Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Ban Thiền

20 Tháng Giêng 201300:00(Xem: 7222)
An Ban Thiền

THIỀN ĐẠI THỪA
THIỀN QUÁN HẠNH CỦA HIỂN GIÁO
(Y GIÁO TU TÂM THIỀN)
AN-BAN THIỀN
Thích Thông Thiền

An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định; thành phương pháp tu tập thiền định đầu tiên của thời Hán, Ngụy và Tấn. Kinh này nói về tu thiền sổ tức, ngoài ra cũng bao gồm các pháp thiền khác, nhưng quan trọng nhất là điều hòa hơi thở.

Sau khi ngài An Thế Cao truyền kinh này, ngài tự tu và cũng dạy cho người khác tu. Ngài An Thế Cao đã do tu thiền định mà hiện các thứ thần thông, trí huệ cũng lớn, khiến cho mọi người đối với ngài ngưỡng mộ tin tưởngsùng kính, kinh này trở thành pháp căn bản tu thiền của thời đó. Vào thời Tam Quốc, ngài Khương Tăng Hội, từng làm chú giảitu tập An-ban thiền; thời Đông Tấn ngài Chi Đạo Lâm được các vị trí thức suy tôn trọng vọng cũng để ý đến thiền, có chú giải An-ban Thủ Ý, Đạo An cũng từ nơi ngài Trúc Pháp Tế và ngài Chi Đàm thọ nhận pháp thiền Ấm Trì Nhập, chú giải các kinh Bát-nhã, Đạo Hành, Mật Tích, An-ban. Nhưng ở thời của Đạo An, kinh Di-lặc Thượng Sanh cũng đã truyền vào Trung Quốc, ngài khuyến khích đệ tử là Pháp Ngộ thệ nguyện sanh về Đâu-suất, đây là do Thiền mà hồi hướng về Tịnh Độ. Người bạn của ngài Đạo An, là ẩn sĩ Vương gia tu tiên luyện khí; do đó người đời sau cho rằng thiền của Phật giáo xuất phát từ đạo Tiên; thật sự thì thiền điều tức của Đạo An thời đó, tuy gần giống với pháp tu Tiên, nhưng nguyên là của Phật giáo truyền đến.

Trước ngài Đạo An còn có ngài Bạch Tăng Quang ở núi Thạch Thành tập định, mỗi lần trải qua bảy ngày mới xả định. Về sau, trải qua bảy ngày chưa xả định, đệ tử xem kỹ mới biết ngài nhập định mà tịch. Lại như ngài Trúc Đàm Du ở núi Thạch Thành, nhập thiền định trong thất đá. Ngài Tăng Hiển nhập thiền mấy ngày cũng không có vẻ gì đói khát, ở trong định lại còn thấy Phật A-di-đà, lúc mạng chung niệm Phật sanh về Tây Phương. Phong trào thiền này đều nhận các kinh An-ban Thủ Ý Ấm Trì Nhập làm điểm xuất phát, do đó gọi là An-ban Thiền.

I. AN THẾ CAO với sự phiên dịch thiền kinh :

Vào thời Hoàn Đế đời Đông Hán, có An Thanh tự Thế Cao là thái tử của nước An Tức. Thuở bé Ngài đã từng được khen là hiếu hạnh, bẩm tánh thông mẫn, chuyên tâm hiếu học. Các sách vở nước ngoài từ thiên văn cho đến sách thuốc, Ngài thảy đều thông suốt. Sau khi vua cha băng hà, Ngài nhường ngôi lại cho người chú, xuất gia tu đạo. Niên hiệu Kiến Hoà thứ hai (148), Ngài đến Lạc Dương dịch Kinh An Ban Thủ Ý, được giới tu thiền chú trọng, có thể xem đây là bước mở đầu cho thiền học Trung Quốc. An Thế Cao vốn là người tinh thông kinh luận Tiểu thừa, cũng hành trì thiền kinh, đạt đến chỗ vi diệu của nó.

Theo Cao Tăng Truyện q.1 ghi: An Thế Cao hiểu rộng kinh tạng, nhất là tinh thông A-tỳ-đàm học, hành trì thiền kinh, đạt đến chỗ vi diệu. Sau đó du phương hoằng hoá, đi khắp các nước, vào thời Hoàn Đế đời Đông Hán mới đến Trung Quốc……., Ngài dịch kinh An Ban Thủ Ý, Kinh Ấm Trì Nhập, lớn nhỏ gồm hai mươi môn và một trăm sáu mươi phẩm. Ban đầu các vị Tam tạng nước ngoài giúp Ngài soạn thuật “kinh yếu” làm hai mươi bảy chương, vài dịch giả giỏi giúp phân tích biên tập thành bảy chương dịch ra Hán văn tức Đạo Địa Kinh.

Từ thời Hán Hoàn Đế, niên hiệu Kiến Hoà thứ hai (148) đến thời Hán Linh Đế niên hiệu Kiến Ninh (168-171), khoảng hơn hai mươi năm, Ngài dịch trên ba mươi bộ kinh luận. Hiện còn Phật Thuyết Đại An ban Thủ Ý Kinh 2q, Thiền Hành Pháp Tưởng Kinh 1q, Đạo Địa Kinh 1q. Trong ba kinh ấy, Phật Thuyết Đại An Ban Thủ Ý Kinh được giới tu thiền đặc biệt xem trọng. Khương Tăng Hội, Đạo An đều đem kinh này ra chú giải và sớ thích.

Phần đông chúng ta đều cho rằng đạo Phật có mặt ở Việt Nam là do du nhập từ Trung Quốc, nên thiền học Việt Nam cũng cùng chung số phận như thế. Mọi người đều không ngờ rằng trước khi Tổ Đạt Ma mang Thiền tông sang Trung Quốc (thế kỷ VI) thì ở Việt Nam (thế kỷ III) đã có thiền học gần ba thế kỷ rồi, thiền học đó lại được truyền ngược lại từ Việt Nam sang Trung Quốc. Và người phát huy nền thiền học đó cũng như hoằng truyền đạo Phật tại Việt Nam chính là thiền sư Khương Tăng Hội.

II. KHƯƠNG TĂNG HỘI

1. Thế nào là đạo Phật được truyền thẳng từ Ấn Độ sang Việt Namthiền sư Khương Tăng Hội là người hoằng truyền đạo Phật tại Việt Nam?

Đạo Phật vào Việt Nam bằng đường biển đã xảy ra từ thế kỷ I trước Thiên Chúa giáng sinh. Trong thế kỷ tiếp theo, tức thế kỷ I sau Thiên Chúa giáng sinh, đạo Phật đã tiếp tục đi vào Việt Nam bằng đường hàng hải do các nhà buôn đem tới. Thường thường khi đi buôn, các thương gia Ấn Độ đem theo những bảo tháp nhỏ đựng xá lợi Phật tượng trưng cho đức Phật và đã thực hành nghi thức đọc kinh, lễ bái trước những bảo tháp này. Vì thế trong thời gian họ lưu lại Giao Chỉ (Việt Nam), đã khiến cho người Việt biết tới Đạo Phật.

Từ Giao Chỉ có nghĩa là vùng giao lưu của hai nền văn hoá. Văn hoá Ấn Độ và văn hoá Trung Hoa. Có những nước nằm dưới ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, trong đó có nước ta. Sau này, khi nước ta bị nhà Hán xâm chiếm, dân ta mới bắt đầu thu thập những yếu tố văn hoá Trung Hoa. Nước ta trước đó có tên là Nam Việt. Rồi từ Nam Việt đổi thành Giao Chỉ, sau đó đổi thành Giao Châu khi bị nội thuộc nhà Hán. Và chính trong thời đại nhà Hán, đạo Phật từ Ấn Độ được truyền sang Việt Nam, truyền trực tiếp chứ không phải truyền sang ngõ Trung Quốc.

Thế kỷ III, Khương Tăng Hội được sinh ra ở Giao Châu lớn lên đi tu, học tiếng Phạn, học Phật tại Giao Châu, rồi thiết lập đạo tràng, huấn luyện đồ chúngphiên dịch kinh điển cũng tại Giao Châu. Trung tâm hành đạo của Ngài có thể đã dược thiết lập ở chùa Diên Ứng (chùa Dâu hay chùa Pháp Vân) ở thủ phủ Luy Lâu, tức phủ Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Tăng sĩ người Giao Châu cư trú đông đảo tại đây và tu tập hành đạo dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tăng Hội. Tại trung tâm này cũng có hai vị cư sĩ từ kinh đô Lạc Dương tỵ nạn chạy về, đó là Trần Tuệ và Bì Nghiệp. Cả hai đều là đệ tử tại gia của thiền sư An Thế CaoLạc Dương.

2. Thế nào là thiền học đại thừa được phát huy ở Việt Nam vào thế kỷ III?

Thiền học là một từ rất bao quát, chỉ chung cho Thiền nguyên thỉ, Thiền đại thừaThiền tông. Ở đây muốn xác định rõ nên mới ghi là Thiền học đại thừa. Ở trên chúng tôigiới thiệu về An Thế Cao với việc phiên dịch thiền kinh. Những kinh được Thế Cao dịch tại Lạc Dương đã được mang tới và lưu hành tại Giao Châu trong thời gian Khương Tăng Hội hành đạo tại đây. Trong đó gồm một số kinh thiền như kinh An Ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập có tính cách nguyên thỉ. Chính Khương Tăng Hội đã giới thiệu kinh An Ban Thủ Ý theo tinh thần đại thừa và là người phát huy thiền học đại thừa đầu tiên ở Giao Châu (Việt Nam).

Truyền thống của thiền sư Khương Tăng Hội thành lập đã trở nên một thiền phái vững mạnh, tồn tại mãi đến đời Lý và sau đó đến nhà Trần mới hoà nhập cùng các thiền phái như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn ThôngThảo Đường v.v… vào thiền phái Trúc Lâm. Sách Thiền Uyển Tập Anh có ghi rằng người đại diện cho thiền phái Tăng Hội ở thế kỷ XII là thiền sư Lôi Hà Trạch.

Ta biết Tăng Hội đã dịch Tiểu Phẩm Bát Nhã (tức Đạo Hành hay Bát Thiên Tụng Bát Nhã), kinh căn bảnxuất hiện sớm nhất của đại thừa. Trong kinh này các quan niệm về KhôngChân như của đại thừa đã được diễn tả một cách đầy đủ và chu đáo. Thiền học tại Việt Nam do đó đã khởi nguyên bằng thiền đại thừa, không phải là thiền nguyên thỉ như ở trung tâm Lạc Dương. Mở đầu bài tựa kinh An Ban Thủ Ý, ngài viết: “An Ban tức là đại thừa của chư Phật nhằm cứu vớt chúng sanh đang trôi nổi”. Chính vì ảnh hưởng sâu đậm của giáo lý KhôngChân như của đại thừa mà Tăng Hội đã diễn tả về tâm như sau trong bài tựa Kinh An Ban Thủ Ý, “Tâm không hình sắc, không có âm thanh, không có trước sau; tâm thâm sâu vi tế không tóc tơ hình tướng, cho nên Phạm Thiên, Đế Thích và các tiên thánh khác cũng không thể thấy được; kẻ phàm tục không thể thấy được sự hoá sinh từ hình thức này sang hình thức khác của các chủng tử khi thì hiện rõ khi thì ẩn khuất trong tâm. Đó gọi là Ấm vậy”. Trong bài tựa của Kinh Pháp Cảnh, Tăng Hội cũng nói về Tâm như sau: “Tâm là kho tàng căn bản của các pháp” , như vậy Tăng Hội không những đã chịu ảnh hưởng của Bát Nhã mà còn chịu ảnh hưởng của Duy Thức nữa.

Chính ngài cũng soạn Lục Độ Tập Kinh, một tác phẩm sưu khảo biên tập, trong đó có nhiều đoạn lược dịch từ nhiều kinh điển và có những đoạn hoàn toàn do Ngài viết, ví như đoạn nói về thiền. Ngài nói về 4 trình tự của thiền (tứ thiền) như phương pháp để chính tâm nhất ý, tập trung điều thiện duy trì trong tâm, ý thức những niệm dơ bẩn để mà khử diệt. Chính giáolục độcăn bản của giáo lý đại thừa.

Ta biết rằng thiền đại thừa khác với thiền nguyên thỉ ở chỗ thiền đại thừa xem diệu tâm chân nhưbản thể của giác ngộ. Khương Tăng Hội đã thực sự khơi mở cho thiền học đại thừa tại Giao Chỉ (Việt Nam) bằng cách nói tới tâm như là nguồn gốc và bản thể chân thật của vạn pháp.

3. Thế nào là thiền học đại thừa được truyền ngược lại từ Việt Nam sang Trung Quốc?

Trong Cao Tăng Truyện ghi rằng khi thiền sư Tăng Hội đến Kiến Nghiệp, tức kinh đô của nước Ngô thì chưa có một vị Tăng sĩ nào tới đó. Ngài đã xuất gia, học Phật, học tiếng Phạn và dịch kinh đều ở tại Giao Châu, rồi sau đó đi sang nước Đông Ngô truyền đạo. Đạo Phật ở Trung Hoa, nhất là ở miền Giang Tả, sở dĩ được thành lập một cách có hệ thống đó là nhờ có thiền sư Tăng Hội từ Giao Châu đi qua. Chúng ta nên nhớ sách Lục Diệu Pháp Môn do Đại sư Trí Khải trứ tác là vào đời Tuỳ (581-618), trong khi tư tưởng thiền học này (Lục Diệu Pháp Môn) đã được thiền sư Tăng Hội trình bày tại Giao Châu (Việt Nam) trước đó vào đời Tam Quốc (220-280), nghĩa là đi trước Trung Quốc gần 300 năm.

4. Khương Tăng Hội giảng giải thiền học đại thừa ra sao? (Sự chuyển tiếp từ nguyên thủy sang Đại thừa)

Sa môn Khương Tăng Hội, tổ tiên người nước Khương Cư (nay là một dãy từ Bắc chí Trung của Tân Cương), nhiều đời ở Thiên Trúc. Cha Ngài nhân việc đi buôn nên dời sang Giao Chỉ. Năm Ngài 10 tuổi, song thân đều mất, liền đi xuất gía, hiểu rõ Tam Tạng, học rộng biết nhiều, thêm giỏi văn học. Đời Đông Ngô, niên hiệu Xích Ô thứ 10 (247) Ngài đến Kiến Nghiệp, dựng lập am tranh, bài trí tôn tượng để hành đạo. Do Ngài nguyện được xá-lợi để dâng lên Tôn Quyền nên Tôn Quyền xây dựng chùa tháp cho Ngài. Vì trước đã chưa có chùa Phật nên gọi là Kiến Sơ Tự. Bởi Phật pháp ở miền Giang Tả (phía Tây của sông Dương Tử) rất hưng thịnh nên Ngài ở chùa Kiến Sơ để dịch kinh. Ta không thể nào biết được hết những tác phẩm dịch thuật và sáng tác của Khương Tăng Hội. Trong bản mục lục kinh điển của Đạo An có một số dịch phẩm không mang tên dịch giả, nhưng trong những bản mục lục đời sau đó thì người ta lại gán những dịch phẩm kia cho An Thế Cao. Có thể trong số đó có những dịch phẩm của Tăng Hội. Những tác phẩm mà ta biết được có liên hệ đến Tăng Hội như sau:

- Lục Độ Tập Kinh, Tăng Hội biên tập.

- Pháp Cảnh Kinh, An Huyền dịch, Tăng Hội chú sớ và đề tựa.

- Đạo Thọ Kinh, Chi Khiêm dịch, Tăng Hội chú sớ và đề tựa.

- Nê Hoàn Phạm Bối , Tăng Hội biên tập (không còn)

- Lục Độ Yếu Mục, Tăng Hội biên tập (không còn)

- Ngô Phẩm (Đạo Hành Bát Nhã), Tăng Hội dịch (không còn)

- An Ban Thủ Ý Kinh, An Thế Cao dịch, Tăng Hội và Trần Tuệ chú sớ, Tăng Hội đề tựa.

Những lời giảng giải về thiền giáo trong phần chú giải kinh An Ban Thủ Ý, được giới tu thiền đương thời xem là khuôn mẫu. Ở đây, xin chép lại một đoạn trong bài tựa kinh An Ban Thủ Ý của Khương Tăng Hội rút từ “Xuất Tam Tạng Ký Tập” quyển 6 để thấy rõ Khương Tăng Hội xem trọng phương pháplợi ích của việc tu thiền.

An-ban là đại thừa của chư Phật nhằm cứu vớt chúng sanh trôi nổi. Nó có sáu việc: Sổ, tuỳ, chỉ, quán, hoàn, tịnh để trị sáu tình. Tình có trong có ngoài. Bên trong gồm: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Bên ngoài gồm: sắc, tiếng, hương, vị, xúc, tà niệm. … Trong khoảng búng tay, có 960 lần chuyển niệm. Một ngày một đêm tâm có thể trải qua 13 ức niệm ... Cho nên phải thực tập lắng lòng buộc ý vào hơi thở và đếm từ 1 đến 10 (SỔ TỨC). Trong thời gian 10 hơi thở ấy mà đếm chẳng lầm lộn là ý bắt đầu được định. Định nhỏ thì 3 ngày, định lớn thì 7 ngày. Trong thời gian ấy tâm vắng lặng không có niệm nào khác, lặng yên như chết gọi là Sơ thiền.

Thiền nghĩa là loại trừ. Loại trừ cái tâm có 13 ức uế niệm để đạt tới 8 pháp: Sổ, định, chuyển, niệm, trước, tuỳ, xúc và trừ (đếm, tập trung, đổi, nhớ, gắn vào, theo, chạm và loại trừ). Tám pháp này đại khái chia làm hai phần: Tâm ý sở dĩ định được là nhờ theo dõi hơi thở (TUỲ TỨC), mà muốn theo dõi được hơi thở được dễ dàng thì nên đếm hơi thở . Trừ hết bụi nhơ thì tâm ý dần dần trong sạch, đó gọi là Nhị thiền.

Lại bỏ phép theo dõi hơi thở đi, chú tâm nơi chóp mũi, đó gọi là CHỈ. Được hạnh chỉ rồi, các thứ cấu uế của ba độc, bốn đường (sanh, lão, bệnh, tử), năm ấm, sáu mờ (tức lục trần) đều bị tiêu diệt. Lúc bấy giờ, tâm sáng rực rỡ, hơn cả hạt châu minh nguyệt. Những niệm dâm tà làm nhơ tâm như gương dưới bùn, cáu bẩn bám dơ nên soi trời chiếu đất đều chẳng thấy. Đạt đến địa vị Thánh thì thông suốt, chiếu soi muôn cõi, dù lớn như đất trời cũng không hề thấy lớn. Sở dĩ như vậy là do cáu bẩn. Các thứ cáu bẩn làm nhơ tâm còn hơn bụi phủ che gương. Nếu có thầy hay chùi mài gột rửa bụi che khiến mỏng dần, gột đến mức không còn bụi; lúc đó đưa gương lên để soi, không tơ hào nào là không hiện rõ trên mặt kính. Cáu bẩn hết thì ánh sáng hiện ra, đó là chuyện tất nhiên. Trái lại, tình tràn đầy, ý tán loạn, thì trong số muôn niệm khởi lên mà ta không nhận biết được một niệm, giống như ở chợ mà nghe lao xao một lần bao nhiêu tiếng ồn ào rồi trở về ngồi yên mà cố nhớ lại thì không thể nhớ được một lời nào. Ấy cũng bởi tâm nhơ đục che lấp tánh thông sáng. Nếu từ chỗ vắng, tâm tư lặng lẽ không còn ham muốn tà vạy. Khi ấy nghiêng tai lắng nghe, muôn câu không mất, nửa lời nhớ rõ là do tâm lặng ý trong. Phép quán niệm hơi thở để dừng tâm trụ ở chóp mũi. Đó là Tam thiền.

Xoay trở lại quán chiếu thân mình (QUÁN), từ đầu đến chân, xem kỹ tới lui các chất dơ trong người và thấy được rõ ràng các lỗ chân lông dày đặc trong toàn thân và các chất lỏng rỉ ra từ các lỗ chân lông ấy. Nhờ quán như thế, biết rõ từ trời đât con người, thịnh cũng như suy, và ta sẽ thấy tính cách không còn không mất của chúng. Lúc ấy niềm tin nơi Tam bảo trở nên vững chải, các thứ mê mờ đều trở nên trong sáng. Đó là Tứ thiền.

Nhiếp tâm trở về chánh niệm, các thứ ngăn che đều tiêu diệt, đó gọi là HOÀN.

Những thứ ham muốn nhơ bẩn thảy đều vắng bặt thì tâm không còn vọng tưởng, gọi đó là TỊNH.

Hành giả đạt được phép An-ban, tâm họ liền sáng. Đem cái sáng ấy mà quán chiếu thì không có chỗ tối tăm nào mà không soi tới. Việc vô số kiếp đã qua và sắp tới, người vật đổi thay, hiện tại các cõi trong đó có đức Thế tôn giáo hoá, đệ tử tụng tập, dù xa tới đâu cũng thấy. Tất cả tiếng đều nghe. Người ấy đạt đến cái tự do lớn, không còn bị trói buộc bởi ý niệm còn mất. Thấy được cái vô cùng lớn như núi Tu-di trong cái vô cùng nhỏ như lỗ chân lông, chế ngự được trời đất, làm chủ được thọ mạng. Thần lực bây giờ trở nên dũng mãnh, có thể đánh bại cả thiên binh, chuyển động được thế giới tam thiên, xê dịch được muôn ngàn cõi nước, được tám thứ chẳng thể nghĩ bàn, trời chẳng thể lường, thần thông đức tướng vô hạn. Đó là nhờ sáu hạnh (Sổ tức, Tuỳ tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh).

Thuở xưa Đức Thế Tôn muốn nói kinh này, vũ trụ chấn động, cõi trời người đổi sắc. Suốt trong ba ngày Phật trú trong An-ban, không ai tiếp xúc với Ngài. Khi ấy Đức Thế tôn hoá làm hai thân, một là Báo thân, một là Ứng thân để diễn bày chân nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Trung Quốc Thiền Tông Đại Toàn.

- Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (Nguyễn Lang).

- Phật Quang Đại Từ Điển

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11165)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10971)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11205)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11264)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14264)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12492)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26359)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11713)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29274)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11662)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10795)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11104)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10959)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10790)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11329)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10791)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12259)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11300)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10062)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11410)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13424)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11263)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11478)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12699)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13783)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13198)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12817)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12175)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30145)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38136)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24908)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10976)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11741)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10681)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11233)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11538)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12919)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12105)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11331)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10217)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11811)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11211)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10907)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13086)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10203)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10886)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10948)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14543)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10698)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21969)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12080)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11436)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30181)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19597)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20587)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12564)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12563)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21202)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13260)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14475)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30428)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28029)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28375)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20967)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28688)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27243)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21960)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21494)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26233)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21636)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23412)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26412)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23208)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19853)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22943)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21173)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19974)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15429)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39251)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25682)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14135)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26078)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22527)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29144)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22561)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22891)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13215)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23202)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13173)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28972)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30503)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14251)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26272)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33235)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35572)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8648)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13322)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30674)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22146)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
(Xem: 21783)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant