Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 9

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10699)
Phần 9

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 9)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Cảnh tùy tâm chuyển”, phải cho rằng ngoài chính ta, tất cả chúng sanh tình dữ vô tình đều là chư Phật Như Lai biến hóa độ mình. Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta làm thế nào tu hành chứng quả, một đời viên mãn thành Phật. Người thiện là Phật biến hiện, người ác cũng là Phật biến hiện. Thuận cảnh là Phật biến hiện, ác cảnh cũng là Phật biến hiện để ngay đó chúng ta tôi luyện. Trải qua các cảnh giới này để luyện thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi cho chính mình. Ta tôi luyện ở ngay đó, gọi là công phu tu hành, trở thành mô phạm, tấm gương cho người tu hành. Thiện Tài Đồng Tử không có bạn học. Nếu có bạn học, cả đời ngài sẽ không thể thành Phật, vì sao? Vì không thể hành được “lễ kính tán thán”. Bạn học là mối quan hệ gần bằng nhau. Người ta không cần cung kính với bạn bè, như vậy trong tánh đức của người đó đã thiếu đi một phần, không viên mãn. Tất cả cần phải được chúng ta cung kính, còn một cái không được cung kính thì chúng ta làm sao có thể thành tựu. Không nên cho rằng chỉ một điểm nhỏ này không quan trọng. Một mê thì tất cả mê, một giác tất cả giác, một cái cũng không được, chúng ta phải cung kính tất cả.

Cho nên thị hiện của Thiện Tài là: “Trên đạo Bồ Đề chỉ có một mình ta là học trò. Ngoài chính mình ra, tất cả đều là Phật, đều là Bồ Tát, là thiện tri thức”. Chúng ta phải có cái thấy như vậy, phải dụng tâm như vậy mới đúng pháp. Cũng như xã hội chúng ta, người biểu hiện tâm thiện làm thiện, Thiện Tài Đồng Tử lễ kính tán thán, chúng ta làm học trò “Lễ Kính Tán Thán”; cũng có người biểu hiện tâm bất thiện, làm bất thiện, biểu hiện cảnh giới ác, người tu học chúng ta lễ kính đối với họ nhưng không tán thán. Thực tế mà nói, kính ý là ở trong tâm, tán thán là ở khẩu nghiệp. Khẩu không tán thán, vì nếu tán thán ác sẽ dẫn dắt xã hội này quan niệm làm ác vẫn không sao.

Thắng Nhiệt Bà La Môn đại biểu ngu si, Thiện Tài đi tham vấn ông, vẫn có lễ kính như thấy được thiện tri thức. Thiện Tài đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng nhưng không hề có lời tán thán. Cam Lồ Hoa Vương đại biểu sân hận, tánh tình không tốt, rất dễ dàng tức giận. Không luận là người nào, hơi đắc tội với ông thì tâm báo trong ông liền nổi lên vô cùng mãnh liệt. Thiện Tài Đồng Tử tham vấn ông, cũng đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng nhưng không hề tán thán. Vị thứ ba là Phạt Tô Mật Đa Nữ, ngôn ngữ hiện tại là “kỹ nữ”, biểu thị tham dâm. Thiện Tài Đồng Tử đến tham vấn cũng đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng, không hề tán thán.

Việc này cho thấy tiêu chuẩn tán thán là tánh đức Như Lai. Người tu Giới Định Huệ, chúng ta có thể tán thán họ, không tán thán người tu tham sân si. Bồ Tát biểu hiện nói với chúng ta rằng, xã hội hiện thực, mặt thiện có ảnh hưởng tốt với mọi người, thì tán thán; mặt tráiảnh hưởng không tốt đối với xã hội thì chúng ta không nói một câu, cũng không tán thán, vậy vì sao còn phải tham vấn? Tham vấn có thể học được rất nhiều thứ. Ngoài sự việc tốt chúng ta phải học tập, còn những việc không tốt, chúng ta cũng phải xem học tập, phản tỉnh kiểm điểm. Nếu mình có lỗi lầm tương tự thì phải thay đổi tự làm mới. Cho nên người thiện, người ác đều là thầy giáo tốt.

Khi tôi còn trẻ đi học, thành thật tôi có rất nhiều cách nhìn không hề giống các bạn học, ngay đến thầy giáo cũng không hề giống. Một lần lên lớp, trong bài văn giảng về “tinh trung báo quốc” nói đến Nhạc Phi, đương nhiên nói cả đến Tần Cối. Mọi người tán thán Nhạc Phi, mắng Tần Cối. Quan niệm của tôi không giống mọi người, tôi nói: “Tần Cối cũng không tệ, cũng là anh hùng của dân tộc”. Mọi người trợn mắt nhìn tôi, cho rằng tôi là người có đầu óc làm phản. Nhạc Phi, Tần Cối đều là anh hùng, đều rất cừ khôi, đều đáng được chúng ta tôn kính. Nhạc Phi dạy chúng ta mặt chánh, phải tinh trung báo quốc, tuy không may bị hãm hại chết nhưng trung nghĩa mẫu mực của ông mãi lưu lại đời sau. Khi nhắc đến ai mà không nghiêng mình tôn kính. Chúng ta phải học tập ông. Còn Tần Cối dạy chúng ta mặt trái. Ông đã làm sai, hãm hại trung lương. Người đời sau thường mắng chửi mỗi khi nhắc đến Tần Cối. Tần Cối dạy chúng ta không nên làm việc xấu, nếu không sẽ có kết cuộc như ông. Ông hiện thân nói pháp cho chúng ta. Hai người đều là thầy giáo, một người dạy ta mặt chánh, một người dạy ta mặt trái. Năm mươi ba vị đồng tham đích thực là như vậy.

Cho nên chúng ta thấy người ác, xem việc ác phải phản tỉnh chính mình, lập tức tu sửa hoặc cảnh giác, nhất định không làm. Năm mươi ba vị thiện tri thức là năm mươi ba vị Phật thị hiện. Thiện ác, thuận nghịch chính là xã hội hiện tại của chúng ta. Chúng ta từ sớm đến tối tiếp xúc tất cả người, việc, vật cũng chính là năm mươi ba tham học. Nếu chân thật học Phật, chân thật tu học Đại thừa, chân thật cầu sanh Tịnh Độ, làm học trò của Phật A Di Đà thì hành giả nên biết phải học như thế nào. Đối với người thiện, chúng ta cung kính tán thán. Đối với người ác, chúng ta cung kính nhưng không tán thán. Học tập với người thiện, nhưng cũng phải học tập với người ác, không phạm lỗi lầm đó của họ. Cổ thánh tiên hiền dạy “có lỗi thì sửa, không lỗi thì khích lệ”. Nếu chúng talỗi lầm phải mau sửa đổi, nếu không thì khích lệ chính mình không phạm những lỗi lầm này. Do đây có thể biết quần chúng xã hội rộng lớn đều là thầy giáo của chúng ta, đều là đại ân đại đức thành tựu công đức viên mãn cho chúng ta, cho nên tán thán thuộc về khẩu nghiệp.

Kinh Địa Tạng nói “địa ngục cắt lưỡi”, tương lai đọa vào địa ngục cắt lưỡi, nước đồng đổ vào miệng, gường sắt dính thân,… đều do khẩu nghiệp đã tạo. Kinh Phật nói những lời này nhất định không phải là lời dự đoán, không phải hù doạ người mà là chân tướng sự thật. Mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều là nghiệp lực chính chúng ta biến hiện ra. Thế giới trước mắt hay cảnh giới trước mắt cũng là nghiệp lực chính mình hiện ra. Nếu không tạo nghiệp sẽ không thấy cảnh giới này. Khi tôi mới học Phật, chưa xuất gia, ban đầu tiếp xúc Phật pháp, một người bạn giới thiệu cho tôi lão tiên sinh, cư sĩ Chu Kính Vũ. Ông ấy đồng hương với lão cư sĩ Chu, là người Ôn Châu Chiết Giang. Lúc đó tôi còn rất trẻ, mới 26 tuổi, còn lão tiên sinh lúc đó khoảng 71 tuổi. Ông nhìn tôi như nhìn một đứa bé rất thương yêu. Ông làm công việc in kinh ở Đài Loan. Tất cả kinh sách in ra ông đều tặng tôi. Chuyện kể của ông rất nhiều, chúng tôi thường gặp để nghe ông kể chuyện. Những câu chuyện đó đều có thật. Ông đã từng kể cho tôi nghe một câu chuyện nói rõ không có nghiệp lực này thì địa ngục ở ngay trước mặt chúng ta cũng không nhìn thấy.

Đó là câu chuyện nhạc trượng, nhạc phụ của ông ở Trung Quốc những năm đầu cũng rất nổi tiếng, tên Chương Thái Viêm. Ông là con rể của Chương Thái Viêm, một đại sư trong giới học thuật Trung Quốc. Đầu năm Dân quốc, Chương Thái Viêm ở Bắc Kinh, lúc đó Viên Thế Khải đương quyền phác học đại sư. Chương Thái Viêm nói sẽ không phê phán, bình luận về Viên Thế Khải, vì không đáng được ông mắng. Lời nói này về sau có một số người nịnh bợ kể lại với Viên Thế Khải. Viên Thế Khải nghe tức giận liền cho bắt ông nhốt vào lao ngục hơn một tháng. Một tháng trong lao ngục, ông lại xuất hiện một kỳ tích.

Đông Nhạc Đại Đế, một đại quỷ vương cai quản rất nhiều tỉnh, chức tước thấp hơn vua Diêm La một bậc, mời ông làm phán quan. Địa vị phán quan tương đối cao, tương tự tổng thư ký hiện nay, buổi tối đến nơi đó làm việc. Ông nói gần hoàng hôn sẽ đến. Khi trời tối, có hai quỷ nhỏ mang kiệu đến mời rồi khiêng kiệu đến nơi làm việc. Sáng sớm hôm sau thì đưa ông trở về. Ra khỏi nhà giam, ông vẫn làm phán quan một thời gian dài, có cơ hội thấy được tình hình ở Âm Tào Địa phủ. Có lúc bạn bè nói chuyện với nhau, ông đem việc buổi tối đi làm nói ra cho mọi người nghe. Ở âm gian, tuy chủng tộc, tiếng nói không như nhau nhưng lời nói đều thông. Giao tiếp không có chướng ngại, vẫn có thể hiểu nhau. Ăn uống đi đứng của họ cũng gần giống thế gian này. Tuy nhiên họ không thấy được thái dương, ngày vĩnh viễn tối đen. Cõi ngạ quỹ vĩnh viễn tối, không có ánh sáng mặt trời. Trong địa ngục này có một loại hình phạt gọi là pháo lạc. Đốt cây cột đồng đỏ rực, sau đó bắt người thọ hình phải ôm lấy. Chương Thái Viêm là một Phật tử thuần thành, ông nghe thấy loại hình phạt này quá tàn khốc nên yêu cầu Đông Nhạc đại đế bỏ nó đi. Ông nói: “Ngài có thể bỏ hình phạt ấy được không? Đó là đại công đức”. Đông Nhạc đại đế nghe rồi, mời ông đi tham quan hình trường. Hai tiểu quỷ dẫn ông đi qua rất nhiều con đường, đến hiện trường, tiểu quỷ đứng yên bất động rồi nói: “Đã đến nơi, mời phán quan xem”. Ông không hề thấy gì trước mắt. Bỗng nhiên ông hiểu ra, kinh Phật nói: “Do nghiệp lực biến hiện”. Không phải do vua Diêm La thiết lập mà do nghiệp lực biến hiện.

Nếu chúng ta không có nghiệp lực thì ở ngay trước mặt chúng ta cũng không thấy bất cứ hình phạt nào. Cuối đời, lão cư sĩ Chu đã viết trong trước tác của ông những câu chuyện có thật để minh chứng điều này. Địa ngục trên kinh Địa Tạng chỉ có hai loại người thấy và đi đến được. Một là người tạo tác nghiệp địa ngục, phải chịu hình phạt; hai là Bồ tát vào đó giáo hóa chúng sanh. Ngoài hai loại người này, không ai thấy được cảnh giới địa ngục. Về sau cư sĩ Chương Thái Viêm không nói nữa, mới biết việc này không phải do sức người làm ra mà do nghiệp lực của chính họ biến hiện. Họ đến thọ tội.

Thực tế, những phán quan, tiểu quỷ, ngưu đầu, mã diện, chấp pháp trong địa ngục cũng là nghiệp lực chính mình biến hiện, “tự làm tự chịu”. Cho nên ba nghiệp chúng ta tạo tác, nhất định phải cẩn trọng. Quá khứ đã tạo tội nghiệp thì phải mau hồi đầu để được cứu. Chỉ cần có tâm sợ quá khứ đã tạo ra tội nghiệp thì tương lai chịu báo, như vậy đã được cứu rồi. Còn cứ mờ mịt không biết thì coi như hết cứu. Nhà Phật đại từ đại bi, quay đầu là bờ, chỉ vừa quay đầu thì liền được cứu. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ, đoạt ngôi vua, cấu kết cùng Đề Bà Đạt Đa phá hoại tăng đoàn. Tội ngũ nghịch đều đã tạo, nhất định đọa vào địa ngục A Tỳ. Nhưng khi lâm chung, ông thành tâm sám hối, chân thật hối cải, dùng tâm sám hối niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Kết quả ông được vãng sanh. Cả đời tạo ra tội nghiệp nặng như vậy còn có thể vãng sanh, mặc dù nhiều người đoán ông chỉ vãng sanh ở bậc hạ hạ phẩm, nhưng kinh Phật nói, phẩm vị vãng sanh của ông là thượng phẩm trung sanh.

Cho nên cần hiểu rõ, vãng sanh có hai phương thức. Một là bình thường tích luỹ công đức, chân thành niệm Phật vãng sanh. Hai là lâm chung sám hối vãng sanh. Phẩm vị của sám hối vãng sanh hoàn toàn phụ thuộc vào lực tâm sám hối. Một người tạo tội nghiệp cực trọng, đến lúc lâm chung nếu chân thật sám hối còn có thể vãng sanh, còn có thể được độ, vậy đây là đạo lý gì? “Vạn pháp do tâm”. Hoa Nghiêm cũng nói “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Một ví dụ tạo tội ngũ nghịch trong kinh mà còn được thượng phẩm trung sanh, ngoài ra còn một ví dụ khác rất rõ ràng.

Trong “Tịnh độ thánh hiền lục” của vãng sanh truyện có kể, vào triều nhà Tống, pháp sư Oánh Kha là một người xuất gia phá giới, đại khái ông thảy đều phạm hết các giới luật thanh qui. Thế nhưng ông còn một điểm tích cực, đó là ông tự biết mình đã tạo tội nghiệp. Chính điểm này đã cứu ông. Ông biết tương lai nhất định sẽ đọa địa ngục, lo sợ những khủng khiếp diễn ra nơi địa ngục. Ông liền thỉnh giáo các bạn đồng tu phương cách cứu giúp. Một bạn đồng tu liền đưa ông xem cuốn “Vãng Sanh Truyện”. Sau khi đọc xong, ông rất cảm động, liền hạ quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Truyện ký ghi chép, ông đóng kín phòng, niệm đến cùng một câu A Di Đà Phật. Ba ngày ba đêm không hề ngủ, không ăn thứ gì, niệm ra được Phật A Di Đà. Phật A Di Đà nói với ông rằng thọ mạng của ông còn đến mười năm, khuyên ông cố gắng tu hành trong mười năm này, đến lúc lâm chung, Phật A Di Đà sẽ trở lại tiếp dẫn. Như vậy, nếu chúng sanh chân thật có cảm, Phật liền có ứng. Pháp sư Oánh Kha nói với Phật A Di Đà: “Tập khí của con quá nặng, không tránh bị mê hoặc, mười năm nữa không biết con sẽ phạm phải bao nhiêu tội. Cho nên tuổi thọ mười năm con không cần nữa, con muốn đi liền với ngài”. Phật A Di Đà đồng ý: “Được! Ba ngày sau ta đến tiếp ông”. Oánh Kha rất vui mừng. Ông liền mở cửa, hân hoan nói với mọi người trong chùa, “ba ngày sau tôi sẽ vãng sanh”. Lúc đó người trong chùa đều nghĩ thần kinh của ông không bình thường, một người ác đến như vậy thì làm gì có thể vãng sanh? Thời gian ba ngày đã đến, mọi người náo nhiệt xem ông có vãng sanh được không. Đến sáng sớm ngày thứ ba, ông tắm qua thân thể, thay bộ quần áo mới, xin các đồng tu thảy đều niệm Phật suốt thời khoá sáng hôm đó để đưa ông vãng sanh. Mọi người làm theo, thay đổi khóa tụng khác với ngày thường, đọc kinh A Di Đàniệm Phật hiệu đưa ông vãng sanh. Ngay khi Phật hiệu niệm được khoảng một giờ đồng hồ, ông liền nói với mọi người, “Phật A Di Đà đến rồi, tôi đi với Phật A Di Đà đây”. Ông liền ra đi, thật sự được vãng sanh, không hề có bệnh.

Cách biểu diễn của ông cho chúng ta thấy, kinh Di Đà đã nói “Nếu một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày…”, không hề sai. Bình thường cố làm việc xấu, một câu Phật cũng không niệm, vậy mà ba ngày có thể vãng sanh. Ngày nay chúng ta đóng cửa phòng, niệm ba mươi ngày cũng không thể vãng sanh, do nguyên nhân gì? Tâm của chúng ta là giả, không phải thật. Trong mỗi câu Phật hiệu, còn có vọng tưởng xen tạp, không biết địa ngụcđáng sợ. Oánh Kha biết địa ngục đáng sợ, không vãng sanh thì phải đọa địa ngục. Hai con đường không còn cách chọn lựa. Ông sợ chịu khổ địa ngục, toàn tâm toàn lực chuyên chú, một ý niệm cầu vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Như vậy, đời trước đã tạo tội nghiệp, hoặc giả ngay đời này tạo tội nghiệp, cũng không sợ, chỉ cần chúng ta chân thật đầy đủ ba điều kiệnTín Nguyện Hạnh”, chúng sanh địa ngục cũng có thể ở ngay một đời thành Phật làm tổ, pháp môn không thể nghĩ bàn. Nhiều người mở miệng toàn nói chuyện phiếm. Phải biết, không niệm Phật sẽ liền tạo khẩu nghiệp, phải chịu khổ báo ở ba đường. Mỗi ngày từ sớm đến tối tiếp xúc với người, tốt xấu lẫn lộn, đều nói thị phi nhân ngã. Chúng ta học Phật, đọc kinh, bái Phật, lễ Phật, tu chút công đức đều bị rơi mất từ nơi miệng, tích lũy vô lượng vô biên tội nghiệp. Cho nên phải giác ngộ, phải thông hiểu, mau chóng hồi đầu. Cái miệng này ngày đêm niệm A Di Đà Phật chính là xưng tán Như Lai. Trong lòng nhớ Phật, trên miệng niệm Phật, không xen tạp không gián đoạn mới đạt vô lượng vô biên công đức. Nếu không chịu làm mà đi tạo tội nghiệp, vậy không còn cách nào. Đó là ý nghĩa của xưng tán.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9815)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9986)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9960)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20542)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10386)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9989)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10375)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9966)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34468)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9664)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8732)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9318)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11132)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8554)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9826)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9203)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20504)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19240)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8778)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8890)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12135)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9633)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23033)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9019)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9296)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 10002)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9935)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10656)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10949)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12513)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9374)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9230)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9344)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10475)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22041)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22302)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16643)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9580)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10230)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8423)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8306)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9486)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8865)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8659)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12287)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9161)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9639)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8640)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9492)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8653)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8395)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8508)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10214)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23673)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9601)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9445)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9029)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8384)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8557)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7921)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 8004)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8826)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8964)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10098)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8670)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8654)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30463)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30130)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24211)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9291)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9665)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9539)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9536)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7873)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9106)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28265)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23767)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12269)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8910)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14259)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14123)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9678)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9368)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9678)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30961)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27155)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32778)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34061)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27806)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10606)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12499)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58788)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10686)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9427)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9583)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13973)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14242)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10806)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28222)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23333)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant