Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Viii. Luận Điểm Về Tịnh Độ Của Tịnh Ảnh Huệ Viễn

12 Tháng Chín 201000:00(Xem: 4676)
Chương Viii. Luận Điểm Về Tịnh Độ Của Tịnh Ảnh Huệ Viễn
LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh
Hán dịch: Thích Ấn Hải Hiệu đính: Định Huệ Việt dịch: Giới Niệm

CHƯƠNG VIII. LUẬN ĐIỂM VỀ TỊNH ĐỘ CỦA TỊNH ẢNH HUỆ VIỄN VÀ THUYẾT CỬU PHẨM GIAI VỊ

Tiết 1: Sự tích của ngài Huệ Viễn

Ngài Huệ Viễn kém hơn ngài Đàm Loan khoảng ba mươi tuổi, ngài sinh vào niên hiệu Thần Quy thứ 4(523TL), thời Bắc Ngụy, ở Đôn Hoàng (huyện Đôn Hoàng, châu An Tây, tỉnh Cam Túc). Năm 16 tuổi, ngài từ chỗ luật sư Trạm, đến Đô Nghiệp (huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam). Năm 20 tuổi, ngài đến chỗ ngài Pháp Thượng thụ giới Cụ túc. Thừa Quang nguyên niên (577TL), Bắc Chu Vũ Đế đánh thắng Tề, phá hủy Phật pháp, ngài Huệ Viễn chống lại Vũ Đế. Sau đó, ngài ẩn tu ở Tây Sơn, quận Hấp (huyện Hấp, tỉnh Hà Nam), đến nhà Tùy thống nhất thiên hạ, vua mời ngài vào Trường An, xây dựng chùa Tịnh Ảnh và mời ngài trụ trì chùa này. Từ đó, ngài bắt tay vào việc giảng dạy. Vào tháng 6 niên hiệu Khai Hoàng thứ 12 (592TL) ngài thị tịch, hưởng thọ 70 tuổi. Đương thời gọi ngài là pháp sư Tịnh Ảnh. Ngài trứ tác được mấy mươi bộ, trong đó có bộ Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ 2 quyển, Quán Vô Lượng Thọ kinh ký 1 quyển, Đại niết-bàn kinh nghĩa ký 20 quyển, Duy-ma kinh nghĩa ký 8 quyển, Thập địa kinh luận nghĩa ký 10 quyển (hiện không còn đủ), Đại thừa khởi tín luận sớ 2 quyển, Đại thừa nghĩa chương 20 quyển v.v…nay đều được lưu truyền ở đời.

Vì ngài Huệ Viễn truyền thừa pháp thống của ngài Pháp Thượng, thuộc giáo hệ của phái Địa Luận ở phương Nam, lập giáo phán của bốn tông, tuyên dương giáo nghĩa duyên khởi Như Lai tạng, nổi tiếng thời bấy giờ. Như đoạn văn trước đã nói, ngài Pháp Thượng sùng tín Di-lặc, dựng Di-lặc đường ở Tây Sơn, Nghiệp Đô và siêng năng lễ bái, ngài Huệ Viễn do nhận sự cảm hóa của ngài nên cũng sùng tín Di-lặc . Như Linh Cán truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 12, tương truyền ngài Huệ Viễn sinh lên cõi trời Đâu-suất, như vậy thì ngài Huệ Viễn chẳng phải người nguyện sinh Tây phương. Nhưng thấy ngài có giải thích văn nghĩa kinh Vô Lượng ThọQuán kinh sớ, vả lại trong Đại thừa nghĩa chương, có một chương Tịnh độ nghĩa luận thuật tỉ mỉ về chủng loại sai biệt của tịnh độ. Điều này cho chúng ta biết là ngài quan tâm đến Tịnh Độ rất mật thiết. Kinh Vô Lượng Thọ, đương thời đã có nhiều nhà giảng thuyết nhưng chưa có ai thử làm chú sớ. Do đón chúng ta có thể biết sớ của ngài Huệ Viễntác phẩm giải thích kinh Vô Lượng Thọ xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc, sự giải thích nghĩa lý của ngài được các học giả đương thời coi trọng. Các ngài Cát Tạng, Ca Tài, Thiện Đạo đều có nghiên cứu và phê phán học thuyết của ngài, đặc biệtQuán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ của ngài Trí Khải trứ tác đều có sao chép Quán kinh sớ của ngài. Chúng ta có thể thấy được giá trị của các sách vở do ngài trứ tác thời bấy giờ.

Tiết 2: Phân loại Tịnh Độ

Tịnh độ là thuyết được thịnh hành trong các kinh Đại thừa. Nhưng các kinh trình bày có khác nhau về quốc độ trang nghiêm và bậc thánh cư trú ở đó. Ngài Huệ Viễn nghiên cứu tường tận các nghĩa này, phân biệt tịnh độ có ba loại để luận phán cao thấp, tốt xấu. Đây là khởi nguyên của lý luận phân loại tịnh độTrung Quốc. Tịnh độ được phân làm ba loại sai biệt:

1. Sự tịnh độ

2. Tướng tịnh độ

3. Chân tịnh độ.

Chỗ cư trú của phàm phu là Sự tịnh độ; chỗ cư trú của hàng nhị thừahóa tha độ của bồ-tát là Tướng tịnh độ; cõi cư trú của bậc Sơ địa trở lên cho đến chư Phật là Chân tịnh độ.

A. Sự tịnh độ là cõi do tịnh nghiệp hữu lậu của phàm phu cảm mà được; các thứ báu nghiêm sức, sự tướng tốt đẹp, gọi là Sự tịnh độ. Cõi này là do lúc phàm phu tu nhân, tâm có hạn cuộc cho nên khi thụ báo, cõi có phần hạn. Lại nữa, tâm họ chấp chặt lấy tướng, nên quốc độ trang nghiêm các tướng đều cố định. Nhưng có hai loại sai biệt:

1. Tịnh độ do phàm phu tu tịnh nghiệp song còn chấp có mà cảm được, như chỗ cư trú của chư thiên v.v…đây là cầu sự cảm ứng của thiện nghiệpchấp có, nên khi thụ dụng, còn sinh phiền não, kết nghiệp trong ba cõi, không phát sinh đạo xuất thế.

2. Tịnh độ do phàm phu tu tịnh nghiệp xuất thế mà cảm được như cõi An Lạc, thế giới Chúng Hương, đều từ thiện nghiệp xuất thế mà được, cho nên khi thụ dụng có thể phát sinh đạo xuất thế.

Cõi trời được đề cập đến ở đây, nếu chủ yếu là chỉ cho cõi trời Đâu-suất-đà thì hai loại cõi này có thể nói là sự so sánh giữa Đâu-suất với Cực Lạc.

B. Tướng tịnh độcảnh giới của hàng nhị thừa và bồ-tát tu tập duyên quán đối trị vô lậu mà được; diệu tướng trang nghiêm, ly cấu thanh tịnh cho nên gọi Tướng tịnh độ. Cõi tuy thanh tịnh nhưng do vọng thức khởi như cảnh thấy trong mộng, giả dối không thật, chỉ theo tướng ly cấu thanh tịnh ấy mà gọi là tướng tịnh. Cõi này là do lúc nhị thừa và bồ-tát tu nhân, tâm không hạn cuộc cho nên khi thụ báo, cõi không có phần hạn. Lại nữa, khi tu, tâm không cố chấp, cảnh giới sở đắc cũng tùy tâm chuyển mà không có tướng cố định. Cõi này cũng có hai loại sai biệt:

1. Cõi do thiện căn của nhị thừa tự lợi mà được, hư tịch vô hình, như cõi Vô Sắc. Luận Đại trí độ ghi: “Có cõi thanh tịnh vi diệu vượt qua ba cõi, hàng A-la-hán sinh vào đó để nghe kinh Pháp hoa”, tức là việc này. Cõi này tức là do thiện căn tự lợi mà được, cho nên khi thụ dụng chỉ sinh tự lợi, chán bỏ thiện căn, không thể tự nhiên phát sinh nguyện từ bi, hạnh lợi tha. Giả sử có người sinh khởi hạnh lợi tha là nhờ năng lực của Phật và bồ-tát giáo hóa, chẳng phải là năng lực của cảnh giới mà chính họ đã thụ hưởng.

2. Cõi do thiện căn hóa tha của các bồ-tát mà được, không bỏ chúng sinh, tùy vật thụ dụng, như trượng thất của ngài Duy-ma-cật, vì từ thiện căn hóa tha mà phát sinh nên khi thụ dụng tự nhiên có thể phát khởi hạnh thiện lợi tha.

Lại nữa, hai cõi này đều có hai loại là cõi tương tục trụ trì và cõi tạm hiện. Cõi tương tục trụ trì là cõi không phải biến hiện nhất thời, mà luôn luôn hiện hữu; cõi tạm hiện là cõi tùy theo căn cơ tạm thời biến hiện.

C. Chân tịnh độ là cõi mà bồ-tát Sơ địa trở lên cho đến chư Phật cư trú. Vì cõi này do thiện căn của chư Phật và bồ-tát đã thật chứng mà được; thật tính duyên khởi, vi diệu thanh tịnh, lìa sự cấu nhiễm, thường hằng bất biến cho nên gọi là Chân tịnh. Lúc tu nhân, tâm các Ngài không duyên niệm, nên cõi không duyên niệm; cõi không có tướng trạng tức là cõi vi diệu vô tướng. Lại nữa, tâm các Ngài không có cố chấp, không có phân biệt cho nên cõi không có nơi chốn cố định, không có sai khác kia đây, tự tha. Căn cứ theo vọng mà nói thì có thể chia làm hai loại: Ly vọng chân và Thuần tịnh chân. Cõi Ly vọng là cõi của bồ-tát từ Sơ địa cho đến Thập địa cư trú, cõi này còn hợp với vọng, chưa hoàn toàn lìa vọng, tùy theo giai vị cao thấp, tốt xấu không đồng, như sương móc tan dần thì hư không hiện ra, địa địa ly vọng, cõi vọng từng phần diệt dần, cõi chân dần dần tăng lên. Cái thấy của hàng bồ-tát Nhị địa thù thắng hơn hàng bồ-tát Sơ địa, cho đến cái thấy của hàng bồ-tát Thập địa thù thắng hơn hàng bồ-tát Cửu địa, sự tốt xấu sai biệt tự nhiên sinh, cho nên gọi là cõi ly vọng. Cõi thuần tịnh chỉĐức Phật cư trú, thuần chân không tạp như hư không trong sạch, cõi nước thanh tịnh.

Chân tịnh độ của Phật lại có thể chia hai loại: Chân độỨng độ; hoặc ba loại: Pháp tính, Thật báo, Viên ứng. Trước nói về hai độ Chân và Ứng: chỗ tự thân của Phật cư trú là Chân độ, tùy theo các căn cơ thị hiện thì gọi là Ứng độ. Chân độ tức cõi pháp môn bình đẳng, hình tướng chẳng cố định ở một chỗ nào mà không chỗ nào không có, diệu tịch ly tướng, giống như hư không, vốn là tính duyên khởi tác dụng, ứng hóa nhờ đó mà hiện, vạn vật y theo đó mà sinh, diệu tịch ly tướng này đầy đủ các nghĩa kể trên, gọi là Chân độ. Ứng độ thì tùy theo tâm mà thị hiện, có nơi chốn, có phần hạn nhất định, có sự khu biệt giữa thiện ác, nhiễm tịnh, có sự sai khác của các tướng trang nghiêm. Bởi trong Chân tịnh độ của chư Phật có phân biệt hai độ Chân và Ứng là tùy theo nhân hạnh của nó mà có hai thứ: trí và bi. Trí nương nơi không mà thành, dùng trí để nhiếp hạnh thì hạnh đều ly tướng nên cõi sở đắc là Chân độ diệu tịch ly tướng. Bi tùy nơi hữu mà sinh, dùng bi nhiếp hạnh, hạnh đều là vì chúng sinh cho nên cõi sở đắc là Ứng độ tùy cơthị hiện có khác.

Kế đến nói về ba độ:

1. Pháp tính độ: Bản tính của độ, các nghĩa đồng một thể, hư dung vô ngại, chúng sinh do vọng tưởngtự cách ngại, Nếu khi thành Phật, vọng tưởng ngưng dứt, thật tính của cõi kia tự nhiên hiển hiện, thành tựu dụng tự tại, vì hiển hiện thật tính của nó nên gọi là Pháp tính độ.

2. Thật báo độ: Bồ-tát ở nhân vị rộng tu tịnh nghiệp vô tận pháp giới, do lực huân phát của tịnh nghiệp này nên khi hiển bày Pháp tính độ, ở chỗ pháp giới vô biên tịnh kia, khởi vô lượng sự tướng trang nghiêm thì gọi là Thật báo độ. Pháp tính độ như tự thể của vàng, Thật báo độ như những kỹ xảo khắc chạm trên vàng.

3. Viên ứng độ: Hai chân độ trước giống như tịnh châu, có thể tùy theo chúng sinh mà hiện đủ các loại khác nhau, dụng không khiếm khuyết nên gọi là Viên ứng độ.

Trong ba độ này, hai độ Pháp tính và Thật báo phát xuất từ Chân độ của hai độ Chân và Ứng ở trước; Viên ứng độ tức Ứng độ kia thì ba độ này và hai độ Chân, Ứng chẳng qua là khai hợp khác nhau. Nay đặc biệt thiết lập sự phân loại này để nói về sở y của ba thân mà thôi. Pháp tính độsở y của Pháp tính thân, Thật báo độsở y của Báo thân, Viên ứng độsở y của Ứng hóa thân.

Luận về nhân của ba độ: Pháp tính vô thỉ là nhân của Pháp tính độ, hạnh lục độ v.v…là nhân của Thật báo độ. Trong đó có phân biệt chính nhânduyên nhân. Pháp tính độ lấy pháp tính vô thỉ làm chính nhân, hạnh lục độ v.v…là duyên nhân. Thật báo độ lấy lục độ v.v…làm chính nhân, Pháp tính vô thỉ làm duyên nhân . Pháp tính độ là sự hiển hiện của pháp thể vốn sẵn có, tuy có sự khác nhau về nhân ẩn và quả hiển, nhưng thể của nó hoàn toàn chẳng có tăng giảm, cho nên lấy Pháp tính vô thỉ làm chính nhân. Thật báo độ vốn chẳng có pháp thể, nhưng ở trên pháp tính có nghĩa duyên khởi có thể sinh (gặp duyên liền sinh), lấy hạnh của lục độ v.v…huân phát các thứ sự tướng trang nghiêm mà thôi, tức là lấy hạnh lục độ làm chính nhân. Nhân của Viên ứng độ có và không bất định, nếu nhiếp dụng từ thể thì không còn có nhân riêng, như bóng theo hình mà có, Ứng độ chẳng qua là ảnh của Chân độ, lìa Chân độ ra thì không có nhân riêng của Ứng độ. Nếu phân biệt thể và dụng thì Ứng độ cũng có nhân đồng loại và dị loại. Nhân đồng loại cũng dùng hạnh của Ứng độ để làm nhân của Ứng độ. Chư Phật Như Lai đắc Chân độ đã lâu, hiện tu các hạnh để trang nghiêm cõi Phật, như Phật A-di-đà hiện đang tu bốn mươi tám nguyện và các sở hành để trang nghiêm thế giới Tây phương Cực Lạc. Nhân dị loại là lấy việc thực hành hạnh của Chân độ làm nhân của Ứng độ. Lại nữa, Ứng độ này có hai loại là Pháp ứng độ và Báo ứng độ:

1. Pháp ứng độ do pháp môn tam-muội của tịnh độ nên hiện các loại tịnh độ.

2. Báo ứng độ vì nhân duyên của sức bản nguyện đại bi mà hiện các loại tịnh độ. Như trong Đại thừa nghĩa chương quyển 19 có nói đầy đủ.

Tóm lại, luận điểm về tịnh độ của ngài Huệ Viễn, do nghiệp nhân bất đồng, nên quốc độ sở cảm cũng có tốt xấu sai biệt, nghĩa là do tịnh nghiệp hữu lậu của phàm phu sở cảm nên thành Sự tịnh độ, do nhị thừatịnh nghiệp vô lậu của hàng nhị thừa và bồ-tát duyên quán đối trị sở cảm nên thành Tướng tịnh độ; do thiện căn thật chứng của bồ-tát và Phật sở đắc nên thành Chân tịnh độ. Nhưng Chân tịnh độ của Phật sở đắc lại có chia ra thành hai độ Chân, Ứng và ba độ Pháp tính, Thật báo, Viên ứng. Đây chủ yếu là dựa vào ý nghĩa “Tâm tịnh, độ tịnh” được nói trong kinh Duy-ma và còn dựa vào thuyết của Thập địa kinh luậnNhiếp đại thừa luận v.v… Luận điểm về tịnh độ này có thể nói là hết sức uyển chuyển. Ngài Huệ Viễn đã lập tịnh độ này có nhiều loại khác biệt, vì mỗi loại đều do nghiệp sở cảm thì chư Phật và chúng sinh đều có chung một tịnh độ. Ngài La-thập cho rằng chúng sinh không có tịnh độ, chỉ Phật mới có; ngài Đạo Sinh cho rằng chư Phật không có tịnh độ, chỉ chúng sinh mới có, tất cả đều chấp một bên, chưa nói hết lý. Lại nữa, ngài Huệ Viễn nói Chân tịnh độ của Phật có hai độ Chân, Ứng và ba độ Pháp tính v.v… để nói nghĩa tương quan giữa Phật thânPhật độ, mới nói được nghĩa lý ấy.Ở Ấn Độ đến Phật địa kinh luận của Thân Quang, mới đề xướng thuyết bốn thân, bốn độ. Thuyết này không liên quan với luận điểm này, mà ở Trung Quốc thì đề xướng luận điểm về sự tương quan giữa thân và độ, có thể nói đây là do công của ngài Huệ Viễn, kiến thức sâu rộng của ngài đáng được khen ngợi, nhưng trong đó, ngay cả các cõi trời Dục, Sắc cũng gọi tịnh độ, hoặc là do họ nguyện sinh lên Đâu-suất. Nhưng gọi các cõi trờitịnh độ thì chưa thấy ghi trong các kinh luận. Lại nữa, lập tịnh độ hóa tha của các bồ-tát là Tướng tịnh độ, lấy đây phối hợp với trượng thất của ngài Duy-ma cũng không tránh khỏi sự xuyên tạc.

Tiết 3. Phán định về tịnh độ Di-đà

Ngài Huệ Viễn cho rằng tịnh độ Di-đà là cõi do nghiệp hữu lậu của phàm phu sở cảm mà thành, cho nên cõi ấy thuộc Sự tịnh độ. Lại nữa, căn cứ vào Phật mà nói thì là cõi do ứng nhân mà thành nên gọi là Ứng độ. Điều này được trình bày trong phần Tịnh độ nghĩa của Đại thừa nghĩa chương. Trong Quán kinh sớ của ngài cũng nói tịnh độ có thô và diệu khác nhau, cõi thô là cõi có cả hạng phàm phu phần đoạn sinh tử vãng sinh, cõi diệu là chỉ cho cõi của hàng thánh nhân biến dịch sinh tử cư trú. Lại nữa, cõi Phật A-di-đà được nói trong Quán kinh chính là cõi thô của tịnh độ, Đức Phật A-di-đà còn có cõi diệu, nhưng theo kinh này nói, nên mới phán định tịnh độ Di-đà là cõi thô của Sự tịnh độ.

Lại nữa, Quán kinh sớ lấy Phật A-di-đà ở Tây phương làm Ứng thân Phật, nghĩa là chân thân thì thọ mạng thường trụ, không có diệt độ. Thọ mạng của ứng thân không có nhất định, hoặc ngắn, hoặc dài. Nay thọ lượng của Di-đà rất dài, hàng phàm phu, nhị thừa không thể lường được, cho nên gọi Phật Vô Lượng Thọ. Kinh Quán Thế Âm thụ ký có ghi: “Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, bồ-tát Quán Thế Âm và bồ-tát Đại Thế Chí kế tiếp nhau bổ xứ thành Phật”. Như vậy thì chúng ta có thể biết thọ mạng của Ngài có hạn. Thọ lượng đã có hạn thì thân Ngài chắc chắnỨng thân. Vì thế, Huệ Viễn nói Phật Di-đà là Ứng thân, quốc độ của Ngài là Ứng độ, nhưng Ứng thân vốn phát khởi từ Chân thân, như vậy ngoài Ứng thân, Ứng độ này ra thì nhất định Phật A-di-đà có một Chân thân, Chân độ khác. Phần Tịnh Độ nghĩa trong Đại thừa nghĩa chương có ghi: “Phật A-di-đà đã đắc Chân độ từ lâu”; lại nữa, Quán kinh sớ nói: “Còn có cõi diệu”, kinh này không nói nhưng trong kinh Hoa nghiêm thì có nói rõ nghĩa này. Đây chính là chỉ cho Chân độ của Ngài, nhưng vì chúng sinh cho nên lấy tịnh độ Tây phương trang nghiêm làm Ứng độ. Thuyết của ngài Huệ Viễn có thể nói là thông nghĩa của cả hai môn Bản và Tích.

Tiết 4: Nhân sinh về tịnh độ và giai vị của chín phẩm vãng sinh

Liên quan nhân sinh về Tịnh Độ, trong Quán kinh sớ của ngài Huệ Viễn, đầu tiên ngài liệt kê thuyết của các kinh Bát-nhã, Niết-bàn, Duy-ma và Vãng sinh luận. Trong kinh Bát-nhã lấy tu tập không huệ để diệt trừ tội chướng, muốn sinh Tịnh Độ liền được vãng sinh; kinh Niết-bàn lấy nhân duyên tu giới, tu thí, tu huệhộ pháp để làm nhân cầu vãng sinh tịnh độ; kinh Duy-ma cho rằng nếu người đầy đủ tám pháp lợi ích chúng sinh v.v… thì được vãng sinh tịnh độ; Vãng sinh luận có nói tu ngũ niệm môn: lễ bái v.v…có thể vãng sinh tịnh độ, còn nói đến bốn pháp: tu quán vãng sinh, tu nghiệp vãng sinh, tu tâm vãng sinh và qui hướng vãng sinh. Bởi vì theo ngài Huệ Viễn thì nghiệp tịnh độ đã nói trong Quán kinh, tổng quát được chia thành hai loại: định thiện, tán thiện. Y theo định quán thì gọi là định thiện; tán tâm hành thiện thì gọi là tán thiện. Trong đó, tu quán vãng sinh thuộc về định thiện; ba loại tu nghiệp, tu tâm và quy hướng thuộc về tán thiện. Người tu quán vãng sinh là tu mười sáu pháp quán: Nhật tưởng quán v.v…để cầu vãng sinh tịnh độ. Đây chính là pháp trọng yếu của bộ Quán kinh.

Nhưng trong mười sáu pháp quán thì mười ba pháp quán trước thuộc về pháp quán định thiện, ba pháp quán sau nói về tướng trạng của người vãng sinh có chín phẩm, liệt kê các hạnh tán thiện, cho nên nếu dựa vào các hạnh của chín phẩm mà nói, thì gọi là tán thiện. Nhưng ngài Huệ Viễn gọi ba phẩm này là “Tha sinh quán”, tức là pháp quán quán tướng chín phẩm vãng sinh của người khác; như vậy có thể thấy tất cả mười sáu pháp quán đều thuộc về định thiện. Kế đó, tu tịnh nghiệp vãng sinh, nếu phân theo thứ tự để nói về người vãng sinh thì nhờ tu ba phúc nghiệp: thế phúc, giới phúc, hạnh phúc mà được vãng sinh, tức là hạnh của sáu phẩm thượng, trung trong chín phẩm. Người tu tâm vãng sinh là tu ba tâm: chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm mà được vãng sinh. Đây là chỗ mà người cầu vãng sinh ba phẩm thượng phải phát tâm tu. Quy hướng vãng sinh là tự mình siêng thực hành, từ chỗ thiện tri thức được nghe danh tự Phật, Pháp, Tăng, tán thán công đức của Phật A-di-đà, Quán Âm, Thế Chí và sự vui vi diệu của cõi Phật ấy, rồi nhất tâm quy hướng, hoặc tụng niệm, hoặc lễ bái, hoặc tán thán, hoặc xưng danh hiệu Ngài mà được vãng sinh, đây là sinh nhân của ba phẩm bậc hạ và hạ phẩm của bậc trung. Tóm lại, căn cứ pháp tướng thông thường thì quả của tịnh độ đều do tự nghiệp của chúng sinh mà cảm được, không nói về việc nguyện lực cứu tế v.v…

Lại nữa, ngài Huệ Viễn đem căn cơ của người vãng sinh chín phẩm để phân loại, ba hạng người sinh thượng phẩmcăn cơ Đại thừa, ba hạng người sinh trung phẩmcăn cơ Tiểu thừa, ba hạng người sinh hạ phẩmcăn cơ mới học Đại thừa, mỗi mỗi đều có phân biệt giai vị của các hạng người này. Ba hạng người sinh thượng phẩm: hạng người thượng phẩm thượng sinh là bồ-tát Thuận nhẫn ở Tứ địa, Ngũ địa và Lục địa; hạng người thượng phẩm trung sinh là bồ-tát Tín nhẫnSơ địa, Nhị địa và Tam địa; hạng người thượng phẩm hạ sinh là bồ-tát Phục nhẫn ở bậc tam hiền trước thập địa. Đây là hội thông thượng phẩm thượng sinh trong Quán kinh, người ấy sinh về cõi nước kia tức thời đắc Vô sinh pháp nhẫn, và theo thuyết Ngũ nhẫn của kinh Nhân vương bát-nhã mà giải thích. Kinh Nhân vương bát-nhã nói giai vị của bồ-tát: giai vị tam hiền gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướngPhục nhẫn; bồ-tát Sơ địa, Nhị địa và Tam địaTín nhẫn; bồ-tát Tứ địa, Ngũ địa và Lục địa là Thuận nhẫn; bồ-tát Thất địa, Bát địaCửu địaVô sinh pháp nhẫn; Thập địaNhư Lai địaTịch diệt nhẫn. Căn cứ thuyết này thì Vô sinh pháp nhẫn chính là giai vị của bồ-tát từ Thất địa trở lên đắc được. Sinh về cõi Cực Lạc liền đắc Vô sinh pháp nhẫn thì người ấy chắc chắn là bồ-tát Thuận nhẫn ở Tứ địa, Ngũ địa và Lục địa. Nhưng trong đây chưa chắc là tức thời đắc Vô sinh pháp nhẫn, có thể phải trải qua thời gian dài mới đắc, kinh này chính là chỉ cho người thượng căn nên nói là tức thời. Thượng phẩm trung sinh là bồ-tát Tín nhẫnSơ địa, Nhị địa và Tam địa, kinh nói người thượng phẩm trung sinh sinh về nước Cực Lạc, trải qua một tiểu kiếp thì đắc Vô sinh pháp nhẫn, họ đắc nhẫn ở sau thượng phẩm thượng sinh. Nhưng trong đây cũng có người trải qua hai, ba tiểu kiếp mới đắc Vô sinh pháp nhẫn, cho nên theo người thù thắng mà nói là một tiểu kiếp. Thượng phẩm hạ sinh là bồ-tát Phục nhẫn ở bậc tam hiền trước thập địa, kinh nói người thượng phẩm hạ sinh trải qua ba tiểu kiếp mới đắc Bách pháp minh môn, trụ Hoan hỉ địa.

Ba hạng người sinh trung phẩm: Trung phẩm thượng sinh là bậc thánh ba quả trước của Thanh văn; trung phẩm trung sinh là hàng nội phàm, ngoại phàm kiến đạo trở về trước; trung phẩm hạ sinh là hạng thế tục phàm phu. Bậc thánh ba quả trước thuộc trung phẩm thượng sinh, kinh nói hạng người này sinh nước kia tức thời đắc A-la-hán; trung phẩm trung sinh là hàng nội phàm, ngoại phàm kiến đạo trở về trước, kinh nói hạng người này sinh nước kia bảy ngày đắc Tu-đà-hoàn, trải qua nửa kiếp thì đắc A-la-hán; thế tục phàm phu của trung phẩm hạ sinh, kinh nói hạng người này sinh nước kia trải qua một kiếp đắc A-la-hán, thời gian kiếp số đắc quả của họ lâu hơn trung phẩm trung sinh. Các phẩm này cũng đều trải qua nhiều kiếp số, trong kinh nói đó là theo sự tối thắng của họ.

Ba hạng người sinh hạ phẩm, quá khứ hạng người này từng thực hành Đại thừa, nhưng vẫn là phàm phu, không chứng đắc giai vị tu đạo. Bởi vì sự nặng nhẹ của tội đã tạo mà lập thượng, trung, hạ. Nói như thế thì ngài Huệ Viễn chuyên lấy quả vị sau khi vãng sinh làm tiêu chuẩn, định ra giai vị của người được vãng sinh chín phẩm. Theo thuyết Ngũ nhẫn trong kinh Nhân vương bát-nhã có ghi, lấy Vô sinh pháp nhẫn làm giai vị sở đắc, của bồ-tát địa thứ bảy trở lên, giai vị được phán định rất cao, tuy người ba phẩm hạ ở quá khứ cũng đã từng tu hành Đại thừa. Luận điểm này của ngài Huệ Viễn về sau bị Ngài Ca Tài, Thiện Đạo đả phá, vả lại giáo nghĩa của chính ngài cũng tự mâu thuẫn với nhau. Vì sao? Vì ngài Huệ Viễn nói bồ-tát Sơ địa trở lên nhập Chân tịnh độ, thấy Chân thân của Phật, vậy thì bồ-tát Tứ địa, Ngũ địa, Lục địa của thượng phẩm thượng sinh, bồ-tát Sơ địa, Nhị địa, Tam địa của thượng phẩm trung sinh, tịnh độ của họ sinh đương nhiên là Chân tịnh độ. Nhưng ngài Huệ Viễn đã phán định tịnh độ được nêu trong Quán kinh là cõi thô của Sự tịnh độ, rõ ràngmâu thuẫn. Chín phẩm vãng sinh mà ngài Huệ Viễn gọi là ‘Tha sinh quán’ chẳng qua chỉ là đối tượng sở quán của người định thiện, nhưng ngoài tu quán vãng sinh nêu thêm tu nghiệp cho đến quy hướng vãng sinh, thật ra ngài Huệ Viễn cho rằng cũng có người tu tán thiện chín phẩm mà được vãng sinh tịnh độ. Nếu như vậy thì ngài Ca Tài v.v…nói tịnh độ Di-đà thông cả Báo độHóa độ hình như thỏa đáng hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14144)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39710)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15311)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13880)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13925)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37327)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40059)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14638)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14310)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12655)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14825)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19214)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13794)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42620)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13827)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37257)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12673)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11759)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22542)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12508)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12571)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13058)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13111)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17265)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33243)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14834)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11045)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12452)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11955)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11933)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13129)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51259)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12381)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6615)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30406)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13123)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13325)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30678)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19361)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12477)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11840)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14762)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13192)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13195)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30679)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12040)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12725)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31898)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29413)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11781)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11747)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10422)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11560)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9641)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9654)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9987)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35399)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10145)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10096)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10042)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9654)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27800)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15491)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9851)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13680)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9844)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9692)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18319)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12042)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9570)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9692)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8712)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8911)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8417)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11480)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31729)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12333)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13319)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8826)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9441)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11937)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9226)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9073)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9665)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29360)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9075)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9099)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33241)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8428)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30604)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31218)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37108)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32251)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9929)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27094)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8448)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19237)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13009)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant