Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Ix: Luận Điểm Về Tịnh Độ Của Thiên Thai Trí KhảiThường Hành Tam-muội

12 Tháng Chín 201000:00(Xem: 4787)
Chương Ix: Luận Điểm Về Tịnh Độ Của Thiên Thai Trí Khải Và Thường Hành Tam-muội
LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh
Hán dịch: Thích Ấn Hải Hiệu đính: Định Huệ Việt dịch: Giới Niệm

CHƯƠNG IX: LUẬN ĐIỂM VỀ TỊNH ĐỘ CỦA THIÊN THAI TRÍ KHẢITHƯỜNG HÀNH TAM-MUỘI

Tiết 1: Sự tích và trứ tác của Trí Khải

Ngài Trí Khải, người huyện Hoa Dung, Kinh Châu (huyện Hoa Dung, tỉnh Hồ Nam). Ngài sinh vào niên hiệu Đại Đồng thứ tư (538TL), thời Lương. Năm 18 tuổi, ngài xuất gia với ngài Pháp Tự, chùa Quả Nguyện ở Tương Châu (huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam). Thiên Gia nguyên niên, thời Trần (560TL), ngài lên núi Đại Tô, Quang Châu (huyện Thương Thành, tỉnh Hà Nam), yết kiến ngài Huệ Tư, nhập đạo tràng Phổ Hiền, ngộ nhập được Pháp Hoa tam-muội. Về sau, ngài đến Kim Lăng giảng kinh Pháp hoa và luận Đại trí độ.

Niên hiệu Thái Kiến thứ 7 (575TL), ngài vào núi Thiên Thai (Thai Châu, tỉnh Chiết Giang), xây dựng chùa Tu Thiền. Đến niên hiệu Chí Đức thứ 3 (585TL), ngài vâng mệnh đến Kim Lăng, giảng luận Đại trí độ và các kinh Nhân vương bát-nhã v.v…rồi ngài đến các vùng Lô sơn v.v… Niên hiệu Khai Hoàng thứ 13 (593TL), thời Tùy, ở chùa Ngọc Tuyền, huyện Đương Dương (huyện Đương Dương, tỉnh Hồ Bắc), ngài giảng Pháp hoa huyền nghĩa, năm sau ngài nói Ma-ha chỉ quán , sau đó ngài trở về núi Thiên Thai. Tháng 11, niên hiệu Khai Hoàng thứ 17 (597TL), ngài thị tịch được an táng ở phía đông núi Thạch Thành, hưởng thọ 60 tuổi. Ngài là sơ tổ của tông Thiên ThaiTrung Quốc, người bấy giờ gọi ngài là Trí Giả đại sư hoặc Thiên Thai đại sư. Học phong của ngài lấy kinh Pháp hoa làm tông, lập giáo tướng ngũ thời, bát giáo, rộng nói yếu nghĩa khai quyền hiển thật. Ngài y cứ vào Trung luận v.v… mà đề xướng thuyết nhất tâm tam quán. Ngài không chỉ cổ xúy yếu chỉ quán tâm, mà còn tin sâu Di-đà, tu pháp Bát-chu thường hành tam-muội.

Trí Giả đại sư biệt truyện ghi: Khi sắp lâm chung, nằm nghiêng bên phải, xoay mặt về phía Tây, chuyên tâm xưng niệm Di-đà, Bát-nhã, Quán Âm. Sau cùng, xướng hai bộ kinh Pháp hoaVô Lượng Thọ, nghe kinh Vô Lượng Thọ xong, ngài tán rằng: “Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm tịnh độ, ao hoa, cây báu dễ đến mà lại không có người đến. Tướng địa ngục hiện, nếu người hối cải thì còn có thể vãng sinh, huống là người tu trì giới, định, tuệ? Vì thế công sức hành đạo thật sự không luống uổng. Phạm âm thanh tướng thật không dối gạt người”. Lại nói rằng: “Các thầy bạn của tôi theo hầu Quán Âm đều đến nghinh đón tôi”. Điều này có thể biết lòng tin tịnh độ sâu sắc cầu sinh Tây phương của ngài .

Ngài trứ tác rất nhiều sách, và đều do đệ tử ngài là Quán Đảnh ghi chép lại như: Pháp hoa kinh huyền nghĩa 20 quyển, Pháp hoa văn cú 20 quyển, Ma-ha chỉ quán 20 quyển, Kim quang minh kinh huyền nghĩa 2 quyển, Kim quang minh kinh văn cú 6 quyển, Duy-ma kinh huyền sớ 6 quyển, Duy-ma kinh lược sớ 10 quyển, Bồ-tát giới nghĩa sớ 2 quyển, Tứ giáo nghĩa 12 quyển v.v…Ngoài ra, các bộ 1 quyển như: Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ, A-di-đà kinh nghĩa sớ, Tịnh Độ thập nghi luận, Ngũ phương tiện niệm Phật môn v.v… tương truyền đều do ngài soạn thuật, nhưng các sách này, chúng tôi thiết nghĩ đều do người đời sau làm giả rồi mượn tên của ngài.

Trong đây, Quán kinh sớ, theo Thai châu lục của ngài Tối Trừng ghi thì Quán kinh sớ do đại sư Trí Giả trứ tác. Lại nữa, ngài Pháp Thông thời Đường viết bộ Thích quán Vô Lượng Thọ Phật kinh ký 1 quyển, ngài Tri Lễ thời Tống viết bộ Diệu tông sao 6 quyển. Cả hai bộ này đều giải thích văn nghĩa của Quán kinh sớ. Tông cảnh lục của ngài Diên Thọ thời Tống, Cực Lạc cửu phẩm vãng sinh nghĩa của Lương NguyênNhật Bản v.v…cũng có dẫn dụng. Điều này có thể thấy từ xưa đến nay Quán kinh sớ rất được thịnh hành. Thế nhưng, trong Vãng sinh yếu tập ký quyển 8 của ngài Lương Trung nghi Vãng sinh yếu tập chưa dẫn dụng sách này và chỉ trích văn cú trong đó tương tợ như Quán kinh sớ của Tịnh Ảnh Huệ Viễn nhưng không có giải thích. Giữa niên hiệu Trinh Hưởng, Đại Dã Sơn Nhật Nghiêu đưa ra bảy vấn nạn, chỉ ra đó là ngụy tác của người đời sau. Vào niên hiệu Hưởng Bảo, Minh Lũng Sơn Nhật Đế lại nêu ra bảy điểm nghi ngờnhận định Quán kinh sớ chẳng phải do ngài Trí Giả trứ tác. Tác giả cũng từng nghiên cứu thông suốt văn nghĩa của sách này, xác nhận đó chính là tác phẩm của người đời sau làm giả rồi mượn tên của ngài Điều này đã được trình bày rõ trong cuốn Nghiên cứu về giáo lý Tịnh Độ, nay chỉ nói sơ lược.

Lại nữa, về A-di-đà kinh nghĩa sớ, ban đầu thấy trong Thai châu lục của ngài Tối Trừng có ghi là A-di-đà kinh nghĩa sớ do đại sư Trí Giả trứ tác, về sau trong A-di-đà kinh nghĩa sớ của ngài Trí Viên thời Tống có ghi: “Bấy giờ, có Di-đà kinh sớ từ nước Nhật truyền đến, nói thuyết của ngài Trí Giả là không đúng, vì văn từ quê mùa, nghĩa lý sơ sài, thiết nghĩ là do người Nhật làm giả rồi mượn tên của ngài”. Sơn gia giáo điển chí trong Phật tổ thống kỷ quyển 25 có ghi: Sách này tuy đã từng được nhập tạng, nhưng các ngài Cô Sơn, Tịnh Giác cho rằng là văn vay mượn, chỉ có pháp sư Thần Chiếu đã từng dùng sớ này để giảng kinh ở viện Thiên Thai Pháp Luân. Sách hiện còn chỉ là sách lược giải kinh bản mà thôi, e rằng sách ấy chẳng phải do ngài Trí Khải trứ tác. Nhưng Thai châu lục đã có ghi tên sách, điều đó có thể biết sách này được lưu hành vào thời Đường, chẳng phải sách do của người Nhật làm giả rồi mượn tên của ngài.

Lại nữa, về Tịnh độ thập nghi luận còn gọi là A-di-đà quyết thập nghi, trong Niệm Phật tam-muội bảo vương luận của ngài Phi Tích thời Đường và Thích quán kinh ký của ngài Pháp Thông đều dẫn dụng văn trong Tịnh độ thập nghi luận, trong Thai châu lục của ngài Tối Trừng cũng có nêu tên luận này (không có tên tác giả). Nhưng trong sách này không chỉ dẫn dụng Tân thích tạp tập luận và Tây Vức ký của ngài Huyền Trang, mà xem ra văn nghĩa của Tịnh độ thập nghi luận thì cũng thấy rõ luận này chẳng phải chân tác của ngài Trí Giả. Điều này đã được trình bày rõ trong cuốn Nghiên cứu về giáo lý Tịnh Độ.

Về Ngũ phương tiện niệm Phật môn, theo Nhập Đường cầu pháp mục lục của ngài Viên Nhân có ghi là sách này do ngài Trí Khải trứ tác và trong Phật tổ thống kỷ quyển 25 cũng có nêu là sách này do ngài Trí Khải soạn thuật. Nhưng sách này dẫn dụng kinh Đại bảo tích do ngài Bồ-đề-lưu-chí dịch vào thời Đường, lập luận trong sách này cũng không hợp với học thuyết của ngài Trí Khải, có thể thấy sách này cũng chẳng phải do chính ngài soạn. Đây là tác phẩm giả mượn tên của ngài có liên quan đến tịnh độ mà thôi, chính là vì ngài Trí Giả cầu sinh Tây phương, ý muốn mượn danh tiếng của ngài để phù trợ sự hoằng truyền tịnh độ.

Tiết 2: Phân loại tịnh độ và phán định tịnh độ Di-đà

Ngài Trí Khải cũng có phân loại tịnh độ, Duy-ma kinh lược sớ quyển 1 v.v…đem chỗ cư trú của phàm thánh trong mười pháp giới phân làm 4 loại: Phàm thánh đồng cư độ, Phương tiện hữu dư độ, Thật báo vô chướng ngại độThường tịch quang độ.

- Phàm thánh đồng cư độ còn gọi là cõi Nhiễm tịnh, cũng tức cõi nằm trong giới nội, có hai loại là phàm cư và thánh cư. Cõi phàm cư thì có sự sai khác giữa chúng sinh thiện, chúng sinh ác, chỗ của trời người và bốn ác thú cư trú. Cõi thánh cư thì có sự phân biệt Thật thánh và Quyền thánh; nhị thừa và bồ-tát địa tiền sinh ở cõi giới nội thì gọi là Thật thánh; bồ-tát địa thượngNhư Lai vì để giáo hóa người có duyên mà ứng sinh vào giới nội thì gọi là Quyền thánh. Người ở cõi đồng cư có tịnh độuế độ, như thế giới Ta-bà đầy dẫy sự nhơ nhớp nên gọi là uế độ; thế giới Tây phương An Dưỡng trang nghiêm thanh tịnh, không có bốn đường ác nên được gọi là tịnh độ.

- Phương tiện hữu dư độcõi giới ngoại, tức là chỗ nhị thừa và bồ-tát chứng phương tiện đạo cư trú. Các bậc thánh nhân này đã tu phương tiện đạo của hai pháp quán Không và Giả, dứt trừ thông hoặc, xả bỏ thân phân đoạn, sinh ở giới ngoại cho nên gọi là phương tiện. Nếu chưa đoạn được biệt hoặc vô minh thì còn chịu biến dịch sinh tử cho nên gọi chỗ các ngài cư trú là cõi hữu dư. Kinh Pháp hoa có ghi: “Ta ở cõi khác làm Phật, còn có tên khác, người này tuy nghĩ rằng Ta đã diệt độ nhưng Ta ở cõi kia cầu trí tuệ Phật”. Lại nữa, luận Đại trí độ có ghi: “Hàng nhị thừa nhập diệt, tuy không sinh trong ba cõi nhưng ở giới ngoạitịnh độ, họ ở đó thụ thân pháp tính”, đây chính là chỉ cho cõi này.

- Thật báo vô chướng ngại độ còn gọi là Quả báo độ, tức là thế giới Liên Hoa Tạng chỗ bồ-tát pháp thân cư trú. Bồ-tát này quán nhất thật đế, phát chân vô lậu, đắc quả báo chân thật, nhưng vẫn chưa hoàn toàn hết vô minh, thấm nhuần nghiệp vô lậu, thụ báo thân pháp tính, cho nên gọi là Thật báo. Cõi này sắc tâm vô ngại, một thế giới nhiếp tất cả thế giới, tất cả thế giới cũng đều nhiếp tất cả thế giới, trùng trùng vô tận như các hạt châu của mạng lưới Nhân-đà-la, cho nên gọi là cõi Vô chướng ngại. Kinh Nhân vương bát-nhã có ghi: “Tam hiền, thập thánh trụ quả báo”. Luận Đại trí độ có ghi: “Pháp tính thân Phật thuyết pháp cho pháp thân bồ-tát nghe, cõi đó không có danh từ Thanh văn, Bích-chi-phật”. Thế giới Nhân-đà-la võng được nói trong kinh Hoa nghiêmthế giới Hoa Vương được nói trong luận Nhiếp đại thừa, cũng đều chỉ cho cõi này.

- Thường tịch quang độ còn gọi là Pháp tính độ tức là Diệu giác cực trí sở chiếu lý pháp giới như như, gọi đó là cõi. Bởi vì chân như Phật tính chẳng phải thân cũng chẳng phải độ, nay tạm thời dựa vào bên trí tính thì gọi là thân, dựa vào bên pháp tính thì gọi là độ. Lại nữa Thường nghĩa là pháp thân, Tịch nghĩa là giải thoát, Quang nghĩa là bát-nhã. Điều này có thể thấy là dựa vào tam đức mật tạng của Như Lai mà nói. Kinh Nhân vương bát-nhã có nói: “Chỉ có Phật ở tịnh độ”; kinh Duy-ma nói: “Tâm tịnh thì Phật độ tịnh”; kinh Phổ Hiền quán nói: “Thích-ca Mâu-ni còn được gọi là Tì-lô-giá-na biến khắp mọi nơi, chỗ của Phật cư trú gọi là Thường tịch quang; tất cả cũng đều chỉ cho cõi này.

Đây là ngài Trí Khải nói rộng về bốn cõi, ba cõi đầu là do tự nghiệp của chúng sinh cảm ứng, còn Thường tịch quang độ chỉ có Đức Phật mới được. Hai độ Phàm thánh đồng cư và Phương tiện hữu dư là chỗ Ứng thân Phật hóa hiện nên gọi là Ứng độ. Thật báo độ là chỗ báo thân Phật hóa hiện nên gọi là Ứng độ, cũng gọi là Báo độ. Thường tịch quang độ là chỗ pháp thân Phật cư trú nên gọi Chân tịnh độ, chẳng phải Ứng độ, cũng chẳng phải Báo độ.

Luận điểm về tịnh độ của ngài Trí Khải, cơ bản không khác với thuyết của ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn. Ngài Trí Khải phân biệt bốn độ, chúng sinh, Phật đều có cõi của họ, hoàn toàn đồng với thuyết của ngài Huệ Viễn đã nói. Bốn độ này đem so với các độ trong thuyết của ngài Huệ Viễn thì Phàm thánh đồng cư độ tương đương với Sự tịnh độ; Phương tiện hữu dư độ tương đương với Tướng tịnh độ; hai độThật báo và Tịch quang tương đương với Chân tịnh độ. Ngài Trí Khải lấy Phàm thánh đồng cư độ thông với hai cõi Tịnh và Uế; cõi Uế chỉ rộng ra là chỗ cư trú của chúng sinh trong sáu đường, khác xa với Sự tịnh độ của ngài Huệ Viễn theo sự tướng trang nghiêm tráng lệ mà lập ra. Nhưng trong Sự tịnh độ, ngài Huệ Viễn cho rằng chư thiên ở cõi Sắc, cõi Dục nhờ thiện căn hữu lậu mà sinh Uế độ, cho nên có thể nói trong Sự tịnh độ cũng bao hàm cả Uế độ. Lại nữa, nhờ thiện căn xuất thế mà được sinh về tịnh độ Di-đà, đây chính là cõi mà ngài Trí Khải đã nói là tịnh độ đồng cư, cho nên tông chỉ của hai thuyết có chung quan điểm. Phương tiện hữu dư độ chỉ cho chỗ cư trú của hàng A-la-hán v.v…phù hợp với cõi do thiện căn của hàng nhị thừa tự lợi mà được ở trong Tướng tịnh độ. Trong Tướng tịnh độ, ngài Huệ Viễn lập riêng cõi do thiện căn của các bồ-tát hóa tha mà được, phù hợp trượng thất của Duy-ma, còn ngài Trí Khải thì cho rằng đây chính là cõi nhất thời biến hiện nên lược bỏ. Thật báo độ tương đương hợp với Ly vọng độ, Tịch quang độ tương đương với Thuần tịnh độ trong Chân tịnh độ của ngài Huệ Viễn. Ngài Trí Khải giáo hóa ở Giang Nam, ngài Huệ Viễn cũng tham gia giảng thuyết ở đây, hai ngài phải chăng có qua lại với nhau, tuy không biết rõ nhưng ngài Trí Khải kém ngài Huệ Viễn 15 tuổi, vả lại thuyết của ngài Trí Khải phần nhiều là do môn nhân của ngài ghi chép lại, thuyết bốn độ này có lẽ là dựa vào thuyết của ngài Huệ Viễn, sửa đổi nhiều ít mà thành chăng!

Liên quan đến thân, độ của Phật Di-đà, ngài Trí Khải cho rằng Phật A-di-đà là ứng thân, cõi của Phật là Phàm thánh đồng cư độ. Duy-ma kinh lược sớ quyển 1 có ghi: “Cõi của Phật Vô Lượng Thọ tuy có quả báo thù thắng khó thể tỉ dụ nhưng cũng có nhiễm tịnh, phàm thánh đồng cư. Vì sao? Vì cõi này tuy không có bốn thú mà có trời người. Lại nữa, Quán kinh nói: “Người phạm trọng tội, nếu lúc mạng chung thành tâm sám hối, nhất tâm niệm Phật thì chuyển đổi được nghiệp chướng, liền được vãng sinh”. Vì thế, tuy hạng phàm phu đầy dẫy phiền não, cấu nhiễm nhưng nhờ trong tâm giữ chắc nguyện lực nên cũng được cư trú, phàm phu đầy dãy phiền não này cũng được sinh về tịnh độ, nên gọi cõi ấy là Phàm thánh đồng cư độ. Lại nữa, Pháp hoa văn cú quyển 9, Kim quang minh kinh văn cú quyển 2 v.v… luận về thọ lượng ba thân của Phật, pháp thân vô lượng phi lượng, báo thân kim cang trở về trước là hữu lượng, báo thân kim cang trở về sau là vô lượng, ứng thân tùy duyênhữu lượng, ứng dụng không dứt là vô lượng. Lại nữa, Phật Di-đà tuy gọi là Vô Lượng Thọ nhưng kinh Quán Âm thụ ký ghi: “Sau khi Đức Phật ấy nhập diệt, Quán Âm bổ xứ thành Phật”. Thọ mạng của Phật thật ra có lượng, cho nên Đức Phật kia là ứng thân. Đây cũng hoàn toàn đồng với thuyết của ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn.

Tiết 3: Thuyết Thường hành tam-muội

Ngài Trí Khải đối với sinh nhân của tịnh độ Di-đà dường như không có sự giảng giải nào khác, nhưng theo Quán kinh thì lấy ba phước, mười sáu pháp quán làm nghiệp vãng sinh, cũng không khó tưởng tượng. Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ có ghi: “Kinh này dùng quán tâm làm tông, dùng thật tướng làm thể. Người muốn vãng sinh Cực Lạc cần phải tu mười sáu pháp diệu quán; muốn thấy Di-đà Thế Tôn phải thực hành ba loại tịnh nghiệp”. Sách này tuy chẳng phải của ngài Trí Khải soạn, nhưng ý nó bao trùm luôn cả ý trên.

Lại nữa, Duy-ma kinh lược sớ quyển 1 ghi: “Tịnh độ phàm phu thật sinh là cõi không có bốn thú, chỉ vì còn kiến hoặc, tư hoặc tưới tẩm thiện hữu lậu nên sinh vào trời người”. Gọi Tịnh độ Di-đà này không có bốn ác thú, phàm phu sinh chỉ vì kiến hoặc, tư hoặc tưới tẩm thiện hữu lậu nên được sinh làm trời người trong cõi ấy. Chủ yếu là theo nghĩa của nhuận sinh hoặc mà nói.

Ngài Trí Khải ở trong Ma-ha chỉ quán còn dùng phương pháp chỉ quán tiến tu, nói bốn pháp tam-muội. Trong đó, y theo kinh Bát-chu tam-muội, gọi xướng niệm Di-đà là Thường hành tam-muội. Tuy chưa trực tiếp nói đây là nhân của hạnh tịnh độ, nhưng có thể biết người đắc tam-muội này cũng có thể vãng sinh. Ma-ha chỉ quán quyển 2 nói pháp Thường hành tam-muội: Người tu tam-muội này, trước phải trang nghiêm đạo tràng, chuẩn bị các đồ cúng dường, tắm rửa thân thể đúng pháp, thay đổi y phục, chuyên tâm hành đạo, lấy chín mươi ngày làm một kỳ hạn, tức là trong chín mươi ngày thân thường bước đi không ngừng nghỉ; miệng thường xướng danh hiệu Phật A-di-đà không ngừng nghỉ, hoặc vừa xướng vừa niệm, hoặc trước niệm sau xướng, hoặc trước xướng sau niệm, niệm xướng nối tiếp nhau không nghỉ. Trong từng bước từng bước, từng tiếng từng tiếng, từng niệm từng niệm chỉ giữ danh hiệu Phật A-di-đà. Ý luôn nghĩ đến Phật A-di-đà đang ngồi thuyết pháp cho bồ-tát nghe nơi gác báu, trong ao sen ở cõi Tây phương. Lại nữa, niệm ba mươi hai tướng của Đức Phật kia, theo chiều nghịch từ tướng bánh xe nghìn căm dưới chân, quán niệm lần cho đến vô kiến đỉnh tướng ở đỉnh đầu. Cũng có thể theo chiều thuận từ vô kiến đỉnh tướng ở đỉnh đầu đến tướng bánh xe nghìn căm dưới chân, cứ quán niệm ba mươi hai tướng của Đức Phật lặp đi lặp lại theo hai chiều thuận nghịch như vậy. Lại nữa, có thể ngay lúc ấy chăm chú quán tức Không, tức Giả, tức Trung.

Bởi vì pháp Bát-chu tam-muội thấy Phật, trước đây ngài Huệ ViễnLô sơn đã chọn pháp này để áp dụng, các thành viên của Bạch Liên xã đều thực tu pháp này, pháp này chủ yếu lưu hành ở phương Nam, ngài Trí Khải e rằng cũng chịu ảnh hưởng của ngài Huệ ViễnLô sơn, nên lấy pháp Bát-chu tam-muội thấy Phật làm một trong bốn loại tam-muội chăng! Sau này các ngài Thiện Đạo, Huệ Nhật, Thừa Viễn, Pháp Chiếu cũng đều tu pháp này, nên pháp này trở thành một dòng lớn trong giáo lý của tông Tịnh ĐộTrung Quốc.

CHƯƠNG X:

TỊNH ĐỘ LUẬNSINH NHÂN THUYẾT CỦA CÁT TẠNG

Tiết 1: Sự tích ngài Cát Tạng

Ngài Cát Tạng vốn là người nước An Tức (nước Táp-mạt-kiến), cha ngài tránh kẻ thù nên dời sang Nam Hải. Về sau, ông chuyển đến Kim Lăng (Nam kinh, Giang Tô), rồi mới sinh ngài Cát Tạng. Năm 12 tuổi, ngài xuất gia với ngài Pháp Lãng ở chùa Hưng Hoàng, học Bách luận v.v… Năm nhà Tùy bình định Bách Việt, ngài đi về phương Đông đến núi Tần Vọng (phủ Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang), dừng ở chùa Gia Tường giảng kinh luận, đồ chúng hơn cả nghìn người, đời gọi ngài là đại sư Gia Tường. Niên hiệu Đại Nghiệp thứ 2 (606TL), đời Tùy, theo lời thỉnh của Dạng Đế, ngài đến đạo tràng Huệ NhậtDương Châu (huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô). Ngài lại dời đến chùa Nhật Nghiêm ở Trường An (huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây), chỉ chuyên giảng thuyết kinh luận. Đầu niên hiệu Vũ Đức, thời Đường, ngài là một trong mười vị đại đức nổi tiếng đương thời, ngài giám sát hai ngôi chùa Thật TếĐịnh Thủy. Vào tháng 5 niên hiệu Vũ Đế thứ 6 (623TL), ngài bị bệnh và đã trứ tác Tử bất bố luận. Về sau, ngài thị tịch, hưởng thọ 75 tuổi (hoặc 70 hay 71 tuổi). Các sách của ngài trứ tác gồm Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ 1 quyển, Quán Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ 1 quyển, Pháp hoa kinh huyền luận 10 quyển, Pháp hoa kinh nghĩa sớ 12 quyển, Tịnh Danh huyền luận 8 quyển, Thắng Man bảo quật 6 quyển, Đại thừa huyền luận 5 quyển, Tam luận huyền nghĩa 1 quyển, Tam luận huyền nghĩa sớ 16 quyển v.v…cả thảy vài chục bộ.

Ngài Cát Tạng y theo giáo nghĩa của Bát-nhã cổ súy Vô đắc chính quán, ngài được tôn xưng là vị tổ trùng hưng tam luận và ngài cũng rất quan tâm đối với giáo môn Tịnh Độ, nên ngài đã giải thích văn nghĩa kinh Vô Lượng ThọQuán kinh sớ, trong bài tự, ngài ân cần thuật rõ yếu chỉ vãng sinh tịnh độ. Cát Tạng truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 11 ghi: “Ngài tạo hai mươi lăm tôn tượng, sớm tối chí thành lễ sám”. Nếu hai mươi lăm tôn tượng này là hai mươi lăm vị bồ-tát được nói trong kinh Thập vãng sinh A-di-đà Phật quốc thì có thể thấy được ngài là một người tín ngưỡng Di-đà. Cát Tạng truyện lại có ghi: “Khi ngài Cát Tạng sắp mạng chung, thị giả đốt hương, ngài bảo xưng danh hiệu Phật”. Tuy chưa rõ là danh hiệu Phật gì nhưng theo trong Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ v.v…của ngài, thấy được nhiều lần ngài nêu lên mười niệm vãng sinh, danh hiệu Phật ấy có phải là danh hiệu Di-đà hay không cũng chưa thể biết được. Tóm lại, đại sư Cát Tạng không phải là người chỉ giải thích về nghĩa lý của pháp môn Tịnh Độ mà thôi.

Tiết 2: Phân loại Tịnh Độ

Nay thử nói về ngài Cát Tạng đối với việc phân loại Tịnh Độ: Trước tiên, Đại thừa huyền luận quyển 5 nói rõ quốc độ có 5 loại độ: tịnh độ, bất tịnh độ, bất tịnh tịnh độ, tịnh bất tịnh độ và tạp độ.

Tịnh độ là cõi thuần tịnh của chúng sinh được bồ-tát giáo hóa, tu thiện duyên mà cảm ứng.

Bất tịnh độ là cõi bất tịnh của những chúng sinh tạo duyên ác mà chiêu cảm.

Tịnh bất tịnh độ nghĩa là ban đầu thì là cõi tịnh, sau khi duyên của chúng sinh cảm ứng được cõi tịnh này hết, thì có chúng sinh tạo duyên ác sinh đến, nên cõi này biến thành cõi bất tịnh, tức là sau khi Di-lặc nhập niết-bàn, thế giới Ta-bà này lại trở thành bất tịnh độ.

Bất tịnh tịnh độ nghĩa là ban đầu thì cõi này bất tịnh, duyên của chúng sinh cảm ứng cõi bất tịnh này hết , lại có chúng sinh tịnh thiện sinh đến, cõi này lại chuyển thành tịnh độ. Như khi Di-lặc xuất thế, thế giới Ta-bà này biến thành tịnh độ; lại như ban đầu Phật Thích-ca xuất hiệnuế độ, sau đó Linh Sơn biến thành tịnh.

Tạp độ là cõi tịnh uế xen tạp nhau do chúng sinh tạo nghiệp thiện, ác lẫn lộncảm ứng.

Năm độ này đều do tự nghiệp của chúng sinh cảm ứng, cho nên gọi là Báo độ của chúng sinh. Như một quốc gia phải có một vị vua; cũng vậy Đức Phật thường vào trong các Báo độ này để giáo hóa chúng sinh, cho nên những Báo độ ấy cũng gọi là Ứng độ. Vì vậy, Báo độ của chúng sinh chia thành 5 loại riêng biệt, Ứng độ của Đức Phật ứng hiện cũng có 5 loại, hợp thành 10 độ. Trong Quán kinh sớ của ngài cũng nói báo, ứng, tịnh, uế mỗi cõi đều có 5 câu riêng biệt: 1. Trước uế sau tịnh, 2. Trước tịnh sau uế, 3. Trước sau đều tịnh, 4. Trước sau đều uế, 5. Trước sau tạp hội. Trước uế sau tịnh tức là Bất tịnh tịnh độ ở trước; Trước tịnh sau uế tức là Tịnh bất tịnh độ ở trước; Trước sau đều tịnh tức là Tịnh độ thứ nhất; Trước sau đều uế tức là Bất tịnh độ; Trước sau tạp hội tức là tương đương với Tạp độ ở trước. Hai sách này đồng một thuyết. Trong Hoa nghiêm kinh du ý có ghi: Phân biệt 5 độ này vốn là do ngài Tăng Duệ lập ra. Nếu như vậy thì nhất định là ngài dựa theo thuyết của ngài Tăng Duệ.

Lại nữa, ngài đối với tịnh độ trong 5 độ, lại chia làm 4 loại: 1. Phàm thánh đồng cư độ, 2. Đại tiểu đồng trụ độ, 3. Độc bồ-tát sở trụ độ, 4. Chư Phật độc cư độ. Đại thừa huyền luận quyển 5 giải thích:

1. Phàm thánh đồng cư độ, như khi Di-lặc xuất thế thì phàm thánh cùng cư trú trong tịnh độ giới nội, lại như phàm phu cùng với thánh hiền tam thừa đồng vãng sinh về chín phẩm ở thế giới Tây phương Cực Lạc.

2. Đại tiểu đồng trụ độ là cõi mà A-la-hán, Bích-chi-phật và đại lực bồ-tát xả thân phần đoạn ở trong ba cõi mà sinh về tịnh độ giới ngoại, tức hàng nhị thừa Tiểu thừa và bồ-tát Đại thừa đồng cư trú, cho nên gọi là Đại tiểu đồng trụ độ.

3. Độc bồ-tát sở trụ độ là cõi chỉ có chúng bồ-tát cư trú, không có danh tự nhị thừa, như thế giới Hương Tích, thế giới Thất Bảo.

4. Chư Phật độc cư độ là cõi chỉ có Phật cư trú, kinh Nhân vương nói: “Tam hiền thập thánh trụ quả báo, chỉ có Phật một mình cư trú ở tịnh độ”.

Lại nữa, Pháp hoa nghĩa sớ quyển 10 có ghi: “Ba thân của Phật đều có độ của mỗi thân, phân biệt thành Pháp thân độ, Báo thân độ và Hóa thân độ”.

Pháp thân độ tức Thật tướng độ như kinh Phổ Hiền quán ghi: “Thích-ca Mâu-ni còn gọi là Tì-lô-giá-na biến khắp mọi nơi, chỗ Phật ấy trụ gọi là Thường tịch quang”. Kinh Nhân vương bát-nhã ghi: “Chỉ có riêng một mình Phật cư trú ở tịnh độ”. Kinh Bồ-tát anh lạc ghi: “Cũng lấy trung đạo đệ nhất nghĩa gọi là Pháp thân độ”, đều chỉ cho độ này.

Báo thân độ, báo thân tức là ứng thân, có 2 loại: nội ứng thân và ngoại ứng thân. Nội ứng thân tương ưng với pháp thân, cũng thuộc pháp thân và với pháp thân đồng độ. Pháp hoa luận ghi: “Tịnh độ của Ta không bị hủy hoại mà chúng sinh thấy cháy rụi, chân thật tịnh độ của báo Phật Như Lai thuộc Đệ nhất nghĩa”, tức là chỉ cho độ này. Ngoại ứng thânbáo thântịnh độ thành Phật giáo hóa đại bồ-tát, lấy bảy thứ báu làm Tịnh Độ, tuy không bị kiếp hỏa thiêu cháy nhưng cuối cùng cũng có diệt tận, không thể xem đồng với Đệ nhất nghĩa đế. Hóa thân độ như cõi hóa thân của Thích-ca v.v… cư trú, có sự khác biệt bảy báu với đất cát, thông cả tịnh và uế nhưng đều có thể hoại diệt, cho nên gọi là Hóa độ.

Đối với ba độ này, nếu phân ra thường và vô thường thì Pháp thân độ chỉ có thường, chẳng có vô thường; Hóa thân độ chỉ có vô thường chứ không có thường; Ứng thân độ cũng thường cũng vô thường, nội ứng thân độ là thường, ngoại ứng thânvô thường. Nếu phân hai độ tịnh và uế: hai cõi Pháp thânBáo thân là độ của tịnh hóa thân bất định hoặc tịnh hoặc uế. Lại nữa, ngài Cát Tạng lại căn cứ vào hai môn Bản và Tích để phân loại tịnh độ: Pháp thân độ là Bản độ, hai độ Báo và Hóa là Tích độ. Pháp hoa huyền luận quyển 9 của ngài ghi: “Nếu hợp ba thân làm hai thân Bản và Tích thì Pháp thân thuộc Bản độ, hai thân kia thuộc Tích độ”. Trong Tịnh Danh huyền luận quyển 9 ghi: “Độ tuy vô lượng nhưng không ra ngoài ba loại: Pháp thân thuộc Bản độ và hai độ Báo, Ứng thuộc Tích độ”, tức là chỉ cho thuyết này.

Ngài Cát Tạng chia tịnh độ thành bốn loại, lại luận về tịnh độ của Phật có ba độ và hai độ khác. Đại thể là noi theo thuyết của ngài Huệ Viễn và ngài Trí Khải, bốn loại tịnh độ được nói trong đó, hầu như giống hoàn toàn với thuyết của ngài Trí Khải. Phàm thánh đồng cư độ thì cả hai thuyết đều đồng tên; Đại tiểu đồng trụ độ, ngài Trí Giả gọi là Phương tiện hữu dư độ; Độc bồ-tát sở trụ độ, ngài Trí Giả gọi là Thật báo trang nghiêm độ; Chư Phật độc cư độ, ngài Trí Giả gọi là Thường tịch quang độ. Trong đó đem Phương tiện hữu dư độ đổi tên thành Đại tiểu đồng trụ độ, đại lực bồ-tát cũng trụ trong đó, đây là điểm khác của ngài. Đây chính là căn cứ kinh Thắng Man, được gọi là thuyết Biến dịch sinh tử, đem độ này làm chỗ cư trú của người biến dịch bất khả tư nghị.

 

Ngài Cát Tạng kém ngài Trí Giả hơn hai mươi tuổi, tương truyền ngài từng nghe ngài Trí Giả giảng pháp, sự phân loại tịnh độ này có lẽ dựa vào thuyết của ngài Trí Giả chăng! Lại nữa, tịnh độ của Phật có ba loại Pháp, Báo và Hóa cũng vốn là thuyết của các ngài Huệ Viễn v.v… đã đề xướng. Thuyết hai độ Bản và Tích thông với nghĩa hai độ Chân và Ứng của ngài Huệ Viễn. Thuyết Nội ứng thân và Ngoại ứng thân cũng có thể thấy đồng một nghĩa với Pháp ứng độ và Báo ứng độ trong Viên ứng độ của ngài Huệ Viễn, cho nên có thể gọi luận điểm về Tịnh độ luận của ngài Cát Tạng, phần nhiều kế thừa thuyết của người xưa.

Tiết 3: Phán định về Tịnh độ Di-đà

Liên quan đến Tịnh độ Di-đà, ngài Cát Tạng cho rằng Phàm thánh đồng cư độ là một trong bốn độ thì đồng với thuyết của ngài Trí Khải. Vì phàm phu đủ thứ trói buộc mà cũng được vãng sinh cõi ấy, cõi ấy phàm thánh ở chung, dựa theo người cư trú mà gọi là đồng cư độ. Nhưng nếu căn cứ theo bốn mươi tám lời nguyện của Đức Phật A-di-đà phát nguyện khi còn tu nhân, trang nghiêm cõi nước mình thì cõi ấy là Báo độ, lại có thể gọi là Ứng độ. Liên quan đến vấn đề này, Quán kinh nghĩa sớ nêu ra dị thuyết của Bắc địa và Nam địa. Như trong sớ này đã ghi: “Sư ở Giang Nam nói: Báo độ này là do bồ-tát Pháp Tạngđịa vị phàm phu tu tích không quán đã phát bốn mươi tám nguyện mà thành”. Người Bắc địa nói: “Ở giai vị pháp thân Bát địa trở lên phát nguyện mà thành cho nên gọi là Báo độ”.

Ngài Cát Tạng lập ra hai môn Thông và Biệt để luận, theo Thông môn thì tất cả quốc độ chỉ là thù nhân, nên có thể gọi là Báo độ. Nhưng theo Biệt môn thì không như vậy, vì bồ-tát Pháp Tạng có hai môn Bản và Tích. Theo Tích môn mà luận thì ở địa vị phàm phu lấy nguyện để tạo độ, có thể gọi là Báo độ, nên kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật ấy thành Phật đến nay đã trải qua mười kiếp, nay đang ở thế giới Vô Lượng Thọ”. Nếu luận theo Bản môn thì bồ-tát này ở địa vị Đẳng Giác, không còn tạo nghiệp cho nên chẳng phải là Báo độ mà chỉ là cõi ứng hiện. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Nay Ngài thành Phật, cõi nước bảy báu tự nhiên hiện ra”. Đây là căn cứ vào giai của bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện nên phân biệt hai độ Báo và Ứng. Nếu căn cứ vào ý nghĩa của Tích môn trong kinh Pháp hoa thì khi bồ-tát kia ở địa vị phàm phu đã phát nguyện, thực hành ba-la-mật nên cõi nước được tạo ra là nhờ cảm báo của nhân hạnh mà thành, vì vậy gọi cõi ấy là Báo độ của Phật. Nếu theo ý nghĩa của Bản môn thì bồ-tát từ Bát địa trở lên, ở địa vị Đẳng Giác đã phát nguyện, bồ-tát này sau đó không còn tạo nghiệp để cảm quả nên cõi ấy gọi là Ứng độ. Đây chính là chiết trung hai thuyết của Bắc Địa và Nam Địa, chủ trương Phật và chúng sinh đều có tịnh độ, chúng sinh tu nhân thì sinh về cõi nước ấy, đây là Báo độ của chúng sinh, đồng thời chính là Ứng độ của Phật. Nói cách khác, chúng sinh tu nhân thì được cảm quả sinh vào Ứng độ của Phật.

Lại nữa, tịnh độ Di-đà ở trong phần đoạn sinh tửbiến dịch sinh tử thì nó thuộc vào loại nào? Quán kinh nghĩa sớ cũng nêu ra hai thuyết của Bắc Địa và Nam Địa. Thuyết của Nam Địa nói: “Do nhân sở hành ở trong hạng phàm phu cạn cợt mà được, nên quả báo không được tốt đẹp, vì thế thuộc về phần đoạn”. Thuyết của Bắc Địa nói: “Đây là sở hành và sở tạo của bồ-tát ở giai vị cao thâm từ Bát địa trở lên đã tạo, cho nên gọi là quả báo biến dịch bất khả nghị”. Ngài Cát Tạng lấy thuyết hạng phàm phu phát nguyện của Nam Địa, vì thọ mạng ở cõi kia tuy vô lượng nhưng lại có kỳ hạn chung tận, cho nên thuộc về phần đoạn.

Lại nữa, cõi Vô Lượng Thọ có thuộc về ba cõi hay không, cũng có hai thuyết:

1. Bắc Địa y theo luận Đại trí độ nên nói: Vì vô dục nên chẳng phải cõi Dục, vì địa cư nên chẳng phải cõi Sắc, vì có sắc nên chẳng phải cõi Vô Sắc, nên chủ trương cõi ấy chẳng thuộc ba cõi.

2. Nam Địa nói: Vì chưa dứt phiền não trong ba cõi mà được vãng sinh nên thuộc ba cõi. Trí luận nói: Vô dục chẳng phải thể khôngphiền não, nhưng chỉ vì không có sự hiện hành của phiền não nên nói là Vô dục.

Ngài Cát Tạng đối với việc này chia ra làm hai loại là ba cõi phương tiệnba cõi thật sinh. Theo cái thấy của hạng phàm phu nghiệp uế thì tịnh độ Di-đà thuộc ba cõi phương tiện. Như kinh Vô Lượng Thọ có ghi: “Cõi trời Ba Mươi Ba nương vào đâu mà trụ? Đức Phật nói: Nương nghiệp báo mà trụ”. Lại nữa, kinh Hoa nghiêm ghi cõi ấy là tịnh độ thuộc phẩm thấp nhất trong trăm vạn a-tăng-kỳ phẩm. Trong đây, tuy không chỉ rõ là luận sư của Nam Địa hay Bắc Địa nhưng có thể biết ngài Cát Tạng chủ yếu theo thuyết của luận sư Nam Địa.

Tiết 4: Sinh nhân tịnh độ và giai vị của người vãng sinh chín phẩm

Ngài Cát Tạng đối với nghiệp nhân vãng sinh tịnh độ chia ra làm hai môn Thông và Biệt. Thuyết Thông môn thì tổng hợp ba phúc, mười sáu pháp quán làm sinh nhân tịnh độ. Thuyết Biệt môn thì lấy tâm bồ-đề làm nghiệp chủ của nó, còn các điều thiện khác như ba phúc, mười sáu pháp quán v.v…dùng làm nghiệp duyên. Trong đó, tâm bồ-đề làm nghiệp chủ vì tâm bồ-đề chính là chính nhân để đạt đến quả vị Phật. Chúng sinh nghe nói con đường thành Phật dài xa, phần nhiều sinh tâm thoái lui nên tạm chỉ ra quả gần ở tịnh độ để làm duyên tiến đến quả Phật, cho nên vãng sinh tịnh độ là lấy tâm bồ-đề làm chủ. Điều này do ngài Cát Tạng kế thừa ý của hai ngài Đàm LoanHuệ Viễn rồi nhấn mạnh thêm. Nghiệp duyên chính là chỉ ba phúc, mười sáu pháp quán.

Liên quan đến ba phúc, ngài Cát Tạng cho rằng ‘thế phúc’ là điều thiện của hạng phàm phuthế gian; ‘giới phúc’ là điều thiện của Tiểu thừa; ‘hạnh phúc’ là điều thiện của Đại thừa. Nhưng ba phúc này, hoặc ba người tu ba phúc riêng biệt, hoặc một người tu cả ba phúc. Một người tu thì ban đầu tu điều thiện ở thế gian, kế nhập vào Phật pháp thụ tam quy, ngũ giới, rồi từ Tiểu chuyển sang Đại, tu trì ‘hạnh phúc’. Người tu ba phúc này được sinh Tây phương, vì ba loại phúc này đều làm cho tâm họ thanh tịnh. ‘Tâm tịnh nên cõi Phật tịnh’ trong kinh Duy-ma là nói lý này.

Nói về mười sáu pháp quán: mười ba pháp quán đầu đều là quán về quả, gọi chung là quán Vô Lượng Thọ. Ba pháp quán sau quán về nhân gọi là quán Cửu bối. Pháp quán có 2 loại: sinh diệtbất sinh diệt. Quán sinh diệt thì quán pháp sinh diệt của các hiện tượng; quán bất sinh diệt thì quán chung lý của thật tướng bất sinh diệt. Hai pháp quán này hoặc hai người tu hai quán riêng biệt, hoặc một người tu cả hai quán. Hai người tu hai quán riêng biệt là người Tiểu thừa tu quán sinh diệt, người Đại thừa tu quán bất sinh diệt. Một người tu cả hai quán thì trong Đại thừa đầy đủ hai quán này, tức là quán ứng thân Đức Phật sinh ở Vương cung, diệt độ tại Song Lâm là quán sinh diệt; quán pháp bất sinh ở Vương cung, không diệt độ tại Song Lâm là quán bất sinh diệt. Quán được nói trong Quán kinh tức là hai quán sinh diệtkhông sinh diệt của Đại thừa. Tuy đủ cả hai quán nhưng chỉ nói quán sinh diệt, vì chủ yếu là quán quả sinh diệt của năm thứ: kiếp số dài ngắn, vị hóa chủ, quốc độ, giáo mônđồ chúng ở nước đó.

Trong mười sáu pháp quán, mười ba pháp quán trước gọi chung là quán Vô Lượng Thọ nhưng không gọi quán Phật Vô Lượng Thọ, trong các quán ấy không chỉ niệm Phật, mà còn quán rộng về quả của năm thứ thanh tịnh như thời tiết v.v… Lại nữa, quán Vô Lượng Thọ này có thể gọi là Niệm Phật tam-muội, nhưng niệm Phật cũng có phân biệt niệm pháp thân Phật, niệm sinh thân Phật. Niệm thật tướng của các pháp gọi là niệm pháp thân Phật, niệm ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp của Như Lai thì gọi là niệm sinh thân Phật. Nay quán Vô Lượng Thọ trong kinh này chính là quán các tướng hảo quang minh của Như Lai, tức là niệm sinh thân Phật, chẳng phải niệm pháp thân Phật. Niệm Phật tam-muội có công năng trị hết tất cả ba độc. Vì thế, luận Đại trí độ có ghi: Các tam-muội khác hoặc trị sân mà chẳng trị nghiệp, hoặc trị nghiệp mà chẳng trị báo; nhưng Niệm Phật tam-muội trị hết tất cả, trị hết ba độc, ba chướng; nghĩa là tam-muội này có công năng đối trị tất cả hoặc chướng, nghiệp chướngbáo chướng. Tu tam-muội này thì có thể diệt được tội chướng, vãng sinh tịnh độ, tuyên dương công năng Niệm Phật tam-muội.

Quán Cửu bối là ba pháp quán sau, quán nhân vãng sinh của người sinh ở tam bối cửu phẩm . Quán thượng bối là quán người Đại thừa tu thiện Đại thừa, đắc quả Đại thừa. Quán trung bối là quán người Tiểu thừa tu thiện Tiểu thừa, đắc quả Tiểu thừa. Quán hạ bối là quán chúng sinh làm ác không làm thiện, khi sắp mạng chung nhờ nghe pháp vi diệu của Đại thừađắc quả Đại thừa. Pháp quán này đồng một ý nghĩa với pháp quán tha sinh của ngài Huệ Viễn, tức là y theo kinh mà được cửu bối này nên đều gọi là quán.

Lại nữa, ngài Cát Tạng phán định giai vị của người vãng sinh chín phẩm: Người thượng phẩm thượng sinh về cõi Cực Lạc thì đắc Vô sinh pháp nhẫn, Vô sinh pháp nhẫn tuy thông với Sơ địa, nhưng nhờ người hạ phẩm thượng sinh đắc pháp Vô sinhSơ địa, biết pháp Vô sinh của thượng phẩm thượng sinh, ắt chỉ cho sở đắc ở giai vị Thất địa. Nhưng lại có người vượt giai vị như Thích-Ca thành Phật trước Di-lặc thì giai vị ấy thật không thể biết được. Người trung phẩm thượng sinh về cõi ấy trải qua một tiểu kiếp đắc Vô sinh pháp nhẫn, Vô sinh pháp nhẫn này cũng chỉ cho sở đắc ở giai vị Thất địa, cho nên biết người này đã là bồ-tát Địa thượng. Người hạ phẩm thượng sinh sinh về cõi ấy, đắc Vô sinh pháp nhẫnSơ địa, có thể biết người này là Tam hiền trước thập địa. Lại nữa, ba phẩm của hạ bối dựa theo sự nặng nhẹ của việc làm ác mà phân phẩm vị, tức thượng phẩm hạ sinh làm mười điều ác, trung phẩm hạ sinh phạm bốn tội trọng, hạ phẩm hạ sinh là người tạo năm tội nghịch. Nếu người phỉ báng pháp, xiển đề không sinh tịnh độ, do nghe pháp tịnh độkhông sinh lòng tin, cho nên không được vãng sinh. Lại nữa, người Tiểu thừa nghe nói có mười phương chư Phật mà họ không tin, cũng không được vãng sinh, cho nên những hạng người này đều không thuộc trong chín phẩm. Nhưng trong Quán kinh sớ chỉ luận về căn cơ của hạng thượng bối và hạ bối này, chưa nêu ba phẩm ở trung bối, e rằng y theo văn kinh, thượng phẩm trung sinh là bậc thánh nhân ở ba quả trước, còn hai phẩm trung trung, trung hạ là nội phàm, ngoại phàm ở bậc kiến đạo trở lên, các phẩm này chỉ theo quả sở đắc sau khi vãng sinh, phán định giai vị chín phẩm về cơ bản thì giống với thuyết của ngài Huệ Viễn.

[1] Bác sĩ đệ tử博士弟子: là chức quan văn đời Tiền Hán

[2] Y-bồ-tắc伊蒲塞 (S: upāsaka): tức ưu-bà-tắc dịch là cư sĩ nam, ở đây chỉ cho Sở Vương Anh

[3] Tang-môn 桑門:tức là sa-môn (S: śramaṇa):chỉ cho người xuất gia đã thụ giới Cụ túc trong đạo Phật.

[4] . Lục Kinh: sáu kinh của Nho gia: kinh Thi, kinh Thư. Kinh Lễ, kinh Nhạc. kinh Dịch, kinh Xuân Thu

[5]. Đại Tiên chỉ cho Đức Phật

[6] Ngũ trí: 1. Phật trí, 2. Bất tư nghì trí, 3. Bất khả xưng trí,.4. Đại thừa quảng trí, 5. Vô lượng vô luân tối thắng trí (kinh Vô Lượng Thọ)

Nguồn: http://tuvienhuequang.com/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11384)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11548)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13538)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14123)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10302)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10767)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11317)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11269)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11424)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10162)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9962)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10690)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42189)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10481)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11855)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10008)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10451)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10612)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45737)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11317)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11316)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10629)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13454)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12364)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11015)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10608)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12306)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11163)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11838)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29247)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9215)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10532)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10226)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10578)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10908)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10799)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32122)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27378)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17775)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11856)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12281)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10441)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11696)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10420)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10779)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10142)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10280)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10639)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10762)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10394)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11470)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18242)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10516)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12843)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11750)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29171)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28576)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28276)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13314)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22770)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11563)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13803)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25709)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26068)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22293)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12064)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11793)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33166)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31834)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12016)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39612)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22474)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11956)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14217)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13343)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12063)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10391)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11224)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13295)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34509)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12612)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12223)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13529)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12618)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12963)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16292)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11732)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27377)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28423)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant