Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Chi Tiết Dị, Đồng Về Đức Phật Lịch Sử

16 Tháng Bảy 201409:52(Xem: 12269)
Những Chi Tiết Dị, Đồng Về Đức Phật Lịch Sử

Những Chi Tiết Dị, Đồng

Về Đức Phật Lịch Sử

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

blankSau khi bộ đại sử đức Phật Sakyā Gotama “Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt” 6 quyển, 3000 trang được in ấn và phổ biến trên các trang mạng Phật học, được đọc lại trên các trang Pháp Âm, và được độc giả đọc nhiều nhất là “thuvienhoasen.org” ở Mỹ và “quangduc.com” tức là Tu viện Quảng Đức ở Úc – tôi, tác giả, nhận được khá nhiều câu hỏi về những chi tiết lịch sử, có những dị biệt, mâu thuẫn nơi này và nơi khác. Điều ấy cũng đúng thôi, vì đã trải qua trên 2600 năm, mà trong đó là khẩu truyền suốt 4 lần kết tập, và lần thứ năm, tại Tích Lan, khoảng năm 450-502 trước Tây lịch mới được khắc chép lên là Bối, thì thử hỏi, ai dám chắc tư liệu của mình là chính xác, là duy nhất đúng về đức Phật lịch sử?

Do vậy, trước những thắc mắc của chư độc giả, tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông; và do vậy, chắc sẽ có những điểm dị biệt nào đó. Tôi không dám chắc những chi tiết lịch sử ấy nó đúng hơn các nguồn khác, nhưng mà nó hợp lý, nhất quán và không mâu thuẫn nhau. Trong tinh thần ấy, tôi xin được trả lời một số câu hỏi được xem là phổ biến nhất:

A- Đây là nguyên văn lá thư của quý sư cô:

“Chúng con vẫn biết, có rất nhiều những nguồn sử liệu về Đức Phật lịch sử. Bắt đầu chỉ là sự khẩu truyền, trải qua thời gian quá dài, lại thêm là sự lưu truyền trải rộng theo nhiều hướng khác nhau, tất nhiên không tránh khỏi có sự “chệch choạc” khi đem so sánh đối chiếu.

Cho đến nay, sử liệu Phật giáo xem như có hai nguồn rất phân biệt: Nam truyền và Bắc truyền. Quan điểm về Đức Phật cũng có hai hướng khác nhau: Đức Phật lịch sửĐức Phật huyền thoại. Tùy vào lòng tin của từng người, chúng ta có quyền tin và chấp nhận theo nguồn sử liệu nào: Nam truyền hay Bắc truyền; hoặc chấp nhận quan điểm lịch sử hay Đức Phật huyền thoại. Nếu chúng ta đã tin và chấp nhận: “Đức Phật là nhân vật có thực …”, (có ghi chép thành lịch sử với những niên đại cụ thể…) thì những niên đại lịch sử này khi xâu chuỗi lại thiết yếu phải có sự “logic” hợp lý của nó. Vậy mà … rất nhiều chi tiết trong sử sách lại cứ như “chồng chéo” với nhau.

Thí dụ:

- Theo Nam truyền thì Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia năm 29 tuổi, 6 năm tu khổ hạnh, thành đạo năm 35 tuổi;à Khi trở về thăm hoàng tộc, con trai là La Hầu La 7 tuổi = chi tiết hợp lý.

- Theo Bắc truyền thì Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia năm 19 tuổi, 5 năm đi tìm đạo, 6 năm tu khổ hạnh, thành đạo năm 30 tuổi…. à Khi trở về, La Hầu La 7 tuổi = Chi tiết không hợp lý.

Kính bạch Hòa Thượng!

Khởi nguyên của “Khối nghi” của chúng con là khi chúng con tìm hiểu về Sự ra đời của Bát Kỉnh pháp, dò tìm nhiều nguồn sử liệu, chúng con bất ngờ khám phá ra những chi tiết “không nhất quán” về tuổi tác của Ngài A Nan. Cũng cùng trong một quyển “Phật pháp bách vấn”, Tổ Tư vấn Báo Giác ngộ trả lời bạn đọc về tiểu sử của Bà Gotami và tiểu sử của Ngài A Nan … đem đối chiếu với nhau thì lộ ra chi tiết: Bát kỉnh pháp ra đời, Ni giới được thành lập 5 năm sau ngày Phật thành đạo, là nhờ Ngài A Nan cầu xin giúp đỡ, mà lúc đó thì Ngài mới 5 tuổi và 25 tuổi mới làm thị giả cho Phật!!

Kính bạch Hòa Thượng!

Chúng con thật sự không có khả năng nghiên cứu những bản kinh nguyên bản, chúng con chỉ tìm học trên những tài liệu – là công trình nghiên cứu của các học giả, của các Bậc tôn túc….

* Quyển “Sự tích Đức Phật Thích Ca” của Trần Hữu Danh (NXB Văn Học 2009):

- A Nan là em chú bác với Phật, nhỏ hơn Phật 19 tuổi (Trang 480)

* Quyển “Suối nguồn diệu giác” của HT Thích Thanh Quang (NXB Tổng hợp Tp HCM 2009):

- A Nan sinh vào đêm Đức Phật thành đạo. …chư thiên reo mừng, trời đất chuyển rung, khắp nơi hoan lạc cho nên vua Thiện Giác mới đặt tên cho hoàng tử mới chào đời là Ananda – Khánh Hỷ (Trang 271).

* Quyển “Sử 33 vị Tổ Ấn Hoa giảng giải” của Hòa Thượng Thích Nhật Quang (NXB Tổng hợp Tp HCM 2013):

- Tổ A Nan: Ngài là con vua Hộc Phạn, dòng Sát đế lợi… , em con nhà chú của Phật Thích Ca (sanh sau Phật 30 năm) …. Đến năm 25 tuổi xin theo Phật xuất gia. (trang 33).

* Quyển “Con người giác ngộ” của Hòa Thượng Thích Phước Tú (NXB Tôn giáo 2009):

- Ngài xuất gia tìm đạo năm 19 tuổi ( mùng 8 tháng 2 âl)….Ngài thành đạo năm 30 tuổi ….(trang 8).

* Trên Thư viện hoa sen con tra tìm được: Mười Vị Đệ Tử Lớn của Phật - Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư; Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ và biên soạn phần Phụ Lục. Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên.

....Từ đó tôn giả làm thị giả thường xuyên cho Phật. Lúc đó tôn giả khoảng trên 20 tuổi. (Theo các niên đại đã được chính thức công nhận về tiểu sử đức Phật, tính ra, tôn giả A Nan được chọn làm thị giả thường xuyên cho Phật lúc 35 tuổi, và đã hầu hạ Phật cả thảy 25 năm. - Chú thích của người dịch).

Ngoài ra, còn nhiều quyển sách khác chúng con đã đọc, thí dụ: Đường xưa mây trắng và Trái tim của Bụt của TS Thích Nhất Hạnh, Đức PhậtPhật pháp, Phật và Thánh Chúng…. Khi ấy chúng con không lưu tâm đến những chi tiết này, mà hiện tại thì những quyển sách ấy chúng con không có trong tay nên không thể xem lại.

Kính bạch Hòa Thượng!

Chi tiếtHòa Thượng cho biết: “Ngài A Nan đồng tuổi Phật” quả thực là điều vô cùng mới mẻ mà chúng con mới được biết đến. … Nhưng, từ đó suy ra:

- Nếu Ngài A Nan đồng tuổi với Phật thì khi Phật 55 tuổi già yếu, cần chọn thị giả tuổi còn trẻ để hầu cận, giúp việc, chăm sóc Phật,… A Nan cũng 55 tuổi, đâu còn ở tuổi trẻ trung để đảm trách công việc của thị giả như tiêu chuẩn các Đại đệ tử đề ra?

- Bà Kiều Đàm Di đi xuất gia 5 năm sau ngày Phật thành đạo, lúc đó A Nan 40 tuổi, nhưng khi đó A Nan vẫn chưa làm thị giả cho Phật, (Mãi đến 55 tuổi A Nan mới làm thị giả).

Kính bạch Hòa Thượng!

Trên đây chỉ là những suy nghĩ tìm hiểu nhằm làm sáng tỏ điều chúng con còn thắc mắc. Hòa Thượng đã từ bi chỉ dạy thì kính mong Hòa Thượng chỉ dạy cho trót. Hòa Thượng có thể dạy cho chúng con biết một số sách cần tìm đọc thêm, chúng con vô cùng cảm tạ”.

Tóm tắt lá thư trên, có bốn câu hỏi:

1- Thái tử Siddhattha xuất gia năm 29 tuổi, 6 năm tu khổ hạnh, thành đạo năm 35 tuổi;à Khi trở về thăm hoàng tộc, con trai là La Hầu La 7 tuổi = chi tiết hợp lý.

2- Tôn giả Ānanda, bao nhiêu tuổi ngài xuất gia, lúc nào?

3- Bà Gotamī xuất gia và sự ra đời của Bát Kỉnh Pháp.

4- Ngài Ānanda làm thị giả lúc đã 55 tuổi có hợp lý không?

Khi tôi viết MCĐMVNN theo dạng tiểu thuyết lịch sử thì tư liệu rất nhiều, rất nhiều... để tiện việc so sánh, đối chiếu, lựa chọn. Nhưng cuối cùng, khi muốn lấy địa danh, tên, tiểu sử của chư vị Thánh Tăng, Thánh Ni, tôi dừng lại nơi quyển “Dictionary of Pāi proper names “ vì người ta nghiên cứu rất khoa học, có truy nguồn chư kinh điển, chú giải khá tin cậy.

Bây giờ, tôi xin trả lời có vẻ khái quát một chút vì câu này nó dính vào câu khác:

I- Thái tử Siddhattha ra đời cùng tuổi với ngài Ānanda, Yasodharā... là dựa theo tư liệu:

- Ānanda: Ngài đến cõi đời từ cung trời Đẩu Suất, cùng một ngày sinh với Bồ Tát (chỉ thái tử Siddhattha), cha là đức thân vương Amitodana (em vua Suddhodana –Tịnh Phạn vương), dòng Sākya - dịch thoát từ đoạn: “ He cames to earth from Tusita and was born on the same day as the Bodhisatta, his father being Amitodana the Sākyan, brother of Suddhodana – xem “Dictionary of Pāi proper names “ Q.1, trang 249.

Thật ra, không chỉ có Ānanda đồng sinh với thái tử, mà còn 6 nhân, vật khác nữa, đó là Yasodharā, Kāludāyi, ngựa Kiền Trắc, Sa-Nặc, Cây Bồ Đề và Bốn hầm châu ngọc. Ví dụ, muốn xem Ya-du-đà-la: Bà còn có nhiều tên khác như Rāhulamātā, Bhaddakacca, Bimbādevi... ; sinh cùng ngày với Bồ Tát và về làm vợ ngài lúc nàng 16 tuổi (She was born on the sames day as the Bodhisatta... married him (Gotama) at the age of sixteen) - Xem Sđd, Q2. trang 742. Muốn xem thêm để biết: Khi thái tử sanh, có 7 nhân và vật đồng sanh: Đó là Cây Bồ-đề, Mẹ của Rāhula, Bốn hầm châu ngọc, voi, ngựa Kiền Trắc (Kanthaka), Sa-nặc (Channa) và Kāludāyī (On the sames day seven other being were born: The Bodhi-tree, Rāhula’s mother, the four Treasure-Troves, his elephant, his horse Kanthaka, his charioteer Channa and Kāludāyī – xem Sđd. Q1. trang 789)Lưu ý, trong đoạn vừa rồi có điểm sai, phải thay “elephant” bằng Ānanda như những nơi khác.

- Thái tử xuất gia năm 29 tuổi: Xem đoạn văn sau đây để biết thái tử đã sống 29 năm trong 3 tòa cung điện Ramma, Suramma, Subha trong 3 mùa như thế nào: “ The Bodhisatta is reported to have lived in the household for twenty-nine years a life of great luxury and excessive ease, surrounded by all imaginable comforts. He owns three palaces – Rama, Suramma and Subha – for the three seasons (Xem Sđd. Q1. trang 789).

- Siddhattha tìm đạo gặp hai vị thầy rồi khổ hạnh 6 năm: Đó là đạo sĩ Āḷāra-Kālāma và Uddaka-Rāmaputta. Vì không tìm thấy sự giác ngộ, giải thoát rốt ráo nên ngài mới đi đến ngôi làng Senānī tại Uruvelā, và tại đây, trong 6 năm, ngài đã thực hành khổ hạnh... (Xem một đoạn văn khá dài... He then goes to Senānīgāma in Uruvelā and there, during six year, practises all manner of severe austerities, such as no man had previously undertaken – Sđd, Q1, trang 792).

II- Vậy là đúng năm 35 tuổi: Đức Phật sau khi thành Đạo, ngài xuống Vườn Nai (Lộc Giả), độ năm anh em đạo sĩ Koṇḍaññā, độ công tử Yasa cùng 55 bạn hữu – như vậy là có 60 vị thánh tăng A-la-hán đầu tiên, thành lập giáo hội đầu tiên, ngài khuyên, mỗi người hãy đi hoằng hóa mỗi phương, đừng đi chung nhau, vì lợi ích cho chư thiênnhân loại. Đức Phật cũng đi, ngài trở lại Uruvelā độ 3 anh em đạo sĩ Kassapa thờ thần lửa cùng 1000 đồ chúng của họ. Đức vua Bimbisāra dâng cúng Trúc Lâm tịnh xá (Rājagaha), và đức Phật nhập hạ đầu tiên ở đây, có thêm hai vị đại đệ tử Sāriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallāna Mục-kiền-liên) năm ngài 36 tuổi. Đên năm an cư thứ hai, ngài mới trở về thăm quê hương có viên đại thần Kāludāyī (bạn, đồng sanh thuở trước) thỉnh mời. Thế là lúc này, Rāhula đúng 7 tuổi. Ở tại quê nhà 2 tháng, đức Phật 3 lần độ vua cha đắc quả từ Tu-đà-hoàn, sang Tư-đà-hàm lên đến A-na-hàm và bà Gotamī đắc quả Tu-đà-hoàn. Cũng lần này, đức Phật cho Rāhula xuất gia Sa-di và tôn giả Sāriputta làm thầy tế độ. Đức Phật cũng bảo hoàng tử Nanda xuất gia luôn trong dịp lễ cưới của ông.

Trở lại Vương Xá, lúc đức Phật dừng chân tại khu rừng Anupiya thì 6 ông hoàng dòng Sākya cùng người thợ cạo Upāli tìm đến xin xuất gia (With these he returns Rājagaha, stopping on the way at Anupiya, where Anuruddha, Bhaddiya, Ānanda, Bhagu, Kimbila and Devadatta, together with their barber, Upāli, visit him and seek ordination – xem Sđd, Q1, trang 796... còn nhiều chi tiết hơn thế nữa).

Vậy tôn giả Ānanda xuất gia trong mùa an cư thứ hai của đức Phật (Ānanda entered the Order in the second year of the Buddha’s ministry, to gether Sākyan princes, such as Bhaddiya, Anuruddha...)

Đến mùa an cư thứ tư, đức Phật về thăm vua cha lần thứ hai khi ông đang bị bệnh. Đức Phật đã độ vua cha đắc quả A-la-hán và sau đó là ông qua đời. Sau lễ hỏa táng, cả ba lần bà Gotamī xin xuất gia nhưng đức Phật từ chối. Tuy nhiên, khi đức Phật trở lại Trúc Lâm, Vương Xá cho kịp an cư mùa mưa lần thứ năm, lúc đang dừng chân tại Vesāli tại Sảnh Đường Nóc Nhọn (Kūṭāgārasālā), thì bà Mahāpajāpati Gotamī cùng các công nương dòng Sakyā đã tự động cạo đầu, mang y và bát bộ hành từ Kapilavatthu, trải qua 45 do-tuần (mỗi do-tuần 16 cây số) tìm đến Vesāli xin xuất gia (The women cut off their hair, don yellow robes and follow him thither). Đức Phật vẫn không thay đổi ý định (The Buddha would not change his mind).

Nhìn thấy chư mệnh phụ với vẻ mặt chán nản, thất vọng, ứa lệ, chân cẳng sưng phồng đang đứng ngoài Sảnh Đường Nóc Nhọn (Kūṭāgārasālā), tôn giả Ānanda xúc động vào bạch Phật xin cho họ xuất gia – nhưng cả ba lần, đức Phật đều từ chối. Sau đó, tôn giả Ānanda “thay đổi chiến thuật”, hỏi đức Phậtnữ giới có khả năng thành đạt đạo quả hay không? Khi đức Phật đáp là có thì tôn giả sử dụng biện tài xin cho họ xuất gia. Cuối cùng đức Phật chấp thuận...(Đấy là phỏng dịch từ đoạn: Ānanda found the women dejected and weeping, with swollen feet, standing outside the Kūṭāgārasālā; having what had happened, he asked the Buddha to grant their request. Three times he asked and three times the Buddha refused. Then he changed his tactics. He in quired of the Buddha if women were at all capable of attaining the Fruits of the Path. The answer was in the affirmative, and Ānanda pushed home the advantage thus gained. In the end the Buddha allowed women to enter the Order subject to certain conditions. They expressed their great gratitude to Ānanda). Sau đó, đức Phật có trình bày lý do, nói rõ cho tôn giả Ānanda biết rằng, đáng ra là giáo pháp sẽ được tồn tại một ngàn năm, nhưng nếu có nữ giới xuất gia thì thời gian tồn tại của giáo pháp chỉ còn năm trăm năm! (The Sāsana would have lasted a thousand years, but now it would last only five hundred) – Theo chú giải thì một ngàn năm là tồn tại “chánh pháp”, còn sau đó là “tượng pháp” ; còn nếu tính cả thời “mạt pháp”, thì thay vì mười ngàn năm thì nay chỉ còn năm ngàn năm!

III- Về Bát Kỉnh Pháp: Đức Phật bảo rằng, nếu người nữ chấp thuận thọ trì 8 điều kiện (eight condition) thì giáo hội sẽ mở cửa cho họ. Đấy là vào hạ thứ năm của đức Phật, vào giáo hội tỳ-khưu-ni được thành lập, tại Vesāli.

8 điều kiện, Bát Kỉnh Pháp thì Nam Bắc Tông đều tương tự nhau:

1- Tỳ-khưu-ni dầu một trăm tuổi hạ cũng phải chào hỏi, đứng dậy, đảnh lễ thầy tỳ-khưu tăng – dù vị này mới xuất gia trong ngày hôm ấy.

2- Tỳ-khưu-ni mỗi năm phải tìm về an cư ở gần một trung tâm có tỳ-khưu tăng để được bảo vệ và nương tựa.

3- Cứ mỗi tháng hai kỳ, sau khi làm lễ bố-tát (Uposatha), tỳ-khưu-ni phải tìm đến tỳ-khưu tăng để học hỏi, nghe lời giáo giới.

4- Sau khi hành lễ Tự Tứ (Pavārana) tại trú xứ của mình, tỳ-khưu-ni phải đến chỗ tỳ-khưu tăng để làm lễ ra hạ một lượt nữa - để kiểm thảo xem trong ba điều thấy, nghe và nghi mình có lầm lỗi điểm nào chăng.

5- Tỳ-khưu-ni phạm “tăng tàn” , đã xưng tội, đã chịu phạt cấm phòng tại trú xứ của mình – còn phải xưng tội trước tỳ-khưu tăng nữa.

6- Nữ giới tử trong thời gian tập sự, thọ trì sáu giới (Sikkhamānā) trong thời hạn hai năm - phải cầu xuất gia thọ đại giới trước cả hai chúng tăng ni.

7- Bất luận trong trường hợp nào, tỳ-khưu-ni cũng không có quyền nặng lời chê bai, thóa mạ hay chỉ trích tỳ-khưu tăng.

8- Tỳ-khưu-ni không được quyền giáo giới, giảng dạy tỳ-khưu tăng, nhưng sám hối với tỳ-khưu tăng thì được!

8 điều này, tôi cũng có những điểm tồn nghi. Đây là mới hạ thứ năm, chưa có điều 3,4 chưa đầy đủ; và điều 5 cũng chưa có – vì đến hạ thứ 12, khi tôn giả Xá-lợi-phất xin đức Phật ban bố giới căn bản thanh tịnh (Pāṭimokkha) nhưng đức Phật chưa chuẩn thuận; và bộ luật này chỉ hoàn thành từng bước một trong suốt 45 năm hoằng hóa. Vậy thì nếu có hình thức lễ bố-tát chắc cũng đơn sơ, lễ tự tứ cũng vậy, riêng tội “tăng tàn” thì chắc chắn chưa có, vì chỉ hình thành khi bộ luật căn bản Pāṭimokkha hoàn chỉnh. Lại nữa, Bát Kỉnh Pháp chế định để đối trị hoàn cảnh nữ giới thời bấy giờ thì hoàn toàn lợi íchhoàn toàn thích hợp; nhưng thời đại ngày nay thì cũng nên thay đổi một số ít nội dung cho “phải lẽ” một tí. Đây là ý kiến riêng tôi, không đại diện cho ai cả!

IV- Tôn giả Ānanda làm thị giả vào mùa an cư thứ 20 của đức Phật tại Kỳ Viên tịnh xá: Trong suốt 20 mùa an cư, đức Phật chưa có thị giả chính thức, khi là vị này, lúc là vị khác, ví dụ các vị: Nāgasamāla, Nāgita, Upavāna, Sunakkhatta, Cunda, Sāgata, Rādha, Meghiya... mà chưa có vị nào làm cho đức Phật vừa ý. Đi vào chi tiết thì dài dòng, - là sau đức Ānanda được chư tôn trưởng lão đề cử thì đức Phật hài lòng! Vậy là suốt 25 năm còn lại của đức Phật, cũng là 25 mùa an cư, tôn giả Ānanda làm một vị thị giả rất mực trung thành, nghiêm túc, tinh cần trong bổn phận của mình. Đấy là chưa kể ngài còn là bậc học rộng, nghe nhiều...

Chỗ này tồn nghi: Đức Phật lúc ấy sức khỏe đã yếu, 55 tuổi, cần người phụ tá trẻ trung nhưng sao lại chọn ngài Ānanda cũng 55 tuổi? Đúng vậy, nhưng ta nên biết rằng, tôn giả Ānanda suốt đời không ốm bệnh, ngài thọ 120 tuổi, đồng với tuổi của Vị Tăng Hữu Bakkula (Ānanda lived to be very old: One hundred and twenty year; he is bracketed with Bakkula, as having lived to a great age – xem Sđd, Q1. trang 263).

Trước đây tôi cũng thắc mắc điều này, nhưng khi tra lục nơi này nơi kia, thấy tôn giả Ānanda sức khỏe tốt cho đến 120 tuổi thọ, tôi không còn nghi ngở nữa.

Thưa quý sư cô,

Kiến thức tôi có hạn, vả lại tôi chỉ là người học Phật, tu Phật không phải là nhà nghiên cứu nên không tránh khỏi những sơ suất ở đâu đó. Quý sư cô chỉ nên xem đây chỉ là tư liệu như bao nguồn tư liệu khác để tham cứu, so sánh, đối chiếu mà thôi. Nhưng chắc chắc là nguồn sử liệu này đáng tin vậy vì nó không mâu thuẫn, “chệch choạc” nhau! Quý sư cô có thể tự mình biết đâu đúng, đâu sai; ví như tự điển Phật học của Đoàn Trung Còn nói là 14 năm sau đức Phật giác ngộ, bà di mẫu của ngài mới xin Phật xuất gia!

B- Đây là nguyên văn lá thư thứ hai của quý thầy:

“Bạch Hòa Thượng! Con đọc trong chương Rừng Khổ Hạnh này, phát hiện có 1 chi tiết lịch sử mà HT viết khác so với các tài liệu khác mà HT không dẫn nguồn gốc sự khác biệt này. Đó là người dâng bát sữa cho Bồ Tát Sĩ Đạt Ta bên dòng sông Ni Liên Thiền, xưa nay ai cũng được dạy người dâng sữa là cô bé Sujata, con gái của 1 vị trưởng làng Senani trong làng Uu Lâu Tầng Loa, nếu không nói ngoa, nếu không có cô bé Sujata, chưa chắc gì chúng taĐạo Phật ngày nay, do dó công ơn của người dâng bát sữa năm xưa để cứu mạng Siddhatta quá lớn lao đối với chúng đệ tử Phật. Con đã đến thăm địa điểm lịch sử này 3 lần vào năm 2006, 2009 và 2011, mỗi lần đến con đều hướng dẫn phái đoàn đi kinh hành niệm Phật để cảm ơn ân nhân Sujata và giải thích rõ về câu chuyện cảm động xảy ra cách đây đúng 2602 năm, tính từ 2013 đến năm Phật thành đạo (589 trước TL) xin HT xem hình phái đoàn con viếng thăm phế tích Sujata đính kèm) nhưng theo HT thì người dâng sữa là cô bé Punna, người hầu của của Bà Sujata, xin HT hoan hỷ giúp con dẫn nguồn tư liệu về việc này, để độc giả không phải thắc mắc về chi tiết này.

Vấn đề thứ 2 là mối quan hệ giữa nàng Kỹ Nữ Ampapali & Thần Y Jivaka Komarabhacca

http://quangduc.com/p156a51315/33-than-y-jivaka-komarabhacca

http://quangduc.com/p157a51352/42-hoa-do-ky-nu-ambapali

Theo Sư Ông Nhất Hạnh (chương 33, quyển 2 Đường Xưa Mây Trắng, dựa vào Kinh Nikaya,Majjhima-nikaya 55: Jivaka-sutta; Tạp A-Hàm 622.),http://tuvienquangduc.com.au/TruyenNgan/197duongxuamaytrang.html, rằng Thần Y Jivaka (Kỳ Bà) là con trai của Kỹ Nữ Ambapali (người thành Tỳ Xá Li), đặc biệt, thần y Jivaka lại là con rơi của Vua Bimbisara, là anh hoặc em trai cùng cha khác mẹ của Thái Tử Ajatasattu ( A Xà Thế). Đây là chi tiết mới nhất về thâm cung bí sử của Vua Tần Bà Sa La.

Trong 2 chương trên của HT, con không thấy HT đề cập gì đến sự liên hệ huyết thống của 2 nhân vật lịch sử này.

Kính mong HT cho biết thêm chi tiết lịch sử mà HT Nhất Hạnh vừa công bố”.

Kính quý thầy,

Cảm ơn quý thầy đã lưu tâm về một số chi tiết lịch sử trong tác phẩm MCĐMVNN, cụ thể là chuyện nàng Sujātā dâng sữa cho bồ-tát, và chuyện liên hệ giữa kỹ nữ Ambapālī, đức vua Bimbisāra và thần y Jīvaka. Điều thầy thắc mắc cũng có rất nhiều người hỏi mà tôi chưa có dịp trả lời.

1- Chuyện thứ nhất:

Từ trước đến nay, bất cứ tư liệu nào cũng nói là nàng Sujātā (mà tàu âm là Tu-xà-đề) dâng sữa cho bồ-tát trong Rừng Khổ Hạnh. Điều ấy là đúng. Tác ý cúng dường là của nàng Sujātā, nhưng người trực tiếp mang sữa lại chính là cô ở gái, cô bé Puṇṇā đúng như tôi đã viết trong Rừng Khổ Hạnh mà thầy có nhắc đến. Chi tiết này tôi rút ở một tư liệu khá tin cậy.

Nếu trong thư viện của thầy có quyển Dictionary of Pāḷi Proper Names, quyển 2, trang 1186, nơi tên Sujātā, có nói đến chi tiết ấy. Nếu thầy không có sẵn, tôi sẽ chép ra đây một đoạn.

Sujātā: Daughter of Senānī, a landowner of the village of Senāni near Uruvelā. She made a promise to the god of the banyan-tree near by that she would offer a meal of milk-rice to the god if she gave birth to a son. Her wish was fulfilled, the son was born, and she sent maid, Puṇṇā, to prepare the place for the offering.

This was on the very day of the Buddha’s Enlightenment, anh Puṇṇā, finding Gotama sitting under the banyan, thought that she was the tree-god present in person to receive the offering. She brought golden bowl and offered it to him...

Tuy còn nhiều đoạn khác nữa, nhưng như vậy cũng đã đủ làm tư liệu để tôi viết rồi. Còn có một số nguồn khác nữa, ít phổ biến, còn cho biết rằng, con trai của nàng Sujātā, tên là Yasa (không phải là công tử Yasa ở Vườn Nai đâu) sau này xuất gia, đắc quả A-la-hán; nàng Sujātā và vợ của Yasa sau này đắc quả Nhập Lưu.

2- Chuyện thứ hai:

Trung bộ kinh, kinh thứ 55 Jīvaka-Komārabhacca sutta, thầy mở mà xem, không có nhắc bất kỳ chi tiết nào, bảo rằng Jīvaka là con rơi của đức vua Bimbisāra với nàng Ambapālī cả. Tư liệu của tôi dùng thì có nói đến con rơi của hai vị ấy, nhưng lại là cậu con trai Vimala Koṇṇdañña, sau này xuất gia, có mặt trong Trưởng lão Tăng kệ.

Còn có một số chi tiết khác nữa.

Đức vua Bimbisāra có hoàng hậu là Kosaladevī, con gái của Mahākosala, em gái của vua Pāsenadi (Ba-tư-nặc), sau sinh thái tử Ajātasattu (A-xà-thế). Bà thứ hai, hoàng phi Khemā, sau xuất gia tỳ-kheo-ni, đắc A-la-hán quả, được tôn xưng là đệ nhất trí tuệ trong ni chúng. Bà thứ ba là Sīlava, thứ tư là Jayasena.

Bà thứ năm ít ai để ý, là kỹ nữ có tên là Padumavatī, ở tại Ujjenī, có một con trai với vua là Abhaya (Abhayarājakumāra). Có lẽ con sinh không chính thức nên bảy tuổi, bà mới gởi con đến cho đức vua Bimbisāra. Ông hoàng Abhaya này mới chính là cha nuôi của thần y Jīvaka (Abhaya was Jīvaka’s natural father). Còn Jīvaka (Jīvaka-Komārabhacca) và cô gái giang hồ Sirimā (trong truyện Con gái đức Phật), là anh chị em, đều là con của bà kỹ nữ Sālavatī tại Rājagaha (Sālavatī: A courtezan of Rājagaha, she was the mother of Jīvaka-Komārabhacca and of his sister Sirimā).

Có lẽ từng ấy cũng đáp ứng được những thắc mắc của quý thầy rồi.

C- Đây là câu hỏi khác: Theo truyền thống Bắc tạng và rải rác đó đây, trên các tạp chí Phật giáo, trên các trang mạng đều nói là đức Phật thiền định 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề mới đắc quả Chánh Đẳng Giác – còn trong tác phẩm MCĐMVNN thì hòa thượng nói là “49 ngày sau khi thành Đạo” rồi diễn tiến từng 7 ngày một, đức Phật làm gì, làm gì, ở đâu khá rõ ràng và rất hợp lý.Tuy nhiên, hòa thượng không ghi rõ nguồn nên chúng con không biết truy cứu, so sánh được.

Đầu tiên, tôi xin thưa rõ, là 49 ngày thiền định thì không thể giác ngộ, giải thoát được; vì định, dù là định sâu cách mấy thì nó cũng chỉ lắng yên tham sân, phiền não như đá đá dằn cỏ thôi. Lại nữa, nếu mà định sâu thì cả 6 căn đều bít hết, chỉ còn trạng thái nhất tâm và xả - trả về dòng chảy Bhavaṅga như một giấc ngủ ngon không mộng mị. Tuy nhiên, hai tầng thiền cao nhất là “vô sở hữu xứ thiền”“phi tưởng phi phi tưởng thiền”, Bồ Tát của chúng ta cũng từ bỏ vì nó không đưa đến tận diệt tham sân, phiền não. Nói như vậy để biêt rằng, thiền định không thể có tuệ được; phải từ thiền định, trở lại cận hành định, có tầm có tứ, nghĩa là có tư duyquan sát mới quán ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên để thấy rõ thực tánh vô thường, vô ngã của tâm và pháp được.

Điều thứ hai, tôi cũng xin thưa rõ, theo Tam tạng Pāḷi văn, chuyện 49 ngày sau khi thành Đạo đã trở thành chi tiết lịch sử đúng đắn, đương nhiên, không cần phải “tồn nghi” trong tất cả kinh điển của các nước Phật giáo Nam tông. Vì vậy mà tôi không ghi rõ nguồn. Nhưng muốn tìm nguồn thì trong Tam tạng Pāḷi đều đồng nhất; và nếu khôngthì giờ, quý vị có thể tìm trong hai tư liệu sau đây, đều bằng tiếng Anh:

- “Dictionary of Pāḷi Proper names” – Q1. trang 794 - ở đây chỉ ghi tóm tắt 4 tuần sau khi Phật thành Đạo.

- Cứ gõ Google: “Seven week after Enlightenment” thì có cả hàng chục trang Web. nói về 7 tuần ấy rất rõ ràng.

Cảm ơn tất cả chư vị.

Kính chúc vô lượng an lành.

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31679)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10536)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11235)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12764)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10815)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16673)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10825)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22976)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12031)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11502)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10694)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12343)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11202)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10030)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11927)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12379)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9821)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11280)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13849)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12640)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9707)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10469)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10573)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10337)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9911)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11062)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12023)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10149)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10791)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9544)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9504)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14530)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12564)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9091)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10565)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9339)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8813)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10525)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9200)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9700)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19147)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8991)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14765)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10102)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8956)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8746)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9374)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14605)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9045)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9051)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10539)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9999)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24291)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10180)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11033)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9006)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9477)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8009)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9277)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15351)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10344)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9592)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17453)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12173)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19249)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7983)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14814)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10638)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9539)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18689)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12370)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11895)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10762)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13350)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10005)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9397)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15908)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant