Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 9

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10698)
Phần 9

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 9)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Cảnh tùy tâm chuyển”, phải cho rằng ngoài chính ta, tất cả chúng sanh tình dữ vô tình đều là chư Phật Như Lai biến hóa độ mình. Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta làm thế nào tu hành chứng quả, một đời viên mãn thành Phật. Người thiện là Phật biến hiện, người ác cũng là Phật biến hiện. Thuận cảnh là Phật biến hiện, ác cảnh cũng là Phật biến hiện để ngay đó chúng ta tôi luyện. Trải qua các cảnh giới này để luyện thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi cho chính mình. Ta tôi luyện ở ngay đó, gọi là công phu tu hành, trở thành mô phạm, tấm gương cho người tu hành. Thiện Tài Đồng Tử không có bạn học. Nếu có bạn học, cả đời ngài sẽ không thể thành Phật, vì sao? Vì không thể hành được “lễ kính tán thán”. Bạn học là mối quan hệ gần bằng nhau. Người ta không cần cung kính với bạn bè, như vậy trong tánh đức của người đó đã thiếu đi một phần, không viên mãn. Tất cả cần phải được chúng ta cung kính, còn một cái không được cung kính thì chúng ta làm sao có thể thành tựu. Không nên cho rằng chỉ một điểm nhỏ này không quan trọng. Một mê thì tất cả mê, một giác tất cả giác, một cái cũng không được, chúng ta phải cung kính tất cả.

Cho nên thị hiện của Thiện Tài là: “Trên đạo Bồ Đề chỉ có một mình ta là học trò. Ngoài chính mình ra, tất cả đều là Phật, đều là Bồ Tát, là thiện tri thức”. Chúng ta phải có cái thấy như vậy, phải dụng tâm như vậy mới đúng pháp. Cũng như xã hội chúng ta, người biểu hiện tâm thiện làm thiện, Thiện Tài Đồng Tử lễ kính tán thán, chúng ta làm học trò “Lễ Kính Tán Thán”; cũng có người biểu hiện tâm bất thiện, làm bất thiện, biểu hiện cảnh giới ác, người tu học chúng ta lễ kính đối với họ nhưng không tán thán. Thực tế mà nói, kính ý là ở trong tâm, tán thán là ở khẩu nghiệp. Khẩu không tán thán, vì nếu tán thán ác sẽ dẫn dắt xã hội này quan niệm làm ác vẫn không sao.

Thắng Nhiệt Bà La Môn đại biểu ngu si, Thiện Tài đi tham vấn ông, vẫn có lễ kính như thấy được thiện tri thức. Thiện Tài đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng nhưng không hề có lời tán thán. Cam Lồ Hoa Vương đại biểu sân hận, tánh tình không tốt, rất dễ dàng tức giận. Không luận là người nào, hơi đắc tội với ông thì tâm báo trong ông liền nổi lên vô cùng mãnh liệt. Thiện Tài Đồng Tử tham vấn ông, cũng đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng nhưng không hề tán thán. Vị thứ ba là Phạt Tô Mật Đa Nữ, ngôn ngữ hiện tại là “kỹ nữ”, biểu thị tham dâm. Thiện Tài Đồng Tử đến tham vấn cũng đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng, không hề tán thán.

Việc này cho thấy tiêu chuẩn tán thán là tánh đức Như Lai. Người tu Giới Định Huệ, chúng ta có thể tán thán họ, không tán thán người tu tham sân si. Bồ Tát biểu hiện nói với chúng ta rằng, xã hội hiện thực, mặt thiện có ảnh hưởng tốt với mọi người, thì tán thán; mặt tráiảnh hưởng không tốt đối với xã hội thì chúng ta không nói một câu, cũng không tán thán, vậy vì sao còn phải tham vấn? Tham vấn có thể học được rất nhiều thứ. Ngoài sự việc tốt chúng ta phải học tập, còn những việc không tốt, chúng ta cũng phải xem học tập, phản tỉnh kiểm điểm. Nếu mình có lỗi lầm tương tự thì phải thay đổi tự làm mới. Cho nên người thiện, người ác đều là thầy giáo tốt.

Khi tôi còn trẻ đi học, thành thật tôi có rất nhiều cách nhìn không hề giống các bạn học, ngay đến thầy giáo cũng không hề giống. Một lần lên lớp, trong bài văn giảng về “tinh trung báo quốc” nói đến Nhạc Phi, đương nhiên nói cả đến Tần Cối. Mọi người tán thán Nhạc Phi, mắng Tần Cối. Quan niệm của tôi không giống mọi người, tôi nói: “Tần Cối cũng không tệ, cũng là anh hùng của dân tộc”. Mọi người trợn mắt nhìn tôi, cho rằng tôi là người có đầu óc làm phản. Nhạc Phi, Tần Cối đều là anh hùng, đều rất cừ khôi, đều đáng được chúng ta tôn kính. Nhạc Phi dạy chúng ta mặt chánh, phải tinh trung báo quốc, tuy không may bị hãm hại chết nhưng trung nghĩa mẫu mực của ông mãi lưu lại đời sau. Khi nhắc đến ai mà không nghiêng mình tôn kính. Chúng ta phải học tập ông. Còn Tần Cối dạy chúng ta mặt trái. Ông đã làm sai, hãm hại trung lương. Người đời sau thường mắng chửi mỗi khi nhắc đến Tần Cối. Tần Cối dạy chúng ta không nên làm việc xấu, nếu không sẽ có kết cuộc như ông. Ông hiện thân nói pháp cho chúng ta. Hai người đều là thầy giáo, một người dạy ta mặt chánh, một người dạy ta mặt trái. Năm mươi ba vị đồng tham đích thực là như vậy.

Cho nên chúng ta thấy người ác, xem việc ác phải phản tỉnh chính mình, lập tức tu sửa hoặc cảnh giác, nhất định không làm. Năm mươi ba vị thiện tri thức là năm mươi ba vị Phật thị hiện. Thiện ác, thuận nghịch chính là xã hội hiện tại của chúng ta. Chúng ta từ sớm đến tối tiếp xúc tất cả người, việc, vật cũng chính là năm mươi ba tham học. Nếu chân thật học Phật, chân thật tu học Đại thừa, chân thật cầu sanh Tịnh Độ, làm học trò của Phật A Di Đà thì hành giả nên biết phải học như thế nào. Đối với người thiện, chúng ta cung kính tán thán. Đối với người ác, chúng ta cung kính nhưng không tán thán. Học tập với người thiện, nhưng cũng phải học tập với người ác, không phạm lỗi lầm đó của họ. Cổ thánh tiên hiền dạy “có lỗi thì sửa, không lỗi thì khích lệ”. Nếu chúng talỗi lầm phải mau sửa đổi, nếu không thì khích lệ chính mình không phạm những lỗi lầm này. Do đây có thể biết quần chúng xã hội rộng lớn đều là thầy giáo của chúng ta, đều là đại ân đại đức thành tựu công đức viên mãn cho chúng ta, cho nên tán thán thuộc về khẩu nghiệp.

Kinh Địa Tạng nói “địa ngục cắt lưỡi”, tương lai đọa vào địa ngục cắt lưỡi, nước đồng đổ vào miệng, gường sắt dính thân,… đều do khẩu nghiệp đã tạo. Kinh Phật nói những lời này nhất định không phải là lời dự đoán, không phải hù doạ người mà là chân tướng sự thật. Mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều là nghiệp lực chính chúng ta biến hiện ra. Thế giới trước mắt hay cảnh giới trước mắt cũng là nghiệp lực chính mình hiện ra. Nếu không tạo nghiệp sẽ không thấy cảnh giới này. Khi tôi mới học Phật, chưa xuất gia, ban đầu tiếp xúc Phật pháp, một người bạn giới thiệu cho tôi lão tiên sinh, cư sĩ Chu Kính Vũ. Ông ấy đồng hương với lão cư sĩ Chu, là người Ôn Châu Chiết Giang. Lúc đó tôi còn rất trẻ, mới 26 tuổi, còn lão tiên sinh lúc đó khoảng 71 tuổi. Ông nhìn tôi như nhìn một đứa bé rất thương yêu. Ông làm công việc in kinh ở Đài Loan. Tất cả kinh sách in ra ông đều tặng tôi. Chuyện kể của ông rất nhiều, chúng tôi thường gặp để nghe ông kể chuyện. Những câu chuyện đó đều có thật. Ông đã từng kể cho tôi nghe một câu chuyện nói rõ không có nghiệp lực này thì địa ngục ở ngay trước mặt chúng ta cũng không nhìn thấy.

Đó là câu chuyện nhạc trượng, nhạc phụ của ông ở Trung Quốc những năm đầu cũng rất nổi tiếng, tên Chương Thái Viêm. Ông là con rể của Chương Thái Viêm, một đại sư trong giới học thuật Trung Quốc. Đầu năm Dân quốc, Chương Thái Viêm ở Bắc Kinh, lúc đó Viên Thế Khải đương quyền phác học đại sư. Chương Thái Viêm nói sẽ không phê phán, bình luận về Viên Thế Khải, vì không đáng được ông mắng. Lời nói này về sau có một số người nịnh bợ kể lại với Viên Thế Khải. Viên Thế Khải nghe tức giận liền cho bắt ông nhốt vào lao ngục hơn một tháng. Một tháng trong lao ngục, ông lại xuất hiện một kỳ tích.

Đông Nhạc Đại Đế, một đại quỷ vương cai quản rất nhiều tỉnh, chức tước thấp hơn vua Diêm La một bậc, mời ông làm phán quan. Địa vị phán quan tương đối cao, tương tự tổng thư ký hiện nay, buổi tối đến nơi đó làm việc. Ông nói gần hoàng hôn sẽ đến. Khi trời tối, có hai quỷ nhỏ mang kiệu đến mời rồi khiêng kiệu đến nơi làm việc. Sáng sớm hôm sau thì đưa ông trở về. Ra khỏi nhà giam, ông vẫn làm phán quan một thời gian dài, có cơ hội thấy được tình hình ở Âm Tào Địa phủ. Có lúc bạn bè nói chuyện với nhau, ông đem việc buổi tối đi làm nói ra cho mọi người nghe. Ở âm gian, tuy chủng tộc, tiếng nói không như nhau nhưng lời nói đều thông. Giao tiếp không có chướng ngại, vẫn có thể hiểu nhau. Ăn uống đi đứng của họ cũng gần giống thế gian này. Tuy nhiên họ không thấy được thái dương, ngày vĩnh viễn tối đen. Cõi ngạ quỹ vĩnh viễn tối, không có ánh sáng mặt trời. Trong địa ngục này có một loại hình phạt gọi là pháo lạc. Đốt cây cột đồng đỏ rực, sau đó bắt người thọ hình phải ôm lấy. Chương Thái Viêm là một Phật tử thuần thành, ông nghe thấy loại hình phạt này quá tàn khốc nên yêu cầu Đông Nhạc đại đế bỏ nó đi. Ông nói: “Ngài có thể bỏ hình phạt ấy được không? Đó là đại công đức”. Đông Nhạc đại đế nghe rồi, mời ông đi tham quan hình trường. Hai tiểu quỷ dẫn ông đi qua rất nhiều con đường, đến hiện trường, tiểu quỷ đứng yên bất động rồi nói: “Đã đến nơi, mời phán quan xem”. Ông không hề thấy gì trước mắt. Bỗng nhiên ông hiểu ra, kinh Phật nói: “Do nghiệp lực biến hiện”. Không phải do vua Diêm La thiết lập mà do nghiệp lực biến hiện.

Nếu chúng ta không có nghiệp lực thì ở ngay trước mặt chúng ta cũng không thấy bất cứ hình phạt nào. Cuối đời, lão cư sĩ Chu đã viết trong trước tác của ông những câu chuyện có thật để minh chứng điều này. Địa ngục trên kinh Địa Tạng chỉ có hai loại người thấy và đi đến được. Một là người tạo tác nghiệp địa ngục, phải chịu hình phạt; hai là Bồ tát vào đó giáo hóa chúng sanh. Ngoài hai loại người này, không ai thấy được cảnh giới địa ngục. Về sau cư sĩ Chương Thái Viêm không nói nữa, mới biết việc này không phải do sức người làm ra mà do nghiệp lực của chính họ biến hiện. Họ đến thọ tội.

Thực tế, những phán quan, tiểu quỷ, ngưu đầu, mã diện, chấp pháp trong địa ngục cũng là nghiệp lực chính mình biến hiện, “tự làm tự chịu”. Cho nên ba nghiệp chúng ta tạo tác, nhất định phải cẩn trọng. Quá khứ đã tạo tội nghiệp thì phải mau hồi đầu để được cứu. Chỉ cần có tâm sợ quá khứ đã tạo ra tội nghiệp thì tương lai chịu báo, như vậy đã được cứu rồi. Còn cứ mờ mịt không biết thì coi như hết cứu. Nhà Phật đại từ đại bi, quay đầu là bờ, chỉ vừa quay đầu thì liền được cứu. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ, đoạt ngôi vua, cấu kết cùng Đề Bà Đạt Đa phá hoại tăng đoàn. Tội ngũ nghịch đều đã tạo, nhất định đọa vào địa ngục A Tỳ. Nhưng khi lâm chung, ông thành tâm sám hối, chân thật hối cải, dùng tâm sám hối niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Kết quả ông được vãng sanh. Cả đời tạo ra tội nghiệp nặng như vậy còn có thể vãng sanh, mặc dù nhiều người đoán ông chỉ vãng sanh ở bậc hạ hạ phẩm, nhưng kinh Phật nói, phẩm vị vãng sanh của ông là thượng phẩm trung sanh.

Cho nên cần hiểu rõ, vãng sanh có hai phương thức. Một là bình thường tích luỹ công đức, chân thành niệm Phật vãng sanh. Hai là lâm chung sám hối vãng sanh. Phẩm vị của sám hối vãng sanh hoàn toàn phụ thuộc vào lực tâm sám hối. Một người tạo tội nghiệp cực trọng, đến lúc lâm chung nếu chân thật sám hối còn có thể vãng sanh, còn có thể được độ, vậy đây là đạo lý gì? “Vạn pháp do tâm”. Hoa Nghiêm cũng nói “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Một ví dụ tạo tội ngũ nghịch trong kinh mà còn được thượng phẩm trung sanh, ngoài ra còn một ví dụ khác rất rõ ràng.

Trong “Tịnh độ thánh hiền lục” của vãng sanh truyện có kể, vào triều nhà Tống, pháp sư Oánh Kha là một người xuất gia phá giới, đại khái ông thảy đều phạm hết các giới luật thanh qui. Thế nhưng ông còn một điểm tích cực, đó là ông tự biết mình đã tạo tội nghiệp. Chính điểm này đã cứu ông. Ông biết tương lai nhất định sẽ đọa địa ngục, lo sợ những khủng khiếp diễn ra nơi địa ngục. Ông liền thỉnh giáo các bạn đồng tu phương cách cứu giúp. Một bạn đồng tu liền đưa ông xem cuốn “Vãng Sanh Truyện”. Sau khi đọc xong, ông rất cảm động, liền hạ quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Truyện ký ghi chép, ông đóng kín phòng, niệm đến cùng một câu A Di Đà Phật. Ba ngày ba đêm không hề ngủ, không ăn thứ gì, niệm ra được Phật A Di Đà. Phật A Di Đà nói với ông rằng thọ mạng của ông còn đến mười năm, khuyên ông cố gắng tu hành trong mười năm này, đến lúc lâm chung, Phật A Di Đà sẽ trở lại tiếp dẫn. Như vậy, nếu chúng sanh chân thật có cảm, Phật liền có ứng. Pháp sư Oánh Kha nói với Phật A Di Đà: “Tập khí của con quá nặng, không tránh bị mê hoặc, mười năm nữa không biết con sẽ phạm phải bao nhiêu tội. Cho nên tuổi thọ mười năm con không cần nữa, con muốn đi liền với ngài”. Phật A Di Đà đồng ý: “Được! Ba ngày sau ta đến tiếp ông”. Oánh Kha rất vui mừng. Ông liền mở cửa, hân hoan nói với mọi người trong chùa, “ba ngày sau tôi sẽ vãng sanh”. Lúc đó người trong chùa đều nghĩ thần kinh của ông không bình thường, một người ác đến như vậy thì làm gì có thể vãng sanh? Thời gian ba ngày đã đến, mọi người náo nhiệt xem ông có vãng sanh được không. Đến sáng sớm ngày thứ ba, ông tắm qua thân thể, thay bộ quần áo mới, xin các đồng tu thảy đều niệm Phật suốt thời khoá sáng hôm đó để đưa ông vãng sanh. Mọi người làm theo, thay đổi khóa tụng khác với ngày thường, đọc kinh A Di Đàniệm Phật hiệu đưa ông vãng sanh. Ngay khi Phật hiệu niệm được khoảng một giờ đồng hồ, ông liền nói với mọi người, “Phật A Di Đà đến rồi, tôi đi với Phật A Di Đà đây”. Ông liền ra đi, thật sự được vãng sanh, không hề có bệnh.

Cách biểu diễn của ông cho chúng ta thấy, kinh Di Đà đã nói “Nếu một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày…”, không hề sai. Bình thường cố làm việc xấu, một câu Phật cũng không niệm, vậy mà ba ngày có thể vãng sanh. Ngày nay chúng ta đóng cửa phòng, niệm ba mươi ngày cũng không thể vãng sanh, do nguyên nhân gì? Tâm của chúng ta là giả, không phải thật. Trong mỗi câu Phật hiệu, còn có vọng tưởng xen tạp, không biết địa ngụcđáng sợ. Oánh Kha biết địa ngục đáng sợ, không vãng sanh thì phải đọa địa ngục. Hai con đường không còn cách chọn lựa. Ông sợ chịu khổ địa ngục, toàn tâm toàn lực chuyên chú, một ý niệm cầu vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Như vậy, đời trước đã tạo tội nghiệp, hoặc giả ngay đời này tạo tội nghiệp, cũng không sợ, chỉ cần chúng ta chân thật đầy đủ ba điều kiệnTín Nguyện Hạnh”, chúng sanh địa ngục cũng có thể ở ngay một đời thành Phật làm tổ, pháp môn không thể nghĩ bàn. Nhiều người mở miệng toàn nói chuyện phiếm. Phải biết, không niệm Phật sẽ liền tạo khẩu nghiệp, phải chịu khổ báo ở ba đường. Mỗi ngày từ sớm đến tối tiếp xúc với người, tốt xấu lẫn lộn, đều nói thị phi nhân ngã. Chúng ta học Phật, đọc kinh, bái Phật, lễ Phật, tu chút công đức đều bị rơi mất từ nơi miệng, tích lũy vô lượng vô biên tội nghiệp. Cho nên phải giác ngộ, phải thông hiểu, mau chóng hồi đầu. Cái miệng này ngày đêm niệm A Di Đà Phật chính là xưng tán Như Lai. Trong lòng nhớ Phật, trên miệng niệm Phật, không xen tạp không gián đoạn mới đạt vô lượng vô biên công đức. Nếu không chịu làm mà đi tạo tội nghiệp, vậy không còn cách nào. Đó là ý nghĩa của xưng tán.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14463)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14182)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39813)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15348)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13913)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13955)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37420)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40125)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14672)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14338)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12709)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14886)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19247)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13839)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42707)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13871)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37308)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12712)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11804)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22609)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12550)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12609)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13102)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13135)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17305)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33325)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14867)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11080)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12491)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 12003)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11982)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13182)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51352)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12412)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6650)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30498)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13160)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13361)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30773)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19451)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12512)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11895)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14792)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13234)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13244)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30787)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12070)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11867)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12764)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31978)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29472)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11810)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11778)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10473)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11590)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9667)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9698)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10025)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35489)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10182)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10131)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10071)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9702)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27878)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15561)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9889)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13713)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9875)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9737)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18401)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12082)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9608)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9726)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8743)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8944)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8451)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11515)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31815)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12374)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13360)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8872)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9479)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11975)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9262)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9121)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9717)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29438)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9106)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9132)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33344)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8463)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30690)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31336)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37216)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32346)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9963)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27173)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8478)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19288)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13056)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant