Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tri ÂnBáo Ân

31 Tháng Bảy 201406:59(Xem: 14908)
Tri Ân và Báo Ân

Tri ÂnBáo Ân

Nắng Hạ nhạt dần, bầu trời trong xanh giờ đây đã nổi lên những cụm mây trắng lãng đãng theo gió heo may. Lá blankvàng rơi rơi như đang thổn thức tìm về nguồn cội. Mưa ngâu giăng giăng sụt sùi vơi đầy tâm sự. Tất cả những cảnh tượng đó báo hiệu mùa Thu về. Mùa Thu đã về, với người con Phật là mùa báo hiếu đã đến, Vu-lan thắng hội, ngày Phật hoan hỉ, ngày Tăng Tự Tứ lại về.

“Mỗi độ gió thu về

Rải rắc lá vàng rơi

Vu-lan sầu man mác

Lòng nhớ mẹ không nguôi”.

Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ: Sau khi chứng được lục thông, tôn giả Mục-kiền-liên muốn tìm mẹ của mình để báo đáp ân sinh thành dưỡng dục. Ngài bèn dùng thiên nhãn tìm chốn thác sinh của mẹ, thấy mẹ đọa vào đường Ngạ quỉ, luôn bị đói khát dày vò, bụng to như chiếc trống, cổ nhỏ như lỗ kim, lưng còng xương lộ, trông chẳng giống người. Thấy mẹ như vậy, lòng tôn giả đau như cắt, vội vàng hóa ra bát cơm đem dâng từ mẫu. Mẹ ngài được cơm tức thì tính tham của loài ngạ quỉ trổi dậy, tay trái che bát, tay phải bốc ăn, nhưng thật thảm thay, cơm chưa tới miệng đã hóa thành than lửa đỏ hồng, không thể ăn được.

Tôn giả Mục-kiền-liên đau đớn vô cùng, về bạch với đức Phật chuyện vừa xảy ra. Đức Phật dạy: Mẹ con xưa đã tạo tội sâu nặng, sức một mình con không thể cứu được, dù con hiếu thuận cảm động trời đất nhưng mà trời đất quỉ thần thảy đều thúc thủ; phải nhờ thần lực của mười phương tăng mới mong cứu được. Đại Mục-kiền-liên! Ngày rằm tháng bảy, là ngày Tự Tứ của mười phương Tăng, ngày Phật hoan hỉ, con nên chuẩn bị đủ vị cơm canh cúng dường chúng tăng khắp cả mười phương, thỉnh tăng chú nguyện, nhờ thần lực ấy, mẹ con thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỉ.

Tôn giả Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy, sắm sửa thức ăn để cúng dường chư tăngcầu thỉnh chư tăng chú nguyện. Nhờ công đức này mà mẹ ngài ngay trong ngày ấy thoát khổ ngạ quỉ, sinh lên cõi trời.

Kể từ đó, tôn giả được tôn xưng là Đại Hiếu Mục-kiền-liên và gương sáng của Ngài được những người con hiếu thảo noi theo, truyền mãi đến ngày nay. Vì thế, cứ mỗi độ Thu về, âm hưởng Vu-lan đồng vọng khắp muôn nơi, từ chốn đô thị phồn hoa, đến miền quê xa hẻo lánh, cùng trào dâng niềm báo hiếu công ơn cha mẹ.

Công cha nghĩa mẹ cao vời

Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta

Nên người, ta phải thiết tha

Đáp đền ân nặng như là trời cao.

Báo hiếu là một quan niệm đúng đắn, một việc làm cao đẹp muôn đời được tôn vinh. Báo hiếu phải đầy đủ hai nghĩa tri ânbáo ân. Vì tri ân mà không báo ân thì đó là những ý nghĩ mông lung, những lời nói suông hoặc, chẳng thiết thực cụ thể, không có một kết quả rõ ràng. Nếu báo ân mà không tri ân thì sự báo ân đó không trọn vẹn ý nghĩa. Chúng ta thử nghĩ, có ai đó không biết người khác cho mình ân huệ gì mà lại sinh tâm báo đáp, điều đó có thể xảy ra không? Thật khó có, nếu không muốn nói là chưa từng có. Vì thế muốn báo ân trước hết phải tri ân.

Ta hãy lắng lòng đọc lại lời Phật dạy trong kinh Báo ân Cha Mẹ.

A nan! Ân Đức cha mẹ có mười điều sau đây:

MỘT là ân thai mang giữ gìn. Vì nhân duyên nghiệp lực cho nên chúng sinh gá vào thai mẹ, trải qua nhiều ngày mẹ phải chịu khổ, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội đá, đi đứng ngại gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.

HAI là ân sinh sản khổ sở. Đến tháng thứ mười, gần ngày sinh nở, tâm trạng mẹ hiền: đêm đêm như bịnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn, hồi hộp lo nghĩ, lệ sầu tuôn rơi, nghĩ ngợi mông lung, chỉ sợ tử thần không dung tánh mạng.

BA là ân sinh rồi quên lo. Trong khi sinh đẻ, gan ruột từ mẫu dường như xé rách, đau đớn mê man, máu huyết dầm dề, khi nghe con an toàn thì vui mừng quên hết, song vui đó lại buồn đó, lo nghĩ xiết ruột gan.

BỐN là ân nuốt đắng nhổ ngọt. Tình thương cha mẹ thật sâu nặng, thương mến có bao giờ nhạt phai. Nhổ ngọt không tiếc nuối, nuốt đắng nào phiền hà. thương mến càng sâu đậm, bi sầu càng tăng thêm, miễn sao con no ấm, đói khát mẹ nào từ.

NĂM là ân nhường khô nằm ướt. Mẹ nằm chỗ ướt át, nâng con chỗ ấm khô. Đôi vú no đói khát, hai tay che gió sương, yêu thương quên ngủ nghỉ, sủng ái hết giá lạnh, chỉ mong con yên ổn, mẹ hiền không cầu an.

SÁU là ân bú mớm nuôi nấng. Mẹ hiền ân hơn đất, cha nghiêm đức quá trời, che chở ân cao dày, cha mẹ nào tính toán, không hiềm không mắt mũi, không ghét què chân tay. Con sinh ra từ bụng mẹ, còn đổi dạ thương ai.

BẢY là ân tắm rửa săn sóc. Không nghĩ phận mình, chỉ lo con bệnh, cho nên hết lòng tắm rửa săn sóc. Áo quần lo cho con, rách rưới mẹ cam chịu. Thân con được đầy đủ là lòng mẹ ấm áp.

TÁM là ân xa cách thương nhớ. Chết mà từ biệt đã đành, khó nhẫn nại; sống mà biệt ly, lại càng rất nhớ thương. Con đi đường xa cách, lòng mẹ bóng theo hình, ngày đêm không thư dạ, sớm tối nào tạm quên. Khóc như khóc vượn nhớ con, thương nhớ nát can trường.

CHÍN là ân vì con làm ác. Lao khổ đủ muôn bề, bữa ăn rất khó kiếm. Vì muốn con no ấm, việc ác mẹ khó từ. Nuôi con khôn lớn, lo gầy dựng, lo cơm áo, sợ cơ hàn; kho nấu bao sinh vật, cũng vì ngon miệng con.

MƯỜI là ân thương mến trọn đời. Ân đức của cha mẹ cao sâu hơn trời đất, hi sinh hết tất cả, vẫn thấy chưa vừa lòng. Mẹ già hơn trăm tuổi còn thương con tám mươi. Tình thương có ngừng chăng, chỉ hơi thở cuối cùng.

A nan! Như Lai xét thấy chúng sinh tuy làm thân người, nhưng tâm trí vẫn còn tối tăm. Không biết ân đức cha mẹ cao dày. Không biết kính trọng, vong ân bội nghĩa. Không lòng mến thương, bất hiếu bất mục. Từ mẫu mang thai trong mười tháng tròn, đứng ngồi không yên, như gánh gánh nặng, ăn uống không xuống, như bệnh lâu ngày. Khi đủ ngày tháng, sắp sửa sinh con, thì đủ khổ sở, khiếp sợ tử thần, tánh mạng mong manh. Như vật bị hại, huyết chảy tràn đất. Mẹ khổ đến thế mới sinh ra ta. Sinh rồi nuốt đắng nhổ ngọt, bồng ẵm nuôi nấng, không kể mệt nhọc, chịu nắng chịu mưa, không từ cay đắng. Chỗ khô con nằm, chỗ ướt mẹ lăn. Suốt trong ba năm, nhờ huyết sữa mẹ mới thành đứa bé. Đến khi khôn lớn, lo việc giáo dục, lo việc hôn nhân, kinh doanh sản nghiệp, tận tụy lao lung. Khổ nhọc suốt đời, không kể công khó. Con cái tật bệnh, cha mẹ bệnh theo, bịnh con nếu hết, cha mẹ mới lành.

Qua đoạn kinh văn trên, chúng ta đã cảm nhận được một cách rõ ràng công ơn trời biển của hai đấng sinh thành.

Đức Phật đề cao sự hiếu dưỡng cha mẹ, Ngài dạy: “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”, hay trong kinh Đại Tập ghi: “Gặp thời không có Phật, khéo thờ phụng cha mẹ chính là thờ Phật”. Điều đó có nghĩa cha mẹ chúng ta chính là vị Phật sống trong nhà, cần phải tôn trọng, cúng kính, cúng dường.

Đã là người Việt Nam ai cũng thuộc câu:

“Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Đạo làm con phải tròn chữ Hiếu. Công cha như núi Thái, nghĩa mẹ như nước trong nguồn, ý chỉ cho công ơn cha mẹ vô bờ bến. Hay nói cụ thể, công ơn vô lượng của cha mẹ có thể qui kết thành bốn ơn nặng:

THỨ NHẤT ÂN CHO THÂN:

Ân cho thân con hằng tạc dạ

Bởi từ đâu con đã nên hình

Dù cho bể đời nhục vinh

Nguyện xin trân quí mảnh hình hài xưa.

Ai cũng biết thân của chúng ta là do tinh cha huyết mẹ sinh ra, những danh, những phận, những quyền, những chức có được về sau đều phải nương vào thân này mới thành. Nếu không có thân này thì quyền danh chức phận sẽ gắn vào đâu? Thế mà có một số người được người khác ban cho chức vị, liền nhớ canh cánh trong lòng mong có dịp để báo đền, còn ân cho thân của cha mẹ nặng vô ngần thì không hề nhớ đến. Đáng thương thay!

Nên biết tấm thân này là một phần máu huyết của cha mẹ, là di sản của cha mẹ truyền trao cho con, cho nên ta phải trân quí di sản ấy, phải luyện tập để có một khối óc thông minh, một thân thể khỏe mạnh, đừng tự đầu độc mình bằng thuốc lá, xì ke, ma túy… làm cho thân tâm suy nhược lụi tàn. Đó là một hành động vong ân bội nghĩa.

THỨ HAI LÀ ÂN NUÔI DƯỠNG:

Nhờ đâu con được lớn khôn

Công ơn cha mẹ mỏi mòn tháng năm

Ân cha nghĩa mẹ tình thâm

Nguyện xin khắc cốt ghi tâm đáp đền.

Khi con cất tiếng khóc chào đời thì mẹ cũng hai dòng nước mắt chảy. Mẹ khóc không phải vì nỗi đau hay buồn phiền mà vì niềm vui quá đỗi. Qua bao chuỗi ngày mong đợi, giờ đây con đã ra đời. Thế rồi một quãng dài năm tháng, cha mẹ bận rộn với công việc nuôi con: “Mẹ nằm chỗ ướt át, nâng con chỗ ấm khô, đôi vú lo đói khát, hai tay che gió sương, yêu thương quên ngủ nghĩ, sủng ái hết giá lạnh, chỉ mong con yên ổn, mẹ hiền không cầu an”.

Một khi nào đó nhàn rỗi, lui về trong tĩnh lặng rồi suy niệm công ơn chạ mẹ, ta sẽ thấy thấm thía vô cùng.

Nuôi dưỡng đã khó như thế, nhưng chưa đủ, còn phải giáo dục con mới nên người.

THỨ BA LÀ ÂN GIÁO DỤC:

Dạy con từ thuở phôi thai

Dạy con từ thuở trong nôi dạy rồi

Dạy con cách học làm người

Biết ăn biết ở một đời thơm danh.

Hành trang cho con vào đời, bắt đầu từ những bài học của cha mẹ. Con nên hay hư trọng trách căn bản từ gia đình, bởi vậy trách nhiệm giáo dục của cha mẹ rất nặng, thường chi phối tính cách cả một đời của người con. Biết bao nhiêu người thành danh trong xã hội khi ôn lại quãng đời của mình vẫn thường nhắc đến những lời cha mẹ dạy dỗ năm xưa. Trách nhiệm càng lớn thì công ơn cha mẹ càng cao, kể sao cho xiết.

THỨ TƯ LÀ ÂN TÁC THÀNH:

Khi đã lớn nên danh nên phận

Cũng đều do cha mẹ tác thành

Nguyện xin giữ trọn thanh danh

Làm muôn phước thiện tâm thành hướng dâng.

Những người bất hạnh cha mẹ mất sớm, may mắn được bà con họ hàng thương yêu chăm sóc thì lúc còn thơ ấu, có thể người ấy chưa cảm nhận được sự thiếu vắng của cha mẹ, nhưng đến khi thành lập gia thất mới thấm thía cảnh mồ côi, mới khát khao sự hiện hữu của cha mẹ. Bởi có tình thương nào dành cho con lớn hơn cha mẹ? Bởi có ai mong con được thành người hơn cha mẹ?

Mặt khác, trong xã hội, dù người ấy có thực tàiđạo đức đi nữa cũng không khỏi bị sự nghi ngờ của một số người: Nó là con ai, liệu có đáng tin cậy không? Cho nên dù cha mẹ tuổi già sức yếu không giúp gì được cho con cái, nhưng cha mẹ là cây cao bóng cả, là chỗ nương tựa tinh thần vững chắc cho đàn con. Nhà thơ Tuấn Dũng đã viết: “Rồi mai con khôn lớn, bay đi khắp mọi miền, con đừng quên con nhé, cha mẹ là quê hương”.

Đúng thế, cha mẹ là quê hương, là cội gốc để con nở hoa cho đời.

Bốn ân trên là sự tóm kết công ơn vô lượng của cha mẹ. Trong kinh báo ân cha mẹ Đức Phật dạy: “Giá như có người, vai trái cõng cha, vai phải mang mẹ, cắt da đến xương, nghiền xương thấu tủy, máu đổ thịt rơi, cũng chưa báo đáp được thâm ân của cha mẹ”.

Vậy làm sao báo đáp được công ơn cha mẹ?

Khi cha mẹ còn sống, báo hiếu phải hội đủ năm yếu tố:

1. Hiếu là dưỡng:

Một hiện tượng đã xảy ra trong xã hội là có những người con để cho mẹ đói khát, nóng lạnh dãi dầu, trong khi đó họ và vợ con cơm no áo ấm, ăn sung mặc sướng… Và càng ngậm ngùi xót xa hơn:

Mẹ nuôi con biển hổ lai láng

Con nuôi mẹ tính tháng kể ngày.

Người như thế chắc chắn không ai thừa nhận là người con có hiếu. Vì thế hiếu hạnh trước tiêncung dưỡng cha mẹ. Cung cấp những thứ cần dùng như cơm áo, thuốc thang…trong khả nămg của mình để giúp cha mẹ sống được an ổn. Có những người con khi cha mẹ còn sống đối xử không ra gì, đến khi cha mẹ chết đi thì giả vờ vật vả khóc lóc như rất tiếc thương, như rất hiếu đức, nên nhân gian có câu: “Sống không cho ăn, chết làm văn tế ruồi”.điều đó thật vô nghĩa. Song dưỡng chỉ mới bước đầu, dưỡng mà không cung kính thì chưa phải là hiếu. Vì sao? Ta cung cấp cho cha mẹ với thái độ bất kính, hành động đó chẳng khác nào đem thức ăn cho lợn cho gà ăn. Vì thế cần phảiyếu tố thứ hai Hiếu là kính.

2. Hiếu là kính

Chúng ta kính cha mẹ của chúng ta không phải vì người có quyền uy thế lực hay để lại cho ta nhiều sự nghiệp vật chất mà ta kính người bởi bốn ơn nặng mà một đời cha mẹ đã dành cho chúng ta.

Gương của người xưa vẫn còn sáng: Hán Văn Đế là con của Hán Cao Tổ cùng cha khác mẹ với Huệ Đế. Mẹ của Văn Đế là Bạc Hậu đau yếu nhiều năm, ông tuy thân làm quốc chủ một nước nhưng ngoài những buổi chầu vẫn mặc triều phục đứng hầu mẹ, lo bệnh của mẹ đến quên ăn bỏ ngủ. Vì sợ có kẻ gian bỏ thuốc độc nên mỗi khi Thái hậu uống thuốc ông đều nếm thử rồi mới dâng lên. Thái hậu ái ngại thương con, bảo ông để cung nữ hầu hạ là được, nhưng ông không chịu thưa: “Nếu con trẻ không đỡ đần được chút việc cho mẹ lúc còn sống thì biết bao giờ mới có cơ hội báo đáp công ơn dưỡng dục!”. Bản thân là vua của một nước mà hiếu dưỡng đến dường ấy, kính cẩn đến dường ấy!

Tuy nhiên dưỡng và kính vẫn chưa tròn chữ hiếu mà còn phải là hòa thuận.

3. Hiếu là thuận hòa

Thuận là vâng lời cha mẹ. Có người nói: những lời cha mẹ nói đúng thì vâng lời đã đành, còn những lời nói sai cũng phải vâng lời sao? Đúng thế, những lời nói sai ta không thể vâng lời, nhưng trước mắt hãy thuận theo cha mẹ, đừng nên dùng những lời lẽ tai ngược phản bác kịch liệt vì cho rằng ta đúng. Làm như thế thật bất kính với cha mẹ. Ta hãy ôn hòa rồi chọn thời gian, không gian, tâm lí thích hợp để cải chính để cha mẹ hiều đúng sự thật. Đó mới là cách ứng xử của người con có hiếu. Hòa là anh em thương tưởng nhau, vợ chồng kính nhường nhau, tạo nên một gia đình đầm ấm hạnh phúc. Cha mẹ yên lòng khi thấy anh em hòa thuận, vợ chồng hòa hợp, làm cho cha mẹ yên lòng chính là hiếu vậy.

Lai Đích Nhân là người nước Sở, thời Xuân-Thu. Ông tuổi đã bảy mươi mà vẫn còn song thân. Sợ cha mẹ thấy con già nuathương xót lo buồn nên ông thường bày trò để cha mẹ vui. có khi thì mặt áo sặc sỡ nhiều màu tay múa miệng hát trước mặt cha mẹ; có lúc ông bưng nước hầu cha mẹ, lỡ trượt chân té, ngồi khóc hu hu như con trẻ, khiến cho cha mẹ bật cười trước trò ngộ nghĩnh này.

4. Hiếu là Hạnh

Hạnh nghĩa là làm những việc khó làm.

Khi cha mẹ tuổi đã về già, thân thể dần dần tàn lụi, thần trí cũng không còn minh mẫn, dễ giận khó vui, ưa hờn lẫy la mắng, ăn rồi nói chưa ăn, chưa ăn nói đã ăn; trái gió trở trời, đau ốm liên miên, thậm chí việc đại tiểu tiện cũng không tự chủ. Đây chính là lúc cha mẹ cần đến con cái để nâng đỡ chăm sóc. Những hiện tướng như vậy cho thấy cha mẹ không còn sống với chúng ta bao lâu nữa, vì thế đừng bao giờ bực bội xẳng giọng với người mà ngược lại phải dành hết kính yêu, sớm chiều săn sóc, chớ ngại những việc khó làm như dọn phân lau nước tiểu… cho cha mẹ. Nếu người con thương yêu cha mẹ, chăm sóc chu đáo thì cha mẹ có thể kéo dài thêm tuổi thọ. Ngược lại, nếu con bỏ bê chẳng hề đoái hoài, hay sẵn tiền của mướn người ở làm thì hạnh hiếu đã không trọn vẹn mà khiến cho cha mẹ buồn tủi mà sớm lìa bỏ cuộc đời.

Sưu Kiềm Lâu thời Nam Tề, lúc còn trẻ đã làm quan lớn. Một hôm đang làm việc ở công đường tự nhiên tim ông đập liên hồi, mình toát mồ hôi. Linh cảm có việc chẳng lành xảy ra cho gia đình, ông xin nghỉ phép về thăm nhà. Quả nhiên cha ông bị bệnh đã hai hôm. Mời bao nhiêu danh y mà chẳng đoán ra bệnh, ông lo lắng, nhiều đêm túc trực bên cha khiến ông ngã bệnh. Sau đó có một lương y nói với ông rằng phải nếm phân mới biết bệnh nặng hay nhẹ. Nếu phân đắng thì dễ chữa, phân ngọt thì vô phương. Nghe thế, ông chẳng ngần ngại nếm thử, phân cha có vị ngọt. Biết là khó trị, ông càng thương cảm, đêm ngày cầu trời, khấn Phật, xin bớt tuổi thọ mình cho cha. Với tâm thành chí kính, lòng hiếu của ông đã cảm động trời đất, kết quả bệnh của cha ông giảm dần rồi lành hẳn.

Nếm phân là một trong những việc khó làm, mà Sưu Kiềm Lâu có thể làm. Đó chính là hiếu hạnh.

Với người thế gian, làm được bốn điều trên thì xem như đã vẹn chữ hiếu. Là người Phật tử như thế vẫn chưa đủ. Vì làm được như trên chỉ mới lo cho cha mẹ trong đời hiện tại, mà chưa lo được đời sau cho cha mẹ. Nếu cha mẹ sau khi qua đời lại thác sinh vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh thì phận làm con sao khỏi đau xót, và như vậy sao tròn chữ hiếu? Thế nên người Phật tử phải biết hướng cha mẹ thoát khỏi ba cõi sáu đường.

5. Hiếu là giới

Trước hết, người con hiếu phải biết qui y Tam bảo giữ gìn giới hạnh. Bởi nhờ qui y giữ giới tu tập pháp lành mà nhân cách của con người được tỏa sáng, thì đó là một hình thức báo hiếu cha mẹ. Sau nữa, nếu gặp cha mẹ đã hướng về chính đạo thì phải biết tạo nhiều điều kiện hơn nữa cho cha mẹ tu tập công đức, dứt ác hành thiện. Nếu gặp cha mẹ chưa hướng về chính đạo thì phải dùng nhiều phương tiện khéo léo khuyên giải cha mẹ qui y Tam bảo, thụ trì giới cấm, làm lành lánh dữ để gây nghiệp nhân tốt cho kiếp sau sinh về cảnh giới an lành. Đó là ý nghĩa của yếu tố thứ năm.

Khi cha mẹ còn sống, nếu ai thực hành được năm yếu tố trên thì có thể gọi là chí hiếu. Còn không may cha mẹ qua đời thì phận làm con phải thể hiện chữ Hiếu như thế nào?

Cành hoa trắng màu sương gió

Thời gian phủ bạc mái đầu

Mẹ, cha ngày nào che chở

Bây giờ tôi biết tìm đâu ?

Đến một ngày nào đó, cha mẹ cũng từ giã cõi đời, xa ta mãi mãi, ôi! Lòng đau đớn biết dường nào! Một nhà thơ đã viết:

“Tôi thấy tôi mất mẹ

Như mất cả bầu trời”.

đau đớn đến tột cùng nhưng thực tế vẫn là thực tế, có sống tức phải là có chết, có hợp tức có li, đó là công lệ xưa nay. Ta hãy biến đau thương thành những hành động thiết thực, hãy làm những việc phước thiện, tích tập gom góp công đức để hồi hướng cho cha mẹ, cầu cho cha mẹ thác sinh vào cảnh giới an lành. Làm được như vậy, cha mẹ chúng ta chắc chắn nhờ phước đức ấy: nếu đã thác sinh vào chốn lành thì nay lại càng tốt hơn; nếu cha mẹ do ác nghiệp mà thác sinh vào ác thú thì tùy thuộc vào công đức của người con hồi hướng ít nhiều mà được nhẹ hơn hay thoát khỏi đường dữ.

Ở trên đã trình bày hai phần tri ânbáo ân cha mẹ. Phần tri ân, có thể tóm kết công ơn vô lượng của cha mẹ thành bốn ân chính, đó là ân cho thân, ân nuôi dưỡng, ân giáo dục và ân tác thành. Nho gia có câu: “Dưỡng dục phương tri phụ mẫu ân”. Nghĩa là ai đã từng làm cha làm mẹ mới rõ được công ơn của cha mẹ. Những bậc đã làm cha làm mẹ thì rất dễ dàng cảm nhận được thâm ân của cha mẹ, còn những ai chưa làm cha làm mẹ, xin hãy lắng tâm suy nghiệm công ơn của cha mẹ, thì sẽ thấy được một cách sâu sắc và chỉ khi nào thấy được một cách sâu sắc mới có tâm báo đáp công ơn cha mẹ một cách trọn vẹn.

Phần báo ân khi cha mẹ còn sống có thể qui kết thành năm yếu tố: Hiếu là dưỡng, hiếu là kính, hiếu là thuận hòa, hiếu là hạnh, hiếu là giới.

Khi cha mẹ qua đời, hiếu là nhất tâm cầu nguyện và tu tạo công đức tích tập phước thiện để hồi hướng cho hương hồn cha mẹ sinh vào chốn an lành.

Trong cuộc sống tương quan tương duyên, với qui luật cho và nhận đã tạo nên vô vàn nguồn ân khác như ân thầy, ân bạn, ân quốc gia xã hội, ân chúng sinh v.v... mà ở đây chỉ đặc biệt nói rộng về ân cha mẹ. Tri ânbáo ân với nghĩa rộng là bao hàm tất cả những nguồn ân khác. Người Phật tử hãy thức điều này để hằng ngày:

Sống trên đời, gắng giữ trọn chữ tâm

nhất niệm báo ân, đừng báo oán”

(Tôn nữ Hỷ Khương)

Nhân mùa Vu-lan về, với cảm xúc trào dâng không nguôi của một người bất hạnh đã mất hai đấng sinh thành, tôi viết những lời này như là lời tâm sự với chính mình và cũng làm quà tặng cho bạn đọc hữu duyên.

Nguyện cầu:

Cha mẹ anh em

Quyến thuộc thân bằng

Hiện đang còn sống

Phước huệ tăng thêm

Thân không bệnh khổ

Hiểu được Phật pháp

Qui y Tam bảo

Phát bồ-đề tâm

Tu tập pháp lành.

Và cũng nguyện cầu

Cha mẹ bảy đời

Bà con nhiều kiếp

Họ hàng thân thuộc

Nội ngoại hai bên

Những người đã mất

Nhờ công đức này

Đều thoát khổ thú

Sinh về tịnh cảnh.

Và đồng cầu nguyện

Pháp giới chúng sinh

Tình cùng vô tình

Trọn thành Phật đạo.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC-KIỀN-LIÊN BỒ-TÁT MA-HA-TÁT

Phước Viên ngày 12 tháng 07 năm Canh Dần
Kính ghi

Thích Định Viên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11547)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13533)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14122)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10301)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10767)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11315)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11269)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11420)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10162)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9959)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10690)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42187)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10477)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11852)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10007)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10450)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10611)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45735)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11316)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11315)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10624)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13453)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12363)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11013)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10608)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12306)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11160)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11835)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29244)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9210)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10532)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10222)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10577)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10906)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10799)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27375)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11853)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12280)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10441)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11695)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10417)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10777)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10141)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10276)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10637)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10762)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10391)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11465)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18241)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10516)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12842)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11748)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29169)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13314)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22768)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11562)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13802)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25699)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26061)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22292)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12060)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11790)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31831)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12014)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39609)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22471)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11955)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14216)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13343)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12057)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10390)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11223)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13292)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34506)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12610)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12222)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13526)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12617)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12962)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16290)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11730)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27376)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28421)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13395)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant