế tôi quả thật chẳng biết thế nào là đại ý Phật pháp”. Từ Minh nói: “Không có mây sinh trên đỉnh núi mà có mặt trăng rụng trong lòng sóng nước”. Chân bèn đại ngộ.

Niêm: Kẻ nhàn giả thì cho đó là nhàn, kẻ trí giả thì cho đó là trí.

Tụng: Đây đó cùng chung một điệu đàn
Lòng xin trao gửi với tri âm
Non cao sông rộng dù sai khác
Trăng sáng mây quang nghĩ đại đồng.

Chú thích:

16. Văn Thù Viên Minh, người Phúc Châu. Sau khi đắc pháp đi du hành tại Ngũ Đài Sơn cảm thụ được sự hóa hiện của Văn Thù Bồ Tát, nên ở lại lập Văn Thù Viện. Sống tới 136 tuổi.

17. Bích Nham tập

18. Chiếc áo tầm thường của tăng sĩ kết lại bằng nhiều mảnh vải vụn.

19. Bàng cư sĩ, tên là Bàng Uẩn người Hồ Nam, tinh thâm
Nho học, quy y Phật pháp, tham học với Thạch Đầu hòa thượng.

20. Bất dung duệ bạch: không được nộp quyển trắng. Quyển
trắng là quyển của thí sinh không làm được bài nào.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10419)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9692)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23636)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11856)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10735)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10084)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28705)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21633)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29429)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11400)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12378)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26343)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31047)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25354)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22824)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13059)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21972)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12234)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14155)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12465)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11259)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10698)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38083)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13679)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13475)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12357)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12592)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12062)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10728)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11219)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23370)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33214)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12808)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7398)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12193)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12627)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12056)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12874)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11951)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10708)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11380)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11676)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10884)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10811)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10379)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10494)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10717)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10635)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11919)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10702)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12743)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10811)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11400)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11098)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11642)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10518)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11267)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12311)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11178)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12492)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11431)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11516)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11309)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11595)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 13004)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14183)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11017)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11877)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13179)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11587)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11442)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10938)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11294)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10825)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11064)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10898)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10270)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17123)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11016)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10875)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10421)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10768)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11391)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11089)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10584)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11383)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10360)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10657)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12777)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19282)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19723)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21306)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20348)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19773)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19056)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20500)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21101)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17941)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21858)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant