Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 11

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10558)
Phần 11


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 11)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Nguyện thứ ba, “Quảng tu cúng dường”

Bồ tát tu bố thí đối với tất cả chúng sanh, Bồ tát Phổ Hiền không tu bố thí mà ngài tu cúng dường. Người thông thường chúng ta đối với Phật, Bồ tát, trưởng bối mới cúng dường, còn đối với đồng bạn và mọi người thường, chúng ta đều bố thí. Kỳ thật bố thí cùng cúng dường chỉ là một việc. Nếu tâm không như nhau, một thì cung kính, một thì không, như vậy không đạt đến được tiêu chuẩn của Phổ Hiền, vẫn gọi là bố thí, chưa phải là cúng dường. Cho nên phải đạt đến tiêu chuẩn của Phổ Hiền, chân thành cung kính. Trong hạnh Phổ Hiền, bố thí đối với tất cả chúng sanh đều với tâm trạng cung kính cúng dường cho chư Phật. Chúng ta phải nên học đặc biệtbố thí cho người dưới, những người nghèo khổ. Thấy người nghèo khổ, thậm chí người ăn mày, chúng ta bố thí cho họ đều phải dùng cái tâm cung kínhbố thí như cúng dường cho chư Phật, đó chính là đang tu “Quảng tu cúng dường”.

Kinh Hoa Nghiêm giảng rất tường tận, dùng tâm Phổ Hiền tu bố thí chính là “Quảng tu cúng dường”. Để nói pháp phương tiện khởi kiến, Phật đem vô lượng vô biên sự tướng này quy nạp thành ba loại lớn, đó là: bố thí tài, bố thí pháp, và bố thí vô uý. Trong cúng dường cũng vậy, có cúng dường tài, cúng dường pháp, vô uý bao gồm ở trong tài và pháp. Bồ tát Phổ Hiền trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyệnđặc biệt đưa ra một loạt so sánh công đức thù thắng. Trong kinh Hoa Nghiêm, ngài nói: dù dùng bảy báu của đại thiên thế giới bố thí cũng không thể so với bố thí một câu pháp. Phật Thích Ca Mâu Ni trong kinh Kim Cang Bát Nhã cũng nói như vậy, “bố thí bảy báu đại thiên thế giới, công đức không bằng nói cho người nghe bốn câu kệ”. Chúng ta vì người nói bốn câu kệ chính là tùy tiện nói bốn câu nào đó trong kinh Kim Cang, “vì người diễn nói”. Công đức này vượt qua những bố thí thông thường, thậm chí cả bố thí bảy báu của đại thiên thế giới.

Có thật công đức lớn đến như vậy sao? Tôi không tin! Không những tôi không tin mà không có người nào tin. Xem trong xã hội ngày nay, tu một ít tài bố thí, làm một ít việc từ thiện, thì báo chí, tạp chí, truyền hình đều tán dương. Ra ngoài, người đó trở thành đại thiện, không ai không tán thán bạn. Còn người bố thí pháp, đừng nói bốn câu kệ, dù giảng hết một bộ kinh thì khi đi ra ngoài cũng không ai biết đến, không ai cung kính, xem trọng. Người thế gian chỉ xem sự tướng trước mắt, không hề thấy nhân quả về sau. Sự việc này, Phật rất tường tận, thông suốt. Lời Phật nói ngàn vạn lần chính xác, một chút cũng không sai, bố thí bảy báu của đại thiên thế giới chúng sanh có được chỉ giải quyết một ít khó khăn trong đời sống trước mắt. Hay nói cách khác, họ đáng luân hồi thế nào thì vẫn phải luân hồi như thế, đáng sanh tử thế nào vẫn phải sanh tử như thế, không giải quyết được vấn đề. Có chăng cũng chỉ giải quyết được chút vấn đềđời sống vật chất hiện tại mà thôi. Người khác không có chỗ ở, chúng ta xây phòng ốc cho họ; họ không có cái ăn, chúng ta cúng dường cái ăn cho họ, như thế chỉ giải quyết những khó khăn tạm thời. Nhưng nghe bốn câu kệ hay một câu kinh Phật, “một khi nghe qua tai, mãi mãi trồng căn lành”, công đức này nhất định không tiêu mất. Phật dùng hạt giống kim cang gieo vào A Lại Da của chúng ta. Ngay đời này dù chúng ta không được lợi ích thì đời sau gặp được Phật pháp, chúng ta tiếp tục tu mà thành tựu. Nếu đời sau không được lợi ích thì còn đời sau nữa, thậm chí đến vô lượng kiếp sau sẽ có một ngày gặp được nhân duyên chín muồi. Nhờ vào nhân duyên nghe kinh, chúng ta liền siêu việt ba cõi, siêu việt mười pháp giới thành Phật làm tổ, công đức lợi ích này tuyệt đối bảy báu của tam thiên đại thiên thế giới không thể so bì.

Phật nói không hề sai, bố thí tài không bằng pháp thí. Nếu chúng ta muốn tu công đức thù thắng, nhất định phải tu bố thí pháp. Vậy không biết giảng kinh thì làm sao bố thí pháp? Không biết giảng kinh, nhưng chúng ta biết niệm Phật A Di Đà. Suốt ngày bố thí pháp này cho biết bao người trong khi chúng ta nói chuyện với họ. Đó là bố thí cho họ. Hiện tại chúng ta mỗi ngày đều không rời điện thoại. Khi vừa cầm đến điện thoại thì “A Di Đà Phật”, mỗi câu A Di Đà Phật gieo vào A Lại Da Thức của đối phương, tương lai họ sẽ nhờ câu A Di Đà Phật này mà vãng sanh bất thoái thành Phật. Đặc biệt khi duyên thù thắng, một đời này họ thành tựu. Nếu duyên không thù thắng thì đời sau thành tựu, nhất định được độ, nhất định vãng sanh.

Ngày nay người tin theo tà giáo không ít. Một số đồng tu hỏi tôi: “Người tà giáo muốn xin sách chúng ta, chúng ta có nên cho họ hay không?”. Cứ cho đi. Vì sao? Cho họ chính là độ họ. Dù họ tà ác thế nào, khi nghe được âm thanh danh hiệu A Di Đà Phật, thấy hình tượng A Di Đà Phật thì tà cũng được độ. Ngay đời này tà, họ phải chịu quả báo địa ngục A Tỳ. Quả báo chịu xong vẫn cứ gặp được Phật pháp, vẫn cứ được độ.

Dường như năm trước, ngay nơi đây, tôi giảng qua một lầnPhát khởi Bồ tát thù thắng chí nhạo kinh”. Mở đầu kinh văn, Phật nêu ra một thí dụ, có người nói xấu hủy báng hai vị tỳ kheo. Hai vị này là pháp sư giảng kinh. Người nói xấu nói: “hai vị tỳ kheo này phá giới, không có đức hạnh” khiến người nghe mất tín tâm đối với hai vị pháp sư này, dẫn đến phá hoại pháp hội đạo tràng. Sau đó người tạo tội nghiệp đọa địa ngục một ngàn tám trăm vạn năm. Một ngàn tám trăm vạn năm là niên số của nhân gian chúng ta, họ nhận chịu khổ đau trong địa ngục vô lượng kiếp. Sau một ngàn tám trăm vạn năm còn phải chịu dư báo chính là ngạ quỷ súc sanh. Đến nhân gian còn chịu ác báo, dư báo báo tận mới có lại được thân người, gặp lại được Phật pháp.

Việc này là vào thời đại của Phật Câu Lưu Tôn. Mới biết được, tạo khẩu nghiệp thật đáng sợ, vì chúng ta làm mất đi cơ duyên nghe pháp của người khác, làm cho một người ở ngay trong một đời bị phá đi cơ hội được độ. Tội nghiệp này rất nặng, cho nên cảm chịu khổ báo thời gian dài đến như vậy. Thế nhưng sau khi tội báo hết, tất nhiên trong A Lại Da thức của người đó còn có chủng tử của Phật. Chịu xong quả báo, người đó còn được dựa vào hạt giống kim cang này, tu hành chứng quả, vãng sanh bất thoái thành Phật. Không ai không được độ. Chúng ta phải biết, người tạo tác tội nghiệp chỉ có một đoạn khổ nạn phải chịu, nhận xong đoạn khổ nạn này, họ vẫn là bằng hữu của Hải hội Liên Trì Tây Phương, vẫn phải gặp mặt. Còn đoạn khổ nạn này họ không cách gì tránh khỏi.

Các vị đồng tu tường tận những đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật thì nên cảnh giác, thiện nhất định phải tu, ác nhất định không làm. Thà bỏ thân mạng cũng không làm ác. Sinh mạng không đáng tiếc, thiện căn, phước đức, nhân duyên là quan trọng, nhất định phải giữ lấy. Bồ tát Phổ Hiền nói pháp cúng dường, pháp cúng dường cũng rất rộng lớn. Trong “phẩm Hạnh Nguyện”, chúng ta nghe bảy đại cương, Bồ tát đại từ đại bi đều muốn chúng ta ngay cuộc sống thường ngày biết bắt đầu học từ đâu trong bảy cương lĩnh này. Bắt đầu từ “Như giáo tu hành cúng dường”. Chúng ta dùng cái gì cúng dường Phật Bồ tát, dùng cái gì cúng dường xã hội đại chúng và tất cả chúng sanh hữu tình? “Như giáo tu hành” chính là đặc biệt đề cao bộ kinh Vô Lượng Thọ, mỗi câu mỗi chữ thảy đều làm được. Kệ khai kinh mỗi ngày đều đọc “Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường”, cái lý này rất sâu, rất rộng. Chúng ta đối với lý sự không tường tận thấu đáo, tuy đọc kinh nhưng thường hay bỏ lỡ, sơ sài qua loa, không nắm ý nghĩa, không nắm cảnh giới trong đó, không biết từ bi của Phật Bồ tát. Nếu thảy đều tường tận, thảy đều thấu hiểu, tự nhiên chúng ta liền sẽ lo tu học. Phật thường hay nói trên kinh Đại thừathâm giải nghĩa thú”, nếu không giảng tỉ mỉ, chúng ta mãi mãimơ hồ hồ. Cả đời tuy học Phật cũng không có lợi ích, còn phải dựa vào nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp về sau, như thế liệu có đáng lo không? Cho nên lãng phí một ít thời gian cũng thật xứng đáng.

Người thế gian không ai không cầu phước báu. Phước từ đâu mà có? Phước do chính mình tu được. Tu bố thí, cúng dường. Bố thí cúng dường thực chất chỉ là một, chỉ chút khác biệt ở nơi dụng tâm. Thông thường phàm phu chúng ta đối với tôn trưởng, với Phật Bồ tát thì cúng dường, còn đối với ngang hàng thì gọi là bố thí. Do đây có thể biết khi cúng dường, tâm địa chân thành cung kính. Nhưng khi bố thí thì tâm cung kính liền hạ thấp xuống, thậm chí hoàn toàn không cung kính, còn sanh tâm ngạo mạn để bố thí. Dĩ nhiên thí chủ đều có thể được phước. Nhưng người dùng tâm cung kính để tu bố thí như tu cúng dường, phước báu có được vô cùng thù thắng. Bồ tát Phổ Hiền dạy “Quảng tu cúng dường”, rõ ràng ngài không nói bố thí, để chúng ta đối với tất cả chúng sanh xuẩn động hàm linh đều dùng tâm cung kính cúng dường giống như chư Phật Như Lai vậy. Việc này chúng ta phải nên học tập. Bố thí cúng dường có thể được phân làm ba loại lớn.

1. Thứ nhất, tài bố thí

Phát tâm bố thí cho tất cả chúng sanh, quả báo chính là tiền của. Rất nhiều hào môn quý tộc, đại phú trưởng giả trong xã hội ngày nay có của cải hùng hậu. Của cải này do đâu mà có? Họ tự kiếm ra hay vận may đến, và tại sao chúng ta không kiếm ra được? Xin nói thành thật, của cải này trong mệnh đều có. Trong mệnh của họ có, không luận từ nghề nghiệp nào. Nghề nghiệp chỉ là cái duyên. Bất cứ nghề nghiệp nào cũng có thể kiếm ra tiền, đều có thể giàu sang. Nếu trong mệnh không có, người ta đem tặng bạn cả ngân hàng cũng không qua được hai tháng là phá sản. Đạo lý này phải hiểu. Tiền của không phải do tranh giành mà được cũng không phải có thể kiếm ra. Tôi nghe nói có một quyển sách xuất bản tên là “Chí phú bí quyết”. Đó đều là giả. Chúng ta mua về xem chỉ giúp họ phát tài vì bán được sách, ngoài ra không có lợi ích gì. Tất cả phải có trong mệnh, thời xưa nói “Công danh phải có mệnh”. Công danh chính ngày nay chúng ta gọi là học vị. Học vị là do mệnh, làm quan cũng do mệnh, phát tài nhiều ít cũng do mệnh. Làm sao trong mệnh của họ có được? Vì nhân đời trước đã trồng, họ trồng cái nhân thù thắng nên quả báo đời này thù thắng. Nhân không thù thắng thì quả báo cũng liền có kém khuyết. Do đây có thể biết, tu nhân mới có được quả.

Cho nên Phật dạy bảo chúng ta, tu tài bố thí thì được tiền của, tu pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ, tu vô úy bố thí thì được khoẻ mạnh sống lâu. Tiền cũng cần, thông minh cũng cần, khoẻ mạnh sống lâu càng cần hơn, nói chung ba thứ quả báo này đều cần đến. Nếu không tu ba loại nhân này, ngày ngày khởi vọng tưởng thì không thể thành tựu được. Có cầu Phật Bồ tát, Phật Bồ tát cũng không thể nào giúp đỡ. Nên nhớ, Phật Bồ tát không thể ban phước cho chúng ta. Nếu trong mệnh không có, Phật Bồ tát đến ban cho chúng ta, vậy thì con người cần gì phải tu nữa. Mỗi ngày nịnh bợ Phật Bồ tát là được? Không hề có việc này, nịnh bợ cũng vô ích. Phật Bồ tát thương mà không thể giúp. Chúng ta thường nói: “được Phật Bồ tát bảo hộ, gia trì”. Sự bảo hộ, gia trì đó không gì khác hơn là đem những đạo lý này nói rõ, đem chân tướng sự thật nói tường tận cho chúng ta. Chúng ta hiểu được đạo lý, y theo phương pháp Phật dạy, chính mình tu tập thì liền có quả báo thù thắng, đó là gia trì của Phật Bồ tát, vạn nhất không nên mê tín.

Do đó, người chân thật thông hiểu, chân thật giác ngộ sẽ biết nên đặt tiền ở đâu cho tốt. Xã hội hiện tại thường đầu tư vào cổ phiếu, đất đai, đủ loại phương pháp để kinh doanh tiền của. Trong hai năm kinh tế không, một trăm vạn biến thành mười vạn, dẫn đến rất nhiều người tự sát. Kinh Phật nói: “Tài vi năm nhà cộng hữu”, không phải chúng tatiền của, chẳng qua là tiền của hiện ra trước mắt để chúng ta xem thấy và cảm giác nó thuộc sở hữu của mình mà thôi. Phật dạy bố thí, cúng dường cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, bố thí tất cả chúng sanh, tiền của chúng ta sẽ không bao giờ thiếu. Phải ghi nhớ, tiền dùng không thiếu là tốt, không cần phải tích luỹ, không cần nhiều. Nhiều tiền của, tai nạn liền đến, cho nên phải biết xả tài. Nhà Nho cũng nói “tích nhi năng tán”, xả ra mới là người thông minh. Người Trung Quốc hay cúng thần tài, ai cũng muốn phát tài, nhưng người thời trước có trí tuệ, thông minh, họ không mê tín.

Hiện tại người ta cúng thần tài, thậm chí cúng Quan Công, Quan Vũ thời Tam Quốc. Quan Công với phát tài có quan hệ gì chứ? Chẳng quan hệ gì. Quan phu tử không có sở trường gì nhưng ông làm được trung nghĩa, oai vũ bất phục, phú quý không màng, là mô phạm để chúng ta học theo. Khoảng thời gian ông ở nơi Tào Tháo, Tào Tháo đã dùng hết tâm sức, hy vọng ông đầu hàng. Thế nhưng Quan phu tử tuy thân ở Tào dinh nhưng tâm thường hay nhớ đến hiền chủ. Đây là mô phạm tốt nhất cho người đời sau. Tuy ngài vượt năm quan, trảm sáu tướng về đến Hiền chủ, Tào Tháo vẫn rất bội phục đối với ông. Người trung nghĩa như vậy, trên thế gian rất khó tìm. Không những hiện tại không có mà vào thời xưa cũng rất ít. Người hiện tại thấy lợi thì quên nghĩa, chỗ nào đãi ngộ tốt, địa vị cao một chút thì lập tức chạy theo. Những người như vậy đều phải cúng dường Quan phu tử, mỗi ngày nhìn thấy ngài liền sanh tâm hổ thẹn.

Trung Quốc thời xưa cúng thần tài. Thần tài là Phạm Nặc, ông thuộc thời đại chiến quốc, đại phu của Việt Vương Câu Tiễn. Việt Vương cũng tương đối cừ khôi. Chúng ta phải nên biết từ xưa đến nay, anh hùng hào kiệt xây dựng một chánh quyền chẳng phải là việc thật khó, nhưng việc phục hưng một quốc gia đã diệt vong mới là rất khó và hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Việt Vương Câu Tiễn là điển hình thành công. Sau khi bị nước Ngô tiêu diệt, ông vẫn có thể phục hưng trở lại, có thể báo được thù, tất cả đều nhờ Phạm Nặc và Văn Chủng. Hai người này trợ giúp Việt Vương hồi phục quốc gia, tiêu diệt nước Ngô. Phạm Nặc là người thông minh, sau khi đại công cáo thành, ông liền khuyên Văn Chủng phải mau rời khỏi Việt Vương Câu Tiễn. Ông nhận biết rất rõ ràng con người này chỉ có thể cùng hoạn nạn, không thể cùng phú quý. Ông khuyên Văn Chủng phải rời khỏi, bảo toàn tánh mạng của chính mình. Việt Vương Câu Tiễn vào lúc hoạn nạn luôn xem trọng những người tài năng, đến khi thiên hạ thái bình, Việt Vương không cần, thậm chí luôn tìm biện pháp loại trừ vì sợ họ tạo phản. Phạm Nặc thông minh nên tự mình rời bỏ, để lại một bức thư cho Văn Chủng. Văn Chủng xem xong cho rằng không nghiêm trọng như ông đã nói. Kết quả không ngoài dự đoán của Phạm Nặc, Câu Tiễn ban cho Văn Chủng tự chết. Mỗi triều đại Trung Quốc gần như đều có việc giết công thần. Phạm Nặc lén trốn đi, đổi tên đổi họ thành Đào Chu Công. Ông làm nghề buôn bán, không bao lâu, ông phát tài to. Sau khi phát tài, ông đem tất cả tiền của ra bố thí, cứu tế bần khổ. Từ buôn bán nhỏ, ông làm vài năm lại phát tài, phát tài rồi lại bố thí, sách sử ghi chép “Tam tụ Tam tán”. Ông có thể tán tài ra, bố thí ân đức, đây là tấm gương tốt cho người buôn bán. Người làm buôn bán kiếm được tiền của xã hội, hoàn trả về cho xã hội, cho nên cúng dường ngài là thần tài rất có đạo lý.

Chúng ta kinh doanh buôn bán, phải lấy Phạm Nặc làm mô phạm. Ông là người có trí tuệ, có học vấn, không luận làm bất cứ việc gì ông đều thành công. Cho nên phải hiểu tán tài, biết kết ân huệ với tất cả chúng sanh, trong Phật pháp chúng ta gọi là kết duyên, khi chúng sanh nhận ân huệ thì chúng ta có thể gặp nạn hay sao? Không thể. Không có gì ăn sẽ tự nhiên có người đưa đồ ăn đến, không quần áo mặc sẽ có người đưa quần áo đến, không thiếu thứ nào. Thậm chí không có nhà ở cũng sẽ có người đưa nhà cho ở, vô cùng tự tại. Chỉ cần chịu tu bố thí thì phước báu tự nhiên. Cho nên không cần đầu tư tiền vào ngân hàng, để ở đâu cũng không đáng tin bằng bố thí cho tất cả chúng sanh. Nhất định số tiền đó không thể mất, hơn nữa còn có lợi tức gấp nhiều hơn lợi tức trong bất cứ hình thức đầu tư buôn bán nào. Tôi nói lời này là lời chân thật.

Bản thân tôi là thí dụ, mười phương cúng dường đến cho tôi, tôi thảy đều đem bố thí hết. Tôi đến bất cứ nơi nào, trên người không cần mang theo một đồng, nghĩ cái gì thì người ta đều đưa đến cúng dường, thậm chí dùng không hết. Thật tự tại. Thọ dụng trên đời sống vật chất là tuỳ tâm sở dục. Bản thân tôi đời trước không có phước. Phước báu này của tôi là tu được từ lúc nào? Sau khi học Phật hiểu rõ được đạo lý tôi mới thật làm, vậy thì phương pháp bố thí này, đại sư Chương Gia dạy cho tôi, tôi thật làm, đã làm rất có hiệu quả, tôi tin sâu không nghi, chân thật tin tưởng, đại sư dạy tôi “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”. Chỉ cần chịu bố thí, đến khi thiếu kém thứ gì, trong lòng vừa nghĩ thì liền có người đưa đến. Những năm đầu tu tương đối ít nhưng tôi cũng đã có cảm ứng. Khi tôi đang cầu học, đời sống rất gian khổ khó khăn. Tôi mong muốn kinh sách, muốn nghiên cứu kinh giáo, trong lòng vừa nghĩ thì đại khái không đến một tháng có người mang đến. Đến nay tôi chỉ nhớ lần thời gian dài nhất là sáu tháng tôi mới có được quyển sách mình cần, đó là quyển Trung Quán Luận Sớ. Còn các quyển khác như Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, tôi vừa mới học Phật, trong lòng nghĩ muốn thì liền sau một tháng có người mang đến. Chân thậtHữu cầu tất ứng”. Miễn là mong cầu đó đúng lý đúng pháp thì đều cảm ứng. Tôi luôn hiểu rõ đạo lý này, thấu suốt chân tướng sự thật.

Nhiều năm đến nay kể từ 26 tuổi học Phật, lão sư dạy bảo, tôi chăm chỉ làm, càng làm cảm ứng càng không thể nghĩ bàn. Cho nên từng câu từng chữ trên kinh Phật, tôi tin sâu không nghi, y giáo phụng hành, rồi chính mình được lợi ích. Bố thí tài được tài phú, bố thí ăn uống thì được ăn uống, bố thí quần áo được quần áo, bố thí phòng ốc được phòng ốc, linh nghiệm vô cùng. Bố thí Phật pháp được thông minh trí tuệ, được biện tài vô ngại, đó là điều mọi người đều cần đến. Chúng ta phải tu pháp bố thí, cúng dường. Bố thí vô uý rất đơn giản, thuận tiện chính là ăn chay. Ăn chay để từ nay về sau không hại tất cả chúng sanh. Tuy Phật pháp không khuyên người ăn trường chay, Phật chỉ khuyên không sát sanh, không hề khuyên tránh ăn thịt. Bởi vì năm xưa, tăng đoàn của Thế Tôn mỗi ngày bưng bình bát đi khất thực, Phật pháptừ bi vi bổn, phương tiện vi môn”, người ta cúng dường thứ gì thì phải ăn thứ đó. Hiện tại các quốc gia Tiểu thừa Phật giáo như TháiLan, Xilanka đều khất thực, họ vẫn ăn thịt, không phân biệt cũng không chấp trước. Tuyệt nhiên không được yêu cầu tín đồ phải làm thức ăn chay cho mình. Như vậy quá phiền cho tín chủ

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Ý kiến bạn đọc
02 Tháng Chín 201506:24
Khách
A Di Đà Phật, mong admin kiểm lại phần giảng kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ có 2 phần 10 và 11 giống nhau.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10316)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11176)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 11004)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11235)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11296)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14302)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12511)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26389)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11730)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29309)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11687)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10806)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11125)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10991)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10809)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11350)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10801)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12277)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11314)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10093)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11421)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13442)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11299)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11508)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12724)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13814)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13226)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12838)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12195)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30181)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38190)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24951)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10992)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11774)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10700)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11246)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11561)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12937)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12139)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11359)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10250)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11831)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11229)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10918)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13103)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10216)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10900)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10964)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14559)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10712)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 22007)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12097)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11465)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30221)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19624)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20610)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12597)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12583)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21227)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13284)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14499)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30472)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28059)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28405)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20999)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28728)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27272)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 22009)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21522)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26269)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21679)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23466)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26433)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23270)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19877)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21200)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 20019)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15448)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39303)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25711)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14151)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26128)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22532)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29182)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22595)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22930)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13228)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23216)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13207)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 29012)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30552)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14280)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26294)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33284)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35615)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8676)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13355)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30690)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22174)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant