Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Ban Thiền

20 Tháng Giêng 201300:00(Xem: 7219)
An Ban Thiền

THIỀN ĐẠI THỪA
THIỀN QUÁN HẠNH CỦA HIỂN GIÁO
(Y GIÁO TU TÂM THIỀN)
AN-BAN THIỀN
Thích Thông Thiền

An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định; thành phương pháp tu tập thiền định đầu tiên của thời Hán, Ngụy và Tấn. Kinh này nói về tu thiền sổ tức, ngoài ra cũng bao gồm các pháp thiền khác, nhưng quan trọng nhất là điều hòa hơi thở.

Sau khi ngài An Thế Cao truyền kinh này, ngài tự tu và cũng dạy cho người khác tu. Ngài An Thế Cao đã do tu thiền định mà hiện các thứ thần thông, trí huệ cũng lớn, khiến cho mọi người đối với ngài ngưỡng mộ tin tưởngsùng kính, kinh này trở thành pháp căn bản tu thiền của thời đó. Vào thời Tam Quốc, ngài Khương Tăng Hội, từng làm chú giảitu tập An-ban thiền; thời Đông Tấn ngài Chi Đạo Lâm được các vị trí thức suy tôn trọng vọng cũng để ý đến thiền, có chú giải An-ban Thủ Ý, Đạo An cũng từ nơi ngài Trúc Pháp Tế và ngài Chi Đàm thọ nhận pháp thiền Ấm Trì Nhập, chú giải các kinh Bát-nhã, Đạo Hành, Mật Tích, An-ban. Nhưng ở thời của Đạo An, kinh Di-lặc Thượng Sanh cũng đã truyền vào Trung Quốc, ngài khuyến khích đệ tử là Pháp Ngộ thệ nguyện sanh về Đâu-suất, đây là do Thiền mà hồi hướng về Tịnh Độ. Người bạn của ngài Đạo An, là ẩn sĩ Vương gia tu tiên luyện khí; do đó người đời sau cho rằng thiền của Phật giáo xuất phát từ đạo Tiên; thật sự thì thiền điều tức của Đạo An thời đó, tuy gần giống với pháp tu Tiên, nhưng nguyên là của Phật giáo truyền đến.

Trước ngài Đạo An còn có ngài Bạch Tăng Quang ở núi Thạch Thành tập định, mỗi lần trải qua bảy ngày mới xả định. Về sau, trải qua bảy ngày chưa xả định, đệ tử xem kỹ mới biết ngài nhập định mà tịch. Lại như ngài Trúc Đàm Du ở núi Thạch Thành, nhập thiền định trong thất đá. Ngài Tăng Hiển nhập thiền mấy ngày cũng không có vẻ gì đói khát, ở trong định lại còn thấy Phật A-di-đà, lúc mạng chung niệm Phật sanh về Tây Phương. Phong trào thiền này đều nhận các kinh An-ban Thủ Ý Ấm Trì Nhập làm điểm xuất phát, do đó gọi là An-ban Thiền.

I. AN THẾ CAO với sự phiên dịch thiền kinh :

Vào thời Hoàn Đế đời Đông Hán, có An Thanh tự Thế Cao là thái tử của nước An Tức. Thuở bé Ngài đã từng được khen là hiếu hạnh, bẩm tánh thông mẫn, chuyên tâm hiếu học. Các sách vở nước ngoài từ thiên văn cho đến sách thuốc, Ngài thảy đều thông suốt. Sau khi vua cha băng hà, Ngài nhường ngôi lại cho người chú, xuất gia tu đạo. Niên hiệu Kiến Hoà thứ hai (148), Ngài đến Lạc Dương dịch Kinh An Ban Thủ Ý, được giới tu thiền chú trọng, có thể xem đây là bước mở đầu cho thiền học Trung Quốc. An Thế Cao vốn là người tinh thông kinh luận Tiểu thừa, cũng hành trì thiền kinh, đạt đến chỗ vi diệu của nó.

Theo Cao Tăng Truyện q.1 ghi: An Thế Cao hiểu rộng kinh tạng, nhất là tinh thông A-tỳ-đàm học, hành trì thiền kinh, đạt đến chỗ vi diệu. Sau đó du phương hoằng hoá, đi khắp các nước, vào thời Hoàn Đế đời Đông Hán mới đến Trung Quốc……., Ngài dịch kinh An Ban Thủ Ý, Kinh Ấm Trì Nhập, lớn nhỏ gồm hai mươi môn và một trăm sáu mươi phẩm. Ban đầu các vị Tam tạng nước ngoài giúp Ngài soạn thuật “kinh yếu” làm hai mươi bảy chương, vài dịch giả giỏi giúp phân tích biên tập thành bảy chương dịch ra Hán văn tức Đạo Địa Kinh.

Từ thời Hán Hoàn Đế, niên hiệu Kiến Hoà thứ hai (148) đến thời Hán Linh Đế niên hiệu Kiến Ninh (168-171), khoảng hơn hai mươi năm, Ngài dịch trên ba mươi bộ kinh luận. Hiện còn Phật Thuyết Đại An ban Thủ Ý Kinh 2q, Thiền Hành Pháp Tưởng Kinh 1q, Đạo Địa Kinh 1q. Trong ba kinh ấy, Phật Thuyết Đại An Ban Thủ Ý Kinh được giới tu thiền đặc biệt xem trọng. Khương Tăng Hội, Đạo An đều đem kinh này ra chú giải và sớ thích.

Phần đông chúng ta đều cho rằng đạo Phật có mặt ở Việt Nam là do du nhập từ Trung Quốc, nên thiền học Việt Nam cũng cùng chung số phận như thế. Mọi người đều không ngờ rằng trước khi Tổ Đạt Ma mang Thiền tông sang Trung Quốc (thế kỷ VI) thì ở Việt Nam (thế kỷ III) đã có thiền học gần ba thế kỷ rồi, thiền học đó lại được truyền ngược lại từ Việt Nam sang Trung Quốc. Và người phát huy nền thiền học đó cũng như hoằng truyền đạo Phật tại Việt Nam chính là thiền sư Khương Tăng Hội.

II. KHƯƠNG TĂNG HỘI

1. Thế nào là đạo Phật được truyền thẳng từ Ấn Độ sang Việt Namthiền sư Khương Tăng Hội là người hoằng truyền đạo Phật tại Việt Nam?

Đạo Phật vào Việt Nam bằng đường biển đã xảy ra từ thế kỷ I trước Thiên Chúa giáng sinh. Trong thế kỷ tiếp theo, tức thế kỷ I sau Thiên Chúa giáng sinh, đạo Phật đã tiếp tục đi vào Việt Nam bằng đường hàng hải do các nhà buôn đem tới. Thường thường khi đi buôn, các thương gia Ấn Độ đem theo những bảo tháp nhỏ đựng xá lợi Phật tượng trưng cho đức Phật và đã thực hành nghi thức đọc kinh, lễ bái trước những bảo tháp này. Vì thế trong thời gian họ lưu lại Giao Chỉ (Việt Nam), đã khiến cho người Việt biết tới Đạo Phật.

Từ Giao Chỉ có nghĩa là vùng giao lưu của hai nền văn hoá. Văn hoá Ấn Độ và văn hoá Trung Hoa. Có những nước nằm dưới ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, trong đó có nước ta. Sau này, khi nước ta bị nhà Hán xâm chiếm, dân ta mới bắt đầu thu thập những yếu tố văn hoá Trung Hoa. Nước ta trước đó có tên là Nam Việt. Rồi từ Nam Việt đổi thành Giao Chỉ, sau đó đổi thành Giao Châu khi bị nội thuộc nhà Hán. Và chính trong thời đại nhà Hán, đạo Phật từ Ấn Độ được truyền sang Việt Nam, truyền trực tiếp chứ không phải truyền sang ngõ Trung Quốc.

Thế kỷ III, Khương Tăng Hội được sinh ra ở Giao Châu lớn lên đi tu, học tiếng Phạn, học Phật tại Giao Châu, rồi thiết lập đạo tràng, huấn luyện đồ chúngphiên dịch kinh điển cũng tại Giao Châu. Trung tâm hành đạo của Ngài có thể đã dược thiết lập ở chùa Diên Ứng (chùa Dâu hay chùa Pháp Vân) ở thủ phủ Luy Lâu, tức phủ Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Tăng sĩ người Giao Châu cư trú đông đảo tại đây và tu tập hành đạo dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tăng Hội. Tại trung tâm này cũng có hai vị cư sĩ từ kinh đô Lạc Dương tỵ nạn chạy về, đó là Trần Tuệ và Bì Nghiệp. Cả hai đều là đệ tử tại gia của thiền sư An Thế CaoLạc Dương.

2. Thế nào là thiền học đại thừa được phát huy ở Việt Nam vào thế kỷ III?

Thiền học là một từ rất bao quát, chỉ chung cho Thiền nguyên thỉ, Thiền đại thừaThiền tông. Ở đây muốn xác định rõ nên mới ghi là Thiền học đại thừa. Ở trên chúng tôigiới thiệu về An Thế Cao với việc phiên dịch thiền kinh. Những kinh được Thế Cao dịch tại Lạc Dương đã được mang tới và lưu hành tại Giao Châu trong thời gian Khương Tăng Hội hành đạo tại đây. Trong đó gồm một số kinh thiền như kinh An Ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập có tính cách nguyên thỉ. Chính Khương Tăng Hội đã giới thiệu kinh An Ban Thủ Ý theo tinh thần đại thừa và là người phát huy thiền học đại thừa đầu tiên ở Giao Châu (Việt Nam).

Truyền thống của thiền sư Khương Tăng Hội thành lập đã trở nên một thiền phái vững mạnh, tồn tại mãi đến đời Lý và sau đó đến nhà Trần mới hoà nhập cùng các thiền phái như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn ThôngThảo Đường v.v… vào thiền phái Trúc Lâm. Sách Thiền Uyển Tập Anh có ghi rằng người đại diện cho thiền phái Tăng Hội ở thế kỷ XII là thiền sư Lôi Hà Trạch.

Ta biết Tăng Hội đã dịch Tiểu Phẩm Bát Nhã (tức Đạo Hành hay Bát Thiên Tụng Bát Nhã), kinh căn bảnxuất hiện sớm nhất của đại thừa. Trong kinh này các quan niệm về KhôngChân như của đại thừa đã được diễn tả một cách đầy đủ và chu đáo. Thiền học tại Việt Nam do đó đã khởi nguyên bằng thiền đại thừa, không phải là thiền nguyên thỉ như ở trung tâm Lạc Dương. Mở đầu bài tựa kinh An Ban Thủ Ý, ngài viết: “An Ban tức là đại thừa của chư Phật nhằm cứu vớt chúng sanh đang trôi nổi”. Chính vì ảnh hưởng sâu đậm của giáo lý KhôngChân như của đại thừa mà Tăng Hội đã diễn tả về tâm như sau trong bài tựa Kinh An Ban Thủ Ý, “Tâm không hình sắc, không có âm thanh, không có trước sau; tâm thâm sâu vi tế không tóc tơ hình tướng, cho nên Phạm Thiên, Đế Thích và các tiên thánh khác cũng không thể thấy được; kẻ phàm tục không thể thấy được sự hoá sinh từ hình thức này sang hình thức khác của các chủng tử khi thì hiện rõ khi thì ẩn khuất trong tâm. Đó gọi là Ấm vậy”. Trong bài tựa của Kinh Pháp Cảnh, Tăng Hội cũng nói về Tâm như sau: “Tâm là kho tàng căn bản của các pháp” , như vậy Tăng Hội không những đã chịu ảnh hưởng của Bát Nhã mà còn chịu ảnh hưởng của Duy Thức nữa.

Chính ngài cũng soạn Lục Độ Tập Kinh, một tác phẩm sưu khảo biên tập, trong đó có nhiều đoạn lược dịch từ nhiều kinh điển và có những đoạn hoàn toàn do Ngài viết, ví như đoạn nói về thiền. Ngài nói về 4 trình tự của thiền (tứ thiền) như phương pháp để chính tâm nhất ý, tập trung điều thiện duy trì trong tâm, ý thức những niệm dơ bẩn để mà khử diệt. Chính giáolục độcăn bản của giáo lý đại thừa.

Ta biết rằng thiền đại thừa khác với thiền nguyên thỉ ở chỗ thiền đại thừa xem diệu tâm chân nhưbản thể của giác ngộ. Khương Tăng Hội đã thực sự khơi mở cho thiền học đại thừa tại Giao Chỉ (Việt Nam) bằng cách nói tới tâm như là nguồn gốc và bản thể chân thật của vạn pháp.

3. Thế nào là thiền học đại thừa được truyền ngược lại từ Việt Nam sang Trung Quốc?

Trong Cao Tăng Truyện ghi rằng khi thiền sư Tăng Hội đến Kiến Nghiệp, tức kinh đô của nước Ngô thì chưa có một vị Tăng sĩ nào tới đó. Ngài đã xuất gia, học Phật, học tiếng Phạn và dịch kinh đều ở tại Giao Châu, rồi sau đó đi sang nước Đông Ngô truyền đạo. Đạo Phật ở Trung Hoa, nhất là ở miền Giang Tả, sở dĩ được thành lập một cách có hệ thống đó là nhờ có thiền sư Tăng Hội từ Giao Châu đi qua. Chúng ta nên nhớ sách Lục Diệu Pháp Môn do Đại sư Trí Khải trứ tác là vào đời Tuỳ (581-618), trong khi tư tưởng thiền học này (Lục Diệu Pháp Môn) đã được thiền sư Tăng Hội trình bày tại Giao Châu (Việt Nam) trước đó vào đời Tam Quốc (220-280), nghĩa là đi trước Trung Quốc gần 300 năm.

4. Khương Tăng Hội giảng giải thiền học đại thừa ra sao? (Sự chuyển tiếp từ nguyên thủy sang Đại thừa)

Sa môn Khương Tăng Hội, tổ tiên người nước Khương Cư (nay là một dãy từ Bắc chí Trung của Tân Cương), nhiều đời ở Thiên Trúc. Cha Ngài nhân việc đi buôn nên dời sang Giao Chỉ. Năm Ngài 10 tuổi, song thân đều mất, liền đi xuất gía, hiểu rõ Tam Tạng, học rộng biết nhiều, thêm giỏi văn học. Đời Đông Ngô, niên hiệu Xích Ô thứ 10 (247) Ngài đến Kiến Nghiệp, dựng lập am tranh, bài trí tôn tượng để hành đạo. Do Ngài nguyện được xá-lợi để dâng lên Tôn Quyền nên Tôn Quyền xây dựng chùa tháp cho Ngài. Vì trước đã chưa có chùa Phật nên gọi là Kiến Sơ Tự. Bởi Phật pháp ở miền Giang Tả (phía Tây của sông Dương Tử) rất hưng thịnh nên Ngài ở chùa Kiến Sơ để dịch kinh. Ta không thể nào biết được hết những tác phẩm dịch thuật và sáng tác của Khương Tăng Hội. Trong bản mục lục kinh điển của Đạo An có một số dịch phẩm không mang tên dịch giả, nhưng trong những bản mục lục đời sau đó thì người ta lại gán những dịch phẩm kia cho An Thế Cao. Có thể trong số đó có những dịch phẩm của Tăng Hội. Những tác phẩm mà ta biết được có liên hệ đến Tăng Hội như sau:

- Lục Độ Tập Kinh, Tăng Hội biên tập.

- Pháp Cảnh Kinh, An Huyền dịch, Tăng Hội chú sớ và đề tựa.

- Đạo Thọ Kinh, Chi Khiêm dịch, Tăng Hội chú sớ và đề tựa.

- Nê Hoàn Phạm Bối , Tăng Hội biên tập (không còn)

- Lục Độ Yếu Mục, Tăng Hội biên tập (không còn)

- Ngô Phẩm (Đạo Hành Bát Nhã), Tăng Hội dịch (không còn)

- An Ban Thủ Ý Kinh, An Thế Cao dịch, Tăng Hội và Trần Tuệ chú sớ, Tăng Hội đề tựa.

Những lời giảng giải về thiền giáo trong phần chú giải kinh An Ban Thủ Ý, được giới tu thiền đương thời xem là khuôn mẫu. Ở đây, xin chép lại một đoạn trong bài tựa kinh An Ban Thủ Ý của Khương Tăng Hội rút từ “Xuất Tam Tạng Ký Tập” quyển 6 để thấy rõ Khương Tăng Hội xem trọng phương pháplợi ích của việc tu thiền.

An-ban là đại thừa của chư Phật nhằm cứu vớt chúng sanh trôi nổi. Nó có sáu việc: Sổ, tuỳ, chỉ, quán, hoàn, tịnh để trị sáu tình. Tình có trong có ngoài. Bên trong gồm: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Bên ngoài gồm: sắc, tiếng, hương, vị, xúc, tà niệm. … Trong khoảng búng tay, có 960 lần chuyển niệm. Một ngày một đêm tâm có thể trải qua 13 ức niệm ... Cho nên phải thực tập lắng lòng buộc ý vào hơi thở và đếm từ 1 đến 10 (SỔ TỨC). Trong thời gian 10 hơi thở ấy mà đếm chẳng lầm lộn là ý bắt đầu được định. Định nhỏ thì 3 ngày, định lớn thì 7 ngày. Trong thời gian ấy tâm vắng lặng không có niệm nào khác, lặng yên như chết gọi là Sơ thiền.

Thiền nghĩa là loại trừ. Loại trừ cái tâm có 13 ức uế niệm để đạt tới 8 pháp: Sổ, định, chuyển, niệm, trước, tuỳ, xúc và trừ (đếm, tập trung, đổi, nhớ, gắn vào, theo, chạm và loại trừ). Tám pháp này đại khái chia làm hai phần: Tâm ý sở dĩ định được là nhờ theo dõi hơi thở (TUỲ TỨC), mà muốn theo dõi được hơi thở được dễ dàng thì nên đếm hơi thở . Trừ hết bụi nhơ thì tâm ý dần dần trong sạch, đó gọi là Nhị thiền.

Lại bỏ phép theo dõi hơi thở đi, chú tâm nơi chóp mũi, đó gọi là CHỈ. Được hạnh chỉ rồi, các thứ cấu uế của ba độc, bốn đường (sanh, lão, bệnh, tử), năm ấm, sáu mờ (tức lục trần) đều bị tiêu diệt. Lúc bấy giờ, tâm sáng rực rỡ, hơn cả hạt châu minh nguyệt. Những niệm dâm tà làm nhơ tâm như gương dưới bùn, cáu bẩn bám dơ nên soi trời chiếu đất đều chẳng thấy. Đạt đến địa vị Thánh thì thông suốt, chiếu soi muôn cõi, dù lớn như đất trời cũng không hề thấy lớn. Sở dĩ như vậy là do cáu bẩn. Các thứ cáu bẩn làm nhơ tâm còn hơn bụi phủ che gương. Nếu có thầy hay chùi mài gột rửa bụi che khiến mỏng dần, gột đến mức không còn bụi; lúc đó đưa gương lên để soi, không tơ hào nào là không hiện rõ trên mặt kính. Cáu bẩn hết thì ánh sáng hiện ra, đó là chuyện tất nhiên. Trái lại, tình tràn đầy, ý tán loạn, thì trong số muôn niệm khởi lên mà ta không nhận biết được một niệm, giống như ở chợ mà nghe lao xao một lần bao nhiêu tiếng ồn ào rồi trở về ngồi yên mà cố nhớ lại thì không thể nhớ được một lời nào. Ấy cũng bởi tâm nhơ đục che lấp tánh thông sáng. Nếu từ chỗ vắng, tâm tư lặng lẽ không còn ham muốn tà vạy. Khi ấy nghiêng tai lắng nghe, muôn câu không mất, nửa lời nhớ rõ là do tâm lặng ý trong. Phép quán niệm hơi thở để dừng tâm trụ ở chóp mũi. Đó là Tam thiền.

Xoay trở lại quán chiếu thân mình (QUÁN), từ đầu đến chân, xem kỹ tới lui các chất dơ trong người và thấy được rõ ràng các lỗ chân lông dày đặc trong toàn thân và các chất lỏng rỉ ra từ các lỗ chân lông ấy. Nhờ quán như thế, biết rõ từ trời đât con người, thịnh cũng như suy, và ta sẽ thấy tính cách không còn không mất của chúng. Lúc ấy niềm tin nơi Tam bảo trở nên vững chải, các thứ mê mờ đều trở nên trong sáng. Đó là Tứ thiền.

Nhiếp tâm trở về chánh niệm, các thứ ngăn che đều tiêu diệt, đó gọi là HOÀN.

Những thứ ham muốn nhơ bẩn thảy đều vắng bặt thì tâm không còn vọng tưởng, gọi đó là TỊNH.

Hành giả đạt được phép An-ban, tâm họ liền sáng. Đem cái sáng ấy mà quán chiếu thì không có chỗ tối tăm nào mà không soi tới. Việc vô số kiếp đã qua và sắp tới, người vật đổi thay, hiện tại các cõi trong đó có đức Thế tôn giáo hoá, đệ tử tụng tập, dù xa tới đâu cũng thấy. Tất cả tiếng đều nghe. Người ấy đạt đến cái tự do lớn, không còn bị trói buộc bởi ý niệm còn mất. Thấy được cái vô cùng lớn như núi Tu-di trong cái vô cùng nhỏ như lỗ chân lông, chế ngự được trời đất, làm chủ được thọ mạng. Thần lực bây giờ trở nên dũng mãnh, có thể đánh bại cả thiên binh, chuyển động được thế giới tam thiên, xê dịch được muôn ngàn cõi nước, được tám thứ chẳng thể nghĩ bàn, trời chẳng thể lường, thần thông đức tướng vô hạn. Đó là nhờ sáu hạnh (Sổ tức, Tuỳ tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh).

Thuở xưa Đức Thế Tôn muốn nói kinh này, vũ trụ chấn động, cõi trời người đổi sắc. Suốt trong ba ngày Phật trú trong An-ban, không ai tiếp xúc với Ngài. Khi ấy Đức Thế tôn hoá làm hai thân, một là Báo thân, một là Ứng thân để diễn bày chân nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Trung Quốc Thiền Tông Đại Toàn.

- Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (Nguyễn Lang).

- Phật Quang Đại Từ Điển

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10407)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9677)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23601)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11843)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10732)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10073)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28683)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21618)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29406)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11389)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12364)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26326)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31026)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25334)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22806)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13049)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21938)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12225)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14140)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12449)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11243)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10693)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38059)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13667)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13464)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12345)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12584)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12050)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10724)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11210)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23360)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33195)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12794)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7394)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12188)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12614)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12048)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12870)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11940)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10696)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11367)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11660)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10866)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10802)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10374)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10492)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10713)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10628)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11917)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10691)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12735)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10805)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11381)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11089)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11627)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10512)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11255)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12303)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11164)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12488)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11420)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11503)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11295)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11580)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12996)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14175)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11014)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11871)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13158)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11578)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11422)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10932)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11279)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10810)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11058)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10877)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10254)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17111)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10999)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10863)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10406)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10752)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11385)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11075)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10571)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11381)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10352)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10654)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12770)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19265)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19699)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21285)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20332)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19764)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19043)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20486)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21095)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17923)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21843)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11387)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant