Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 1: Mạch Sống Của Mỗi Chúng Sinh

08 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6810)
Phần 1: Mạch Sống Của Mỗi Chúng Sinh


VÔ NIỆM VIÊN THÔNG YẾU QUYẾT

Thích Minh Thiền
Phật Lịch 2536 - 1992

 

PHẦN THỨ NHẤT
MẠCH SỐNG CỦA MỖI CHÚNG SANH

Đã vốn không đầu không đuôi, không xưa không nay, không tên không chữ, thê là con số không chưa viết. Mà đã là con số không chưa viết thì đâu còn gì mắc kẹt trong cái có với không, mê hay ngộ! thì làm gì có Phật với chúng sinh! Và tất cả bổn lai là Phật thì lấy đâu để nói để viết là mạng mạch hay không mạng mạch! Tuy bổn lai là Phật, nhưng chỉ vì quên mình là Phật nên bị kẹt vào chúng sinh. Đã có kẹt tất phải có gỡ. Đã nói gỡ tất phải biết rõ chỗ mắc kẹt. Cho nên sự thể không thể khác hơn! Chỉ có khi gỡ bằng cách nào để khỏi kẹt vào tướng gỡ và tướng bị gỡ mới đích thực là tài tử giải thoát.
*

THÂNcon người là một động vật như bao nhiêu động vật khác, là một tác phẩm kết hợp một cách chặt chẽ của hai hệ thống thân và tâm. Cả hai đều thuộc lãnh vực tướng, nên cả hai đều tổ hợp vô thường sanh diệt bất tề trong một quy luật khẳng định của trật tự thiên nhiên. Nếu tách rời tâm ra thì thân chỉ là một thiên nhiên. Nếu tách rời tâm ra thì thân chỉ là một khối thịt vô tri như bao nhiêu vật chất khác.

Nhưng khi đã mắc liền với tâm rồi thì tất cả những ăn uống sinh hoạt, hoàn cảnh tâm tư, gia đình, xã hội, khí hậu, thời tiết thọ bẩm … đều có thể chi phối nó. Cho nên lòng buồn sanh bịnh, bịnh sanh lòng buồn, “Lòng quanh quéo sông càng quanh quéo, cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu”. Nếu nghiêm cách mà nói thì phần xác thân chưa hẳn là chánh phạm hay nguồn bịnh mà chỉ là một công cụ để cho tâm vọng có chỗ đam mê bám sát vào và biến thân thành một kho tàng tội lỗi làm cho những người nhìn theo kiểu cạn cợt đều lầm lạc may quy tội cho thân, cho nên có người nói: “Không biết bổn tâm học đạo vô ích”. Nói như thế đâu phải là vô cớ!
 
TÂM” thế nào là tâm của mỗi chúng sinh? Làm sao biết chắc qủa có cái gọi là tâm chứ?
 
Ta hãy chọn lúc đêm trường canh vắng, vào phòng ngủ ngồi xếp bằng tròn nhắm mắt lại, và đừng nghĩ đến bất cứ điều gì, lặng lẽ ngồi im độ 15 phút là ta sẽ thấy ngay trong ta không phải chỉ là một khối im lìm lặng hơ như ta tưởng mà là có cả sông ngòi, rừng cây xóm làng, thành ấp, trời đất, trăng sao thành phố, xe cộ, người vật, gà gáy, chó sủa … đang lao xao di động. Đó chính là tâm của chúng sinh. Tâm này còn vô số tên như là NGHIỆP THỨC, là TẬP NGHIỆP, là TÂM NHÓM CHỨA, là TÂM CUỒNG LOẠN, là TÂM VỌNG, là TÂM SANH DIỆT
 
bao gồm cả pháp sắc và pháp tâm do bao cuộc tiếp xúc chạm tương giao tận tự lũy kiếp theo đà mê muội nhóm chứa thành một kho tàng vĩ đại mà trong đó chỉ là bóng dáng của tất cả những sự việc đã qua, kết thành một khối to tát, lúc nào cũng hoạt động dồn dập, dạt dào, khi náo nhiệt, khi tiêu trầm tựa như biển khơi sóng gió, ngoài sức khống chế của trí óc thường tình làm cho thiện chí thường bị bẻ cong.

Thí dụ như khi ta bị đột ngột va chạm với sắc, tình, danh, lợi chẳng hạn. Do đó nếu nói dễ thấy, dễ biết, thì cũng rất dễ thấy dễ biết, nếu nói khó thấy khó biết thì cũng khó thấy khó biết ghê! Nay ta muốn khống chế tâm này một cách dễ dàng hầu chủ động hoàn toàn cuộc sống cho ứng hợp với trật tự thiên nhiên, cắt đứt sức hấp dẫn của luân hồi sanh tử, vượt khỏi khổ đau, thoát vòng tục lụy đem lại sự bình an ngay kiếp sống hiện tại, không còn bị lệ thuộc vào bất cứ một thành kiến nào, thì ít nhất ta phải có cách biết hết những chỗ hiểm yếu của nó. Do đó ta có thể chia vọng tâm ra làm 4 phần như sau:

1. PHẦN HIỆN TẠI:
 
Phần này ta có thể khống chế được, thí dụ bắt nó niệm Phật chẳng hạn. Nên cũng có khi người ta gọi là trí óc hay ý thức.

2. PHẦN NHÓM CHỨA
 
Vì do sự nhóm chữa của lũy kiếp muôn đời cộng lại nên gọi là “Tâm nhóm chứa”. Vì nó có khả năng tự động để thúc đẩy chúng sinh sa vào con đường ngoài ý muốn, nên gọi là NGHIỆP NHÓM CHỨA HAY NGHIỆP LỰC

3. PHẦN VỪA BIẾT CÓ THẤY BIẾT:
 
Phần này còn có tên là “Căn bản vô minh”. Vì phần này chính là phần dựng đứng cái TÔI trong khi mới vừa cục cựa nứt mắt, do sáng tối, nóng lạnh động tĩnh đánh thức ngay từ kiếp đầu tiên. Tất cả tâm lý nhị nguyên sau này đều lấy đây làm nền tảng.

4. PHẦN HỖN ĐỘN VÔ KÝ:
 
Vì là phần chưa phân rõ là khoáng, động hay thực, hãy còn nằm trong thế hôn me chưa sống động, chưa hẳn là có biết, của kiếp hóa sanh nguyên thỉ và làm nền tảng cho tánh hôn mê mờ mịt sau này, mà nhà Phật thường gọi là tánh vô ký. Chính nó là một cụm mây ở gần mặt trời nhất, mỏng nhất, mà lại che khuất nổi mặt trời. Cho nên đây cũng là cửa ải cuối cùng của tận đáy tâm hồn của chúng sinh vậy.
 
Thông qua 4 phần vọng tâm này, ta thấy phần hiện tại qúa yếu đuối, bé bỏng, ngắn ngủi, còn 3 phần đã qua lại dài lê thê vĩ đại và quá nặng nề, bảo sao phần hiện tại không đủ sức điều động nổi phần quá khứ?! Đây cũng là thế tất nhiên. Nếu giàu tưởng tượng một chút ta có thể tưởng tượng biến guồng máy vọng tâm này ra thành một tập đoàn áp tải của một đảng cướp do 3 anh em ruột điều động mà anh thứ ba là “phần hiện tại” điều khiển chiếc tàu đầu tiên.

Đó là phần thứ nhất. Và móc nối theo phần thứ hai là một đoàn ghe, chài dài giăng giẳng chở đầy nhóc khẩm ứ những tang vật đánh cướp, cộng thêm một mớ lâu la thâu phục được ở dọc đường, đang lầm lì gắng hết sức nhắm hướng biển khơi mà đi tới. Tiếp theo phần thứ ba và thứ tư là hai con tàu nhỏ hậu tập do anh thứ hai (phần vừa biết có biết thấy) và anh cả (phần hỗn độn vô ký) điều khiển.

Mới trông qua hình như quyền điều động ở đằng đầu, nhưng không ai ngờ sự thực lại không phải thế. Nếu anh ba có thế lực mạnh thì quyền lãnh đạo bị anh ba chi phối. Nhưng nếu anh ba thế lực yếu thì quyền điều động lại thuộc về anh hai và anh cả. Cho nên dù ngài là người thuộc lãnh vực tôn giáo nào, giai cấp nào, địa vị nào, quyền thế nào, tài năng nào, hay ngài có thể đi vào lửa, vào nước, lên cung trăng, lên hỏa tinh, thiên biến vạn hóa như Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký chăng nữa cũng không vì thế mà sự thể có đổi khác. Nếu ngài không giải tán được tập đoàn này thì cuộc sống của ngài dù có tột bậc đến đâu cũng không vì thế mà được yên vui bảo đảm.
 
Nếu tập đoàn này chưa được quét sạch, dù ngài có khả năng kiến thiết cả một nước cực lạc hay thiên đàng, thì nước cực lạc hay thiên đàng ấy chẳng qua cũng là thứ kiến thiết dựa lưng vào làn mây hỗn độn vô ký thuộc phần anh cả cai quản mà thôi vậy.
 
Nếu muốn kiến thiết lại con người, làm lại cuộc đời, xây dựng lại cuộc sống, đem lại hạnh phúc cho chính mình cũng như cho người khác, xây dựng lại yên vui vĩnh cửu mà bỏ qua tập đoàn này không nghĩ cách giải quyết dứt khoát, thì hình thức tôn giáo càng xây dựng đẹp đẽ bao nhiêu càng chỉ là một thứ thuốc an thần, một cơ quan đầu tư lợi dụng lẫn nhau một cách hấp dẫn, rồi cuối cùng sẽ làm giàu và tăng cường thêm sức mạnh cho tập đoàn cướp bóc này chớ không thể khác.

Hơn nữa nếu tập đoàn này vẫn còn nguyên, dù chúng ta được Phật hay Chúa … rước về cho ở chung, hay sờ đầu làm phép lạ chi chi … cũng không vì thế mà cuộc sống trở nên mới mẻ. Mà giả sử có giải tán hết tập đoàn này đi chăng nữa nhưng tất cả tàu bè ghe cộ nếu còn nguyên thì chắc chi không có kẻ khác nhảy vào lợi dụng đạo đức giả để nối tiếp! Thế là cái thuộc về TÔI đã hết nhưng cái TÔI vẫn còn nguyên, rồi sẽ đâu hoàn đấy! Đây là điều không thể xem thường.
 
TÁNH” thế nào là tánh? Làm sao biết chắc có cái gọi là TÁNH? 
 
Từ xưa đến nay, điểm này không mấy ai chịu nói trắng ra vì sợ tài bồi thêm cho sự nghiệp của những kẻ đầu tư kiến thức. Tuy nhiên không phải vì thế mà không có tiêu chuẩn ấn định để ai muốn nói sao thì nói.
 
Ngũ Tổ nói: “Bổn tánh nếu bỏ quên thì phúc nào cứu được” thế là bổn tánh là cái mà mỗi chúng sinh đều cần phải biết chớ phải đâu là cái không thể biết!
 
Khi Lục Tổ Huệ Năng trực nhận được bổn tánh này có nói: 

 “Không dè bổn tánh của mình vốn tự thanh tịnh.
 Không dè bổn tánh vốn không sanh không diệt.
 Không dè bổn tánh vốn không lay động.
 Không dè bổn tánh vốn có khả năng sinh ra vạn pháp.
 Không dè vạn pháp vốn không lìa tự tánh.”
 
Thế là Lục Tổ Huệ Năng đã nói toạc ra rằng bổn tánh là không hình tướng, là suốt khắp, là không có trong và ngoài – nên không có sanh diệt, không có chuyện không thanh tịnh hay thanh tịnh. Nhưng chính nó là nền tảng để hóa sinh ra vạn hữu. Vạn hữu không thể lìa nó mà tồn tại, con người không thể lìa nó mà có sự sống; theo đây ta có thể nói thêm nếu không có nó thì vạn hữu còn không có làm sao có con người để có thấy có nghe, có hay có biết, cho đến làm sao có phi thuyền vượt không gian, vô tuyến truyền thanh truyền hình … thậm chí những chuyện hết sức tre con nhỏ nhít như bói toán cũng không có được. 
 
Vì thế không có một mảy may nào ngoài nó và không phải nó. Giả sử có người hỏi có cách nào chỉ thẳng cho thấy ngay lập tức tánh này được không? Lục Tổ hỏi Huệ Minh: “Ngay khi chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác chính hồi đó cái gì là bổn tánh của thượng tọa?” Đấy chỉ thẳng là thế! Nếu không tiếp nhận ngay thì hãy đợi đến bao giờ quét sạch đám thảo khấusự nghiệp bất chánh dài dòng thêm là ta đã quy y theo bọn tri giải của triết học ngoại quan rồi đó!
 
Vì nó vốn đã không bớt không thêm, không dơ không sạch, không sanh không diệt, không phải có, không phải không, muôn thuở vốn thường hằng. Tất cả vạn vật đều có thể hư hoại, nó vẫn y nguyên. Như thế đâu cần chúng ta mó tay vào xoay xở sửa đổi nó chứ! Thế thì, nếu ta lỡ dại dột, dốt nát mó tay vào, không những không tốt đẹp gì hơn mà là gây nên phản ứng tạo thành sứt mẻ. Cho nên thiền sư Đạm Hư trong bài thơ chứng đạo có câu:

 “Thiên nhiên đại nghiệp tối kỵ trang hoàng,
 Hữu ý cầu toàn phản trí tổn thương”.

Như thế đủ biết tánh này hoàn toàn không chấp nhận điều kiện sửa đổi, mà chỉ cần tự chứng tự biết.
 
Có người hỏi: “Như thế bổn tánh đã là của chung của vạn loại của bao la của pháp giới, nhưng sao lại là tự tánh?”
 
Trong vạn vật, khoáng và thực thuộc loại vô tình, nhìn không thấy nó cục cựa. Còn hữu tình thì sanh ra không một lượt, chết đi cũng không một lượt, trình độ cũng không như nhau, duyên cấu tạo ra chính nó cũng khác nhau nốt. Vì thế nên bổn tánh tuy là của chung của vạn loại, kho tàng này không thiếu một mảy may gì, và chúng sanh nào cũng đều có khả năng tự động để thọ dụng bổn tánh này.

Nhưng chỉ vì duyên cấu tạo không như nhau, trình độ không như nhau, nên sự thọ dụng cũng theo đó mà khác. Nên tuy chung mà riêng, tuy riêng mà chung vậy! Nhìn qua bản đồ hệ thống mạng mạch của mỗi chúng sinh cũng như mỗi con người, ta thấy phần thân không phải là chánh phạm, phần tánh vốn vô can, phần tâm mới là thủ phạm. Đành rằng thân với tâm cũng là tánh, nhưng khi tâm mê đắm chấp tướng “thân” nên đuổi theo đà hướng ngoại, dong duỗi theo vật chất sáu trần, làm cho tuy vốn từ tánh nhưng đã biến dạng biến chất trở thành vật chất chướng ngại cho cuộc sống yên vui.

Nếu có phương pháp kỹ thuật nào xoay chiều cho tâm này trở về với bổn tánh theo chiều hướng nội, thì chúng nó đều trở lại chánh thường và thành yên vui giải thoát, chớ không có nghĩa thủ tiêu cho mất tích chúng sinh, mà tạo một ông Phật nào khác! Tuy vậy, khi tâm mê hướng ngoại không những làm cho guồng máy tâm thức mâu thuẫn lộn mèo, mà còn tạo thêm liên lụy đến xác thân, đến xã hội nữa là khác. Cho nên tất cả những bệnh tật nội thương nặng nề nguy hiểm, nan y bất trị, đều mắc liền từ tâm thức rối rắm lộn mèo mà ra cả. Kinh dịch có nói:

 “Cơ mầu dấy động, họa phúc liền sanh”.
 
Nội kinh nói: “Điềm đạm rỗng rang bịnh nào phát khởi”.
 
Người xưa nói: “Càng thông minh càng u tối, càng tính toán càng hụt hao” là một bản án kê khai tội trạng cho sự nghiệp trí thức vọng tâm hướng ngoại của chúng sanh, và để đánh giá cho tác dụng vô niệm vô ngã vậy!”.

 
Nhắm vào mục đích thiết thực dễ hiểu, ta có thể dùng ngôn ngữ tạm chia mạng mạch của mỗi con người ra làm ba phần. Nếu theo thứ tự từ dễ đến khó thấy mà nói thì THÂN rồi TÂM và TÁNH.
 
Vì sao mà nói là tạm chia? Vì trông qua hình như ba, nhưng nhìn kỹ kỳ thực không phải ba, cũng không phải một. Vì không thân và tâm thì không lấy đâu để biết tánh, không tánh không lấy đâu có thân và tâm. Vì Tánh là thể, Thân là tướng, còn Tâm là phần biểu hiện diệu dụng linh tri của tánh mà thôi. Giờ đây ta hãy xét qua đại khái từng phần để biết rõ chỗ nào là căn cội bịnh tâm của chúng sinh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14435)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14156)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15322)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13888)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13939)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37355)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14644)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14317)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12660)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14846)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13800)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42643)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13846)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12696)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11777)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22553)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12516)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12576)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13070)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13119)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17280)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33272)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14844)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11049)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12465)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11967)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11939)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13148)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12392)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6620)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30436)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13131)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13337)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30705)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19385)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12487)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11860)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14771)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13208)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13204)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30708)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12046)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11842)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12732)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29427)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11792)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11755)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10438)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9648)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9671)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10007)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35426)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10167)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10105)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10061)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9671)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27822)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15510)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9867)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13689)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9853)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9705)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18345)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12048)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9579)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9700)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8926)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8425)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11485)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31760)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12340)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13334)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8836)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9453)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11952)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9238)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9082)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9676)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29378)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9088)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9115)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33278)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8438)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30638)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31252)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37147)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32290)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9939)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27118)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8456)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19249)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13019)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant