Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 11

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10559)
Phần 11


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 11)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Nguyện thứ ba, “Quảng tu cúng dường”

Bồ tát tu bố thí đối với tất cả chúng sanh, Bồ tát Phổ Hiền không tu bố thí mà ngài tu cúng dường. Người thông thường chúng ta đối với Phật, Bồ tát, trưởng bối mới cúng dường, còn đối với đồng bạn và mọi người thường, chúng ta đều bố thí. Kỳ thật bố thí cùng cúng dường chỉ là một việc. Nếu tâm không như nhau, một thì cung kính, một thì không, như vậy không đạt đến được tiêu chuẩn của Phổ Hiền, vẫn gọi là bố thí, chưa phải là cúng dường. Cho nên phải đạt đến tiêu chuẩn của Phổ Hiền, chân thành cung kính. Trong hạnh Phổ Hiền, bố thí đối với tất cả chúng sanh đều với tâm trạng cung kính cúng dường cho chư Phật. Chúng ta phải nên học đặc biệtbố thí cho người dưới, những người nghèo khổ. Thấy người nghèo khổ, thậm chí người ăn mày, chúng ta bố thí cho họ đều phải dùng cái tâm cung kínhbố thí như cúng dường cho chư Phật, đó chính là đang tu “Quảng tu cúng dường”.

Kinh Hoa Nghiêm giảng rất tường tận, dùng tâm Phổ Hiền tu bố thí chính là “Quảng tu cúng dường”. Để nói pháp phương tiện khởi kiến, Phật đem vô lượng vô biên sự tướng này quy nạp thành ba loại lớn, đó là: bố thí tài, bố thí pháp, và bố thí vô uý. Trong cúng dường cũng vậy, có cúng dường tài, cúng dường pháp, vô uý bao gồm ở trong tài và pháp. Bồ tát Phổ Hiền trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyệnđặc biệt đưa ra một loạt so sánh công đức thù thắng. Trong kinh Hoa Nghiêm, ngài nói: dù dùng bảy báu của đại thiên thế giới bố thí cũng không thể so với bố thí một câu pháp. Phật Thích Ca Mâu Ni trong kinh Kim Cang Bát Nhã cũng nói như vậy, “bố thí bảy báu đại thiên thế giới, công đức không bằng nói cho người nghe bốn câu kệ”. Chúng ta vì người nói bốn câu kệ chính là tùy tiện nói bốn câu nào đó trong kinh Kim Cang, “vì người diễn nói”. Công đức này vượt qua những bố thí thông thường, thậm chí cả bố thí bảy báu của đại thiên thế giới.

Có thật công đức lớn đến như vậy sao? Tôi không tin! Không những tôi không tin mà không có người nào tin. Xem trong xã hội ngày nay, tu một ít tài bố thí, làm một ít việc từ thiện, thì báo chí, tạp chí, truyền hình đều tán dương. Ra ngoài, người đó trở thành đại thiện, không ai không tán thán bạn. Còn người bố thí pháp, đừng nói bốn câu kệ, dù giảng hết một bộ kinh thì khi đi ra ngoài cũng không ai biết đến, không ai cung kính, xem trọng. Người thế gian chỉ xem sự tướng trước mắt, không hề thấy nhân quả về sau. Sự việc này, Phật rất tường tận, thông suốt. Lời Phật nói ngàn vạn lần chính xác, một chút cũng không sai, bố thí bảy báu của đại thiên thế giới chúng sanh có được chỉ giải quyết một ít khó khăn trong đời sống trước mắt. Hay nói cách khác, họ đáng luân hồi thế nào thì vẫn phải luân hồi như thế, đáng sanh tử thế nào vẫn phải sanh tử như thế, không giải quyết được vấn đề. Có chăng cũng chỉ giải quyết được chút vấn đềđời sống vật chất hiện tại mà thôi. Người khác không có chỗ ở, chúng ta xây phòng ốc cho họ; họ không có cái ăn, chúng ta cúng dường cái ăn cho họ, như thế chỉ giải quyết những khó khăn tạm thời. Nhưng nghe bốn câu kệ hay một câu kinh Phật, “một khi nghe qua tai, mãi mãi trồng căn lành”, công đức này nhất định không tiêu mất. Phật dùng hạt giống kim cang gieo vào A Lại Da của chúng ta. Ngay đời này dù chúng ta không được lợi ích thì đời sau gặp được Phật pháp, chúng ta tiếp tục tu mà thành tựu. Nếu đời sau không được lợi ích thì còn đời sau nữa, thậm chí đến vô lượng kiếp sau sẽ có một ngày gặp được nhân duyên chín muồi. Nhờ vào nhân duyên nghe kinh, chúng ta liền siêu việt ba cõi, siêu việt mười pháp giới thành Phật làm tổ, công đức lợi ích này tuyệt đối bảy báu của tam thiên đại thiên thế giới không thể so bì.

Phật nói không hề sai, bố thí tài không bằng pháp thí. Nếu chúng ta muốn tu công đức thù thắng, nhất định phải tu bố thí pháp. Vậy không biết giảng kinh thì làm sao bố thí pháp? Không biết giảng kinh, nhưng chúng ta biết niệm Phật A Di Đà. Suốt ngày bố thí pháp này cho biết bao người trong khi chúng ta nói chuyện với họ. Đó là bố thí cho họ. Hiện tại chúng ta mỗi ngày đều không rời điện thoại. Khi vừa cầm đến điện thoại thì “A Di Đà Phật”, mỗi câu A Di Đà Phật gieo vào A Lại Da Thức của đối phương, tương lai họ sẽ nhờ câu A Di Đà Phật này mà vãng sanh bất thoái thành Phật. Đặc biệt khi duyên thù thắng, một đời này họ thành tựu. Nếu duyên không thù thắng thì đời sau thành tựu, nhất định được độ, nhất định vãng sanh.

Ngày nay người tin theo tà giáo không ít. Một số đồng tu hỏi tôi: “Người tà giáo muốn xin sách chúng ta, chúng ta có nên cho họ hay không?”. Cứ cho đi. Vì sao? Cho họ chính là độ họ. Dù họ tà ác thế nào, khi nghe được âm thanh danh hiệu A Di Đà Phật, thấy hình tượng A Di Đà Phật thì tà cũng được độ. Ngay đời này tà, họ phải chịu quả báo địa ngục A Tỳ. Quả báo chịu xong vẫn cứ gặp được Phật pháp, vẫn cứ được độ.

Dường như năm trước, ngay nơi đây, tôi giảng qua một lầnPhát khởi Bồ tát thù thắng chí nhạo kinh”. Mở đầu kinh văn, Phật nêu ra một thí dụ, có người nói xấu hủy báng hai vị tỳ kheo. Hai vị này là pháp sư giảng kinh. Người nói xấu nói: “hai vị tỳ kheo này phá giới, không có đức hạnh” khiến người nghe mất tín tâm đối với hai vị pháp sư này, dẫn đến phá hoại pháp hội đạo tràng. Sau đó người tạo tội nghiệp đọa địa ngục một ngàn tám trăm vạn năm. Một ngàn tám trăm vạn năm là niên số của nhân gian chúng ta, họ nhận chịu khổ đau trong địa ngục vô lượng kiếp. Sau một ngàn tám trăm vạn năm còn phải chịu dư báo chính là ngạ quỷ súc sanh. Đến nhân gian còn chịu ác báo, dư báo báo tận mới có lại được thân người, gặp lại được Phật pháp.

Việc này là vào thời đại của Phật Câu Lưu Tôn. Mới biết được, tạo khẩu nghiệp thật đáng sợ, vì chúng ta làm mất đi cơ duyên nghe pháp của người khác, làm cho một người ở ngay trong một đời bị phá đi cơ hội được độ. Tội nghiệp này rất nặng, cho nên cảm chịu khổ báo thời gian dài đến như vậy. Thế nhưng sau khi tội báo hết, tất nhiên trong A Lại Da thức của người đó còn có chủng tử của Phật. Chịu xong quả báo, người đó còn được dựa vào hạt giống kim cang này, tu hành chứng quả, vãng sanh bất thoái thành Phật. Không ai không được độ. Chúng ta phải biết, người tạo tác tội nghiệp chỉ có một đoạn khổ nạn phải chịu, nhận xong đoạn khổ nạn này, họ vẫn là bằng hữu của Hải hội Liên Trì Tây Phương, vẫn phải gặp mặt. Còn đoạn khổ nạn này họ không cách gì tránh khỏi.

Các vị đồng tu tường tận những đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật thì nên cảnh giác, thiện nhất định phải tu, ác nhất định không làm. Thà bỏ thân mạng cũng không làm ác. Sinh mạng không đáng tiếc, thiện căn, phước đức, nhân duyên là quan trọng, nhất định phải giữ lấy. Bồ tát Phổ Hiền nói pháp cúng dường, pháp cúng dường cũng rất rộng lớn. Trong “phẩm Hạnh Nguyện”, chúng ta nghe bảy đại cương, Bồ tát đại từ đại bi đều muốn chúng ta ngay cuộc sống thường ngày biết bắt đầu học từ đâu trong bảy cương lĩnh này. Bắt đầu từ “Như giáo tu hành cúng dường”. Chúng ta dùng cái gì cúng dường Phật Bồ tát, dùng cái gì cúng dường xã hội đại chúng và tất cả chúng sanh hữu tình? “Như giáo tu hành” chính là đặc biệt đề cao bộ kinh Vô Lượng Thọ, mỗi câu mỗi chữ thảy đều làm được. Kệ khai kinh mỗi ngày đều đọc “Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường”, cái lý này rất sâu, rất rộng. Chúng ta đối với lý sự không tường tận thấu đáo, tuy đọc kinh nhưng thường hay bỏ lỡ, sơ sài qua loa, không nắm ý nghĩa, không nắm cảnh giới trong đó, không biết từ bi của Phật Bồ tát. Nếu thảy đều tường tận, thảy đều thấu hiểu, tự nhiên chúng ta liền sẽ lo tu học. Phật thường hay nói trên kinh Đại thừathâm giải nghĩa thú”, nếu không giảng tỉ mỉ, chúng ta mãi mãimơ hồ hồ. Cả đời tuy học Phật cũng không có lợi ích, còn phải dựa vào nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp về sau, như thế liệu có đáng lo không? Cho nên lãng phí một ít thời gian cũng thật xứng đáng.

Người thế gian không ai không cầu phước báu. Phước từ đâu mà có? Phước do chính mình tu được. Tu bố thí, cúng dường. Bố thí cúng dường thực chất chỉ là một, chỉ chút khác biệt ở nơi dụng tâm. Thông thường phàm phu chúng ta đối với tôn trưởng, với Phật Bồ tát thì cúng dường, còn đối với ngang hàng thì gọi là bố thí. Do đây có thể biết khi cúng dường, tâm địa chân thành cung kính. Nhưng khi bố thí thì tâm cung kính liền hạ thấp xuống, thậm chí hoàn toàn không cung kính, còn sanh tâm ngạo mạn để bố thí. Dĩ nhiên thí chủ đều có thể được phước. Nhưng người dùng tâm cung kính để tu bố thí như tu cúng dường, phước báu có được vô cùng thù thắng. Bồ tát Phổ Hiền dạy “Quảng tu cúng dường”, rõ ràng ngài không nói bố thí, để chúng ta đối với tất cả chúng sanh xuẩn động hàm linh đều dùng tâm cung kính cúng dường giống như chư Phật Như Lai vậy. Việc này chúng ta phải nên học tập. Bố thí cúng dường có thể được phân làm ba loại lớn.

1. Thứ nhất, tài bố thí

Phát tâm bố thí cho tất cả chúng sanh, quả báo chính là tiền của. Rất nhiều hào môn quý tộc, đại phú trưởng giả trong xã hội ngày nay có của cải hùng hậu. Của cải này do đâu mà có? Họ tự kiếm ra hay vận may đến, và tại sao chúng ta không kiếm ra được? Xin nói thành thật, của cải này trong mệnh đều có. Trong mệnh của họ có, không luận từ nghề nghiệp nào. Nghề nghiệp chỉ là cái duyên. Bất cứ nghề nghiệp nào cũng có thể kiếm ra tiền, đều có thể giàu sang. Nếu trong mệnh không có, người ta đem tặng bạn cả ngân hàng cũng không qua được hai tháng là phá sản. Đạo lý này phải hiểu. Tiền của không phải do tranh giành mà được cũng không phải có thể kiếm ra. Tôi nghe nói có một quyển sách xuất bản tên là “Chí phú bí quyết”. Đó đều là giả. Chúng ta mua về xem chỉ giúp họ phát tài vì bán được sách, ngoài ra không có lợi ích gì. Tất cả phải có trong mệnh, thời xưa nói “Công danh phải có mệnh”. Công danh chính ngày nay chúng ta gọi là học vị. Học vị là do mệnh, làm quan cũng do mệnh, phát tài nhiều ít cũng do mệnh. Làm sao trong mệnh của họ có được? Vì nhân đời trước đã trồng, họ trồng cái nhân thù thắng nên quả báo đời này thù thắng. Nhân không thù thắng thì quả báo cũng liền có kém khuyết. Do đây có thể biết, tu nhân mới có được quả.

Cho nên Phật dạy bảo chúng ta, tu tài bố thí thì được tiền của, tu pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ, tu vô úy bố thí thì được khoẻ mạnh sống lâu. Tiền cũng cần, thông minh cũng cần, khoẻ mạnh sống lâu càng cần hơn, nói chung ba thứ quả báo này đều cần đến. Nếu không tu ba loại nhân này, ngày ngày khởi vọng tưởng thì không thể thành tựu được. Có cầu Phật Bồ tát, Phật Bồ tát cũng không thể nào giúp đỡ. Nên nhớ, Phật Bồ tát không thể ban phước cho chúng ta. Nếu trong mệnh không có, Phật Bồ tát đến ban cho chúng ta, vậy thì con người cần gì phải tu nữa. Mỗi ngày nịnh bợ Phật Bồ tát là được? Không hề có việc này, nịnh bợ cũng vô ích. Phật Bồ tát thương mà không thể giúp. Chúng ta thường nói: “được Phật Bồ tát bảo hộ, gia trì”. Sự bảo hộ, gia trì đó không gì khác hơn là đem những đạo lý này nói rõ, đem chân tướng sự thật nói tường tận cho chúng ta. Chúng ta hiểu được đạo lý, y theo phương pháp Phật dạy, chính mình tu tập thì liền có quả báo thù thắng, đó là gia trì của Phật Bồ tát, vạn nhất không nên mê tín.

Do đó, người chân thật thông hiểu, chân thật giác ngộ sẽ biết nên đặt tiền ở đâu cho tốt. Xã hội hiện tại thường đầu tư vào cổ phiếu, đất đai, đủ loại phương pháp để kinh doanh tiền của. Trong hai năm kinh tế không, một trăm vạn biến thành mười vạn, dẫn đến rất nhiều người tự sát. Kinh Phật nói: “Tài vi năm nhà cộng hữu”, không phải chúng tatiền của, chẳng qua là tiền của hiện ra trước mắt để chúng ta xem thấy và cảm giác nó thuộc sở hữu của mình mà thôi. Phật dạy bố thí, cúng dường cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, bố thí tất cả chúng sanh, tiền của chúng ta sẽ không bao giờ thiếu. Phải ghi nhớ, tiền dùng không thiếu là tốt, không cần phải tích luỹ, không cần nhiều. Nhiều tiền của, tai nạn liền đến, cho nên phải biết xả tài. Nhà Nho cũng nói “tích nhi năng tán”, xả ra mới là người thông minh. Người Trung Quốc hay cúng thần tài, ai cũng muốn phát tài, nhưng người thời trước có trí tuệ, thông minh, họ không mê tín.

Hiện tại người ta cúng thần tài, thậm chí cúng Quan Công, Quan Vũ thời Tam Quốc. Quan Công với phát tài có quan hệ gì chứ? Chẳng quan hệ gì. Quan phu tử không có sở trường gì nhưng ông làm được trung nghĩa, oai vũ bất phục, phú quý không màng, là mô phạm để chúng ta học theo. Khoảng thời gian ông ở nơi Tào Tháo, Tào Tháo đã dùng hết tâm sức, hy vọng ông đầu hàng. Thế nhưng Quan phu tử tuy thân ở Tào dinh nhưng tâm thường hay nhớ đến hiền chủ. Đây là mô phạm tốt nhất cho người đời sau. Tuy ngài vượt năm quan, trảm sáu tướng về đến Hiền chủ, Tào Tháo vẫn rất bội phục đối với ông. Người trung nghĩa như vậy, trên thế gian rất khó tìm. Không những hiện tại không có mà vào thời xưa cũng rất ít. Người hiện tại thấy lợi thì quên nghĩa, chỗ nào đãi ngộ tốt, địa vị cao một chút thì lập tức chạy theo. Những người như vậy đều phải cúng dường Quan phu tử, mỗi ngày nhìn thấy ngài liền sanh tâm hổ thẹn.

Trung Quốc thời xưa cúng thần tài. Thần tài là Phạm Nặc, ông thuộc thời đại chiến quốc, đại phu của Việt Vương Câu Tiễn. Việt Vương cũng tương đối cừ khôi. Chúng ta phải nên biết từ xưa đến nay, anh hùng hào kiệt xây dựng một chánh quyền chẳng phải là việc thật khó, nhưng việc phục hưng một quốc gia đã diệt vong mới là rất khó và hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Việt Vương Câu Tiễn là điển hình thành công. Sau khi bị nước Ngô tiêu diệt, ông vẫn có thể phục hưng trở lại, có thể báo được thù, tất cả đều nhờ Phạm Nặc và Văn Chủng. Hai người này trợ giúp Việt Vương hồi phục quốc gia, tiêu diệt nước Ngô. Phạm Nặc là người thông minh, sau khi đại công cáo thành, ông liền khuyên Văn Chủng phải mau rời khỏi Việt Vương Câu Tiễn. Ông nhận biết rất rõ ràng con người này chỉ có thể cùng hoạn nạn, không thể cùng phú quý. Ông khuyên Văn Chủng phải rời khỏi, bảo toàn tánh mạng của chính mình. Việt Vương Câu Tiễn vào lúc hoạn nạn luôn xem trọng những người tài năng, đến khi thiên hạ thái bình, Việt Vương không cần, thậm chí luôn tìm biện pháp loại trừ vì sợ họ tạo phản. Phạm Nặc thông minh nên tự mình rời bỏ, để lại một bức thư cho Văn Chủng. Văn Chủng xem xong cho rằng không nghiêm trọng như ông đã nói. Kết quả không ngoài dự đoán của Phạm Nặc, Câu Tiễn ban cho Văn Chủng tự chết. Mỗi triều đại Trung Quốc gần như đều có việc giết công thần. Phạm Nặc lén trốn đi, đổi tên đổi họ thành Đào Chu Công. Ông làm nghề buôn bán, không bao lâu, ông phát tài to. Sau khi phát tài, ông đem tất cả tiền của ra bố thí, cứu tế bần khổ. Từ buôn bán nhỏ, ông làm vài năm lại phát tài, phát tài rồi lại bố thí, sách sử ghi chép “Tam tụ Tam tán”. Ông có thể tán tài ra, bố thí ân đức, đây là tấm gương tốt cho người buôn bán. Người làm buôn bán kiếm được tiền của xã hội, hoàn trả về cho xã hội, cho nên cúng dường ngài là thần tài rất có đạo lý.

Chúng ta kinh doanh buôn bán, phải lấy Phạm Nặc làm mô phạm. Ông là người có trí tuệ, có học vấn, không luận làm bất cứ việc gì ông đều thành công. Cho nên phải hiểu tán tài, biết kết ân huệ với tất cả chúng sanh, trong Phật pháp chúng ta gọi là kết duyên, khi chúng sanh nhận ân huệ thì chúng ta có thể gặp nạn hay sao? Không thể. Không có gì ăn sẽ tự nhiên có người đưa đồ ăn đến, không quần áo mặc sẽ có người đưa quần áo đến, không thiếu thứ nào. Thậm chí không có nhà ở cũng sẽ có người đưa nhà cho ở, vô cùng tự tại. Chỉ cần chịu tu bố thí thì phước báu tự nhiên. Cho nên không cần đầu tư tiền vào ngân hàng, để ở đâu cũng không đáng tin bằng bố thí cho tất cả chúng sanh. Nhất định số tiền đó không thể mất, hơn nữa còn có lợi tức gấp nhiều hơn lợi tức trong bất cứ hình thức đầu tư buôn bán nào. Tôi nói lời này là lời chân thật.

Bản thân tôi là thí dụ, mười phương cúng dường đến cho tôi, tôi thảy đều đem bố thí hết. Tôi đến bất cứ nơi nào, trên người không cần mang theo một đồng, nghĩ cái gì thì người ta đều đưa đến cúng dường, thậm chí dùng không hết. Thật tự tại. Thọ dụng trên đời sống vật chất là tuỳ tâm sở dục. Bản thân tôi đời trước không có phước. Phước báu này của tôi là tu được từ lúc nào? Sau khi học Phật hiểu rõ được đạo lý tôi mới thật làm, vậy thì phương pháp bố thí này, đại sư Chương Gia dạy cho tôi, tôi thật làm, đã làm rất có hiệu quả, tôi tin sâu không nghi, chân thật tin tưởng, đại sư dạy tôi “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”. Chỉ cần chịu bố thí, đến khi thiếu kém thứ gì, trong lòng vừa nghĩ thì liền có người đưa đến. Những năm đầu tu tương đối ít nhưng tôi cũng đã có cảm ứng. Khi tôi đang cầu học, đời sống rất gian khổ khó khăn. Tôi mong muốn kinh sách, muốn nghiên cứu kinh giáo, trong lòng vừa nghĩ thì đại khái không đến một tháng có người mang đến. Đến nay tôi chỉ nhớ lần thời gian dài nhất là sáu tháng tôi mới có được quyển sách mình cần, đó là quyển Trung Quán Luận Sớ. Còn các quyển khác như Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, tôi vừa mới học Phật, trong lòng nghĩ muốn thì liền sau một tháng có người mang đến. Chân thậtHữu cầu tất ứng”. Miễn là mong cầu đó đúng lý đúng pháp thì đều cảm ứng. Tôi luôn hiểu rõ đạo lý này, thấu suốt chân tướng sự thật.

Nhiều năm đến nay kể từ 26 tuổi học Phật, lão sư dạy bảo, tôi chăm chỉ làm, càng làm cảm ứng càng không thể nghĩ bàn. Cho nên từng câu từng chữ trên kinh Phật, tôi tin sâu không nghi, y giáo phụng hành, rồi chính mình được lợi ích. Bố thí tài được tài phú, bố thí ăn uống thì được ăn uống, bố thí quần áo được quần áo, bố thí phòng ốc được phòng ốc, linh nghiệm vô cùng. Bố thí Phật pháp được thông minh trí tuệ, được biện tài vô ngại, đó là điều mọi người đều cần đến. Chúng ta phải tu pháp bố thí, cúng dường. Bố thí vô uý rất đơn giản, thuận tiện chính là ăn chay. Ăn chay để từ nay về sau không hại tất cả chúng sanh. Tuy Phật pháp không khuyên người ăn trường chay, Phật chỉ khuyên không sát sanh, không hề khuyên tránh ăn thịt. Bởi vì năm xưa, tăng đoàn của Thế Tôn mỗi ngày bưng bình bát đi khất thực, Phật pháptừ bi vi bổn, phương tiện vi môn”, người ta cúng dường thứ gì thì phải ăn thứ đó. Hiện tại các quốc gia Tiểu thừa Phật giáo như TháiLan, Xilanka đều khất thực, họ vẫn ăn thịt, không phân biệt cũng không chấp trước. Tuyệt nhiên không được yêu cầu tín đồ phải làm thức ăn chay cho mình. Như vậy quá phiền cho tín chủ

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Ý kiến bạn đọc
02 Tháng Chín 201506:24
Khách
A Di Đà Phật, mong admin kiểm lại phần giảng kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ có 2 phần 10 và 11 giống nhau.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11400)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11571)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13570)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14133)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10319)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10809)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11345)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11293)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11456)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10186)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9972)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10725)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11329)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42261)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10496)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11877)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10037)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10475)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10645)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45808)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32146)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11352)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10718)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11353)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10652)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13485)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12391)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11052)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10631)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12341)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11184)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11858)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29315)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9232)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10561)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10254)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10611)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10921)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10824)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27426)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17824)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11889)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12301)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10454)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11714)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10444)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10802)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28119)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10166)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10295)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10663)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10781)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11240)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10410)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10699)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11483)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18283)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10537)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12861)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11761)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29232)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28630)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28328)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13347)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22810)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13465)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11590)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13837)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25756)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26110)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22337)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14501)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12079)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11818)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11696)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11499)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33232)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31880)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12051)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39672)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22539)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11981)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14259)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13363)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14317)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12078)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10421)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11247)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13347)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34566)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12648)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12242)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13547)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12638)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12995)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16321)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11768)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27423)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28476)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant