Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Bình Thường Là Đạo

11 Tháng Mười Hai 201517:47(Xem: 11119)
Tâm Bình Thường Là Đạo

TÂM BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO

Masao Abe (*)

Trần Tuấn Mẫn dịch

Tâm Bình Thường Là Đạo 

Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng. Người ta có thể trả lời câu hỏi này bằng cách giơ ngón tay lên hay đập nắm tay xuống bàn hay chỉ bằng cách cứ im lặng. Đây là những câu đáp không lời cho câu hỏi “Thiền là gì?”, đây là biểu lộ chân thực của những gì trú ẩn sâu kín vượt ngoài ngôn từ và sự phân tích có tính cách lý trí.

Tuy nhiên, không nhất thiết là không thể nêu ra một câu đáp bằng lời. Lịch sử của Thiền đã chứng tỏ điều này. Có nhiều trường hợp các thiền sư đã đưa ra những câu đáp bằng lời cho các môn đệ của mình. Thế nhưng những câu đáp bằng lời như thế thường lại hoàn toàn bất ngờ, kỳ cục hoặc phi luận lý. Khi được hỏi “Phật là gì?” là câu hỏi tương đương với câu “Thiền là gì?” thì câu trả lời của Động Sơn (807-869) là “Ba cân gai!”, của Triệu Châu (778-897) là “Hãy xem núi Tây chuyển trên sóng!”.Những câu đáp bằng lời kỳ cục này chặt đứt lối lý luận bao hàm trong cách diễn đạt câu hỏi của người hỏi. Vì trỏ vào thực tính của Thiền vốn vượt ngoài sự miêu tả bằng ngôn từ, nên những câu đáp bằng lời không được dùng như là một miêu tả đơn giản, giới hạn về mặt trăng mà chỉ vỏn vẹn được dùng như là những ngón tay trỏ vào mặt trăng. Do đó, nếu ta chấp vào câu đáp bằng lời mà cố phân tích xem có mối liên hệ luân lý nào giữa câu hỏi và câu đáp thì chắc chắn ta sẽ mất cả ngón tay lẫn mặt trăng. Những câu đáp bằng lời này chỉ là những ngón tay,nhưng là những ngón tay được dùng như là “những tấm ván bật” gạt bỏ lối vào mà lúc đầu ta thường chọn và khiến chúng ta nhảy ngay vào chính mặt trăng được xem là “Thực tính”.

Trong khảo luận này, tôi xin chọn công án Thiền “Cái Tâm bình thường là Đạo” (Bình thường tâm thị đạo), công án thứ mười chín trong Vô môn quan.

Vô môn quan là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của văn học Thiền. Nó được biên soạn bởi Vô Môn Huệ Khai (1183-1260) vào đầu thế kỷ thứ 13, cuối đời Tống của Trung Quốc. Thường được dịch là cái Cổng Không cổng (Gateless gate), Vô môn quan là một tập hợp bốn mươi tám công án, tức các câu hỏi Thiền, được xây dựng trên các câu chuyện về sự chứng ngộ xưa kia của các thiền sư nổi danh, và được một vị thầy trao cho các môn đệ để họ đấu xử, hầu mong thực hiện sự chứng ngộ của chính họ.

Có lần Triệu Châu (778-897) hỏi ngài Nam Tuyền (748-835):
– Đạo là gì?
Nam Tuyền đáp: Cái Tâm bình thường là Đạo.
– Thế thì có nên hướng dẫn đạo hay không nên?
– Nếu ông cố hướng đến thì ông sẽ xa rời Đạo – Nam Tuyền đáp.
Triệu Châu tiếp:
Nếu không cố hướng đến, làm sao biết được đấy là Đạo?
Nam Tuyền trả lời:
– Đạo không thuộc sự biết hay sự không biết. Biết là sự vọng giác; không biết là sự trống trơn. Nếu ông quả thực đạt đến cái đạo vô nghi thì đấy cũng như thái hư, rộng rãivô biên. Thế thì làm sao có thể có đúng có sai trong Đạo được?
Nghe xong, Triệu Châu liền ngộ.
(Zenkei Shibayama, Zen Comments on the MumonKan, Harper and Row, New York, 1947, p.141).

Có hai lý do để chọn công án này nhằm làm sáng tỏ cái cốt lõi của Thiền. Một là chủ đề của công án này, “Tâm bình thường là Đạo” là một khẳng định bằng lời. Không như các mẫu thức đối đáp bằng lời đã nêu trên, khẳng định này không phải là kỳ cục hay không chấp nhận được mà lại khá thuận cho việc tìm hiểu của trí óc chúng ta. Hơn nữa, cuộc đối thoại xảy ra giữa Triệu ChâuNam Tuyền không đột ngột hay phi luận lý như trường hợp thường thấy trong các đối thoại Thiền, nhưng lại chạm đến một vấn đề quyết yếu mà con người ngày nay phải đối mặt.

Mọi đối thoại chấp nhận được bằng lý trí khá là hiếm hoi trong Thiền. Đây là lý do tại sao Bạch Ẩn (Hakuin, 1685-1768), một thiền sư xuất sắc của Nhật Bản thời Đức Xuyên (Tokugawa), đã phê phán Nam Tuyền rằng “Ta không ưa kiểu dịu dàng của lão bà như thế. Đáng ra ông ấy phải thẳng tay đánh đòn Triệu Châu mà chẳng phải nói gì cả”. Cuộc đối thoại “dịu dàng” này thực ra có vẻ “không giống Thiền” và có thể không kỳ thú bằng cái văn cách của nhiều đối thoại Thiền khác. Nó cũng thiếu cả cái ý nghĩa kịch liệt của sự trao đổi “đánh và quát” qua đó vị Thiền sư đánh học trò, quát anh ta để cố khiến anh ta phá vỡ lối suy luận lý trí tầm thường, nhằm thức tỉnh bản chất thực sự của anh ta. Một đối thoại “dịu dàng”như thế, dù sao tôi cũng nghĩ rằng rất hữu ích để những người ngày nay là chúng ta tránh được những hầm bãy của những ngộ nhận thông thường về Thiền. Những trao đổi “đánh và quát” hay những trao đổi “giống-như-Thiền”có tính cách kỳ quặc đã tạo ra sự ngộ nhận rằng Thiền là cái gì đó chỉ thuần phản lý trí hay kỳ bí. Sự quyết đoán ấy đã tạo thành một trong những lý do khiến tôi bàn thảo về công án này. Mặc dù thế khi đối đãi với mẫu đối thoại “dịu dàng” này, chúng ta phải cẩn thận chớ bỏ qua cái sự việc rằng nó cũng trỏ vào cùng một thực tính của Thiền như các đối thoại kỳ quặc hay lập lờ, hay như những trao đổi “đánh và quát”.

Lý do thứ hai khiến tôi chọn công án này là cái thực tính chân thực của Thiền, ở đây nhằm trỏ “Đạo” hay Con Đường được nêu ra như là cái “tâm bình thường” của chúng ta. Một ngộ nhận về Thiền thường thấy ở phương Tây biểu hiện qua việc tin rằng Thiền là cái gì đó không chỉ thuần phản-lý trí mà còn là cái gì đó có thể nói là bí ẩn, kỳ quái, “lơ lửng trên trời”. Công án nêu ra ở đây rõ ràng nghiền vỡ một ngộ nhận như thế bằng cách nêu trỏ ra rằng cái tâm bình thường của chúng ta là cái Thực tính chân thực của Thiền, bằng cách nhấn mạnh cái bản chất “thực tế”của Thiền.

Một ngộ nhận khác về Thiền cũng được công án này khắc phục. Nó gần như là mặt trái của ngộ nhận nói trên, tức là hiểu Thiền cái gì bí ẩn hay kỳ quái, đôi khi người ta lại bắt vào tính tức sự (immediacy) của Thiền theo kiểu hành tác mà “không suy nghĩ”. Như thế, Thiền được hiểu là một học thuyết trực giác hời hợt hay một tự nhiên tính dễ dãi mà Thiền ngữ “đói thì ăn, khát thì uống” có thể hàm ý. Ở đây, bản chất thực tế của Thiền bị hiểu nhầm thành ra một lối sống đơn thuần thực dụng không có nền tảng triết học hay bản thể học. Ý nghĩa của cái bản chất thực tế của Thiền dù sao cũng được nêu rõ trong đối thoại này giữa Triệu ChâuNam Tuyền. Nói cách khác đi, cái gì là Thiền như được nêu trỏ trong công án “Tâm bình thường là Đạo” ngăn không cho chúng ta xem Thiền có thể có nghĩa là một tức sự tính suông hay một tự nhiên tính như của loài vật, không có nền tảng bản thể học.

Vậy tóm lại, công án được nêu ra ở đây là hữu ích trong việc khắc phục hai ngộ nhận có thể có về Thiền: một đằng xem Thiền là cái gì kỳ bí, và một đằng xem Thiền là cái gì đơn thuần thực dụng.

Nam Tuyền muốn trỏ điều gì về “cái tâm bình thường” khi Ngài nói đến Đạo? Để trả lời câu hỏi này, ta phải quay về chính bản văn.
Có lần Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:
– Đạo là gì?
Nam Tuyền đáp:
Tâm bình thường là Đạo.

Thuật ngữ “Đạo” có một ý nghĩa phong phúsâu xa trong lịch sử tri thức của Trung QuốcNhật Bản. Có nguyên nghĩa là con đường cho sự đến và sự đi của con người, Đạo hàm ý cái lối sống, con đường đúng cho con người theo; luật đạo đức, và cả cái nguyên lý căn bản mà trên đó toàn bộ vũ trụvận hành của nó được thiết lập. Đạo được dùng như là một thuật ngữ ách yếu trong Lão giáo (Z. Shibayama, Zen Comments.., Sđd, tr.141).

Như bình luận của vị Thiền sư thời nay của Nhật Bản, ngài Zenkei Shibayama, chính câu hỏi “Đạo là gì?” này đã khiến cho Triệu Châu, một vị Tăng học trẻ tuổi hăng say của Phật học vứt bỏ những nghiên cứu kinh viện của mình về Phật giáothúc đẩy vị này đi trọn nẻo đường từ Hoa Bắc đến Hoa Nam. Thể nghiệm “Đạo là gì?” đã là phận sự khẩn cấp và thiết yếu nhất của vị ấy. Trước câu hỏi này của Triệu Châu, ngài Nam Tuyền đã trả lời dứt khoát: “Cái Tâm bình thường là Đạo”.

Nguyên văn chữ Hán của “Cái Tâm bình thường là Đạo”, bình thường tâm thị đạo, cũng có thể được dịch là “cái tâm thường nhật”, “cái tâm thường dùng” hay “cái tâm thông thường”. Đấy là cái tâm vận hành trong đời sống hằng ngày của chúng ta, như sáng thức dậy, tối đi ngủ, uống trà, dùng bữa, nói chuyện với bạn bè và làm việc ở cơ quan. Đấy không phải là cái tâm chuyên biệt, bất thường, ngoại đẳng như sự hưng khởi tinh thần hay phấn chấn, chập chờn, đê mê hay sự xuất thần có tính cách tôn giáo. Như thế, “Tâm bình thường là Đạo”, có nguyên nghĩa là “cái tâm hằng ngày đúng như chính nó là Con Đường”. Tuy nhiên, không ai có thể chấp nhận một cách dễ dãingay lập tức lời dạy của Nam Tuyền và bảo “Vâng, đúng thế!”. Đấy là vì “từ thời xưa, Đạo đã được bao Thánh nhân, trí giả xem như là một nguyên lý và chân lý nền tảng; và nếu Đạo có nguyên nghĩa là cái tâm hằng ngày của chúng ta đúng như chính nó thì các bà vợ của các nông gia, ngư phủ đều biết nó,và chúng ta cũng không phải chờ hàng Thánh nhân, trí giả dạy dỗ và cứu vớt chúng ta (Sđd, tr. 142)”.

Đây cũng thế, khi ngài Triệu Châu trẻ tuổi không thể dễ dàng chấp nhận lời dạy của ngài Nam Tuyền thì đấy là một sự việc hoàn toàn tự nhiên. Do đó mà Triệu Châu đã phải hỏi “Thế thì có nên hướng đến Đạo hay không nên?”. Chúng ta phải cố gắng theo hướng nào để mở con mắt tâm linh của chúng ta hầu thấy rằng cái tâm bình thường của chúng ta là Đạo?

Ngài Nam Tuyền trả lời rằng: “Nếu ông cố hướng đến Đạo thì sẽ đi xa Đạo”. Như thế nghĩa là chính sự cố gắng và nỗ lực của chúng ta để đạt Đạo vốn đã làm cho chúng ta rời Đạo. Do đó chúng ta càng cố gắng hướng về Đạo thì chúng ta càng xa rời Đạo. Nam Tuyền dứt khoát bác bỏ cái ý niệm cho rằng người ta có thể đạt được Đạo bằng sự cố gắng.

Triệu Châu không do dự hỏi tiếp “Nếu không cố hướng đến thì làm sao biết được đấy là Đạo?” Chúng ta có thể bảo rằng Triệu Châu hỏi như thế là hoàn toàn hợp lý. Nếu không nỗ lực đạt Đạo, không suy luận về Đạo, làm sao chúng ta có thể tìm được rằng cái tâm bình thường là Đạo?

Triệu Châu đã dứt bỏ việc nghiên cứu triết học Phật giáo và đi suốt con đường từ Bắc đến Nam Trung Quốc để học với sư Nam Tuyền. Chúng ta nghe tiếng thét rướm máu của một kẻ đi tìm chân lý đã bị đẩy đến chỗ bế tắc cùng cực. Sự đòi hỏi trong tâm ngài thúc đẩy ngài phá vỡ chỗ bế tắc ấy dù phải đánh đổi cuộc đời mình. Thế mà vẫn không thể có cách nào cả. Mọi thiền gia, không trừ một ai, cũng đều phải kinh qua một sự đau đớn ray rứt nội tại trước khi đạt ngộ (Sđd, tr.143).

Cuối cùng, Nam Tuyền nêu lời dạy rằng: “Đạo không thuộc sự biết hay sự không biết. Biết là sự vọng giác, không biết là sự trống trơn. Nếu ông quả thực đạt đến cái Đạo vô nghi thì đấy cũng như thái hư, rộng rãivô biên. Thế thì làm sao có thể có đúng có sai trong Đạo được?”.

Câu trả lời này hàm ý Nam Tuyền không chấp nhận rằng người ta có thể đến Đạo mà không cố gắng. Hình như ngài bác bỏ việc đến Đạo mà có cố gắng lẫn không cố gắng. Trong lời dạy cuối cùng này của Nam Tuyền, chúng ta cũng đừng quên rằng Đạo vượt ra ngoài chuyện biết lẫn không biết, rằng không những sự biết bị phủ nhận mà cả sự không biết cũng bị phủ nhận. Tóm lại, sự phủ nhận đôi về biết và không biết là cần thiết cho việc ngộ Đạo. Sự phủ nhận đôi này về biết và không biết nối kết với sự phủ quyết đôi về cố gắng và không cố gắng.

Tuy thế, tại sao cả biết lẫn không biết đều bị phủ nhận? Đây là vì theo Nam Tuyền, biết là sự vọng giác và không biết là sự trống trơn. Thế nghĩa là gì? Những người thời nay chúng ta quá quen thuộc với những hình thức khác nhau của cái biết, nhất là cái biết thuộc khoa học: biết một đối tượng không tạo nên một vọng giác mà cho chúng ta một cái biết khách quan, rõ ràng và tách bạch về đối tượng ấy và do đó chúng ta có thể bảo rằng cái biết khách quan biểu hiện chân lý phổ quát. Tuy nhiên, một câu hỏi cần phải được nêu lên ở đây: Cái biết khác quan về một sự vật có thực sự biểu hiện cái thực tính của sự vật ấy không? Trong sự biết một cách khách quan có bao hàm một nhị biên tính giữa chủ thể và đối tượng của sự biết. Thế nghĩa là biết một sự vật là khách quan hóa sự vật ấy thành một đối tượng từ quan điểm của chủ thể. Điều này cũng trỏ ra rằng biết một sự vật nào đó là biết sự vật ấy chỉ ở mức độ như là nó được khách quan hòa bởi một chủ thể. Sơ đồ sẽ là:

Biết
Chủ thể———————đối tượng
(khách quan hóa)

Cái biết thuộc khoa học chỉ là hình thức đơn thuần nhất của cái biết khách quan có được bằng cách triệt tiêu và loại trừ quan điểm chủ quan. Tuy vậy, trong cái biết khách quan này, cái được biết chỉ là đối tượng; và chủ thể vẫn không được biết tới, tức là người biết vẫn chưa được biết tới. Cái được biết (sở tri) và người biết (năng tri) là hai thực thể khác nhau.

Hơn nữa, những gì được biết về sự vật là cái thực tính của sự vật ấy, không phải trong tổng thể của nó mà chỉ ở ngang mức độ sự vật ấy được khách quan hóa. Sự vật không được biết đúng như chính nó. Như thế, khi biết một sự vật nào như là một đối tượng, chúng ta không thể biết cái thực tính toàn thể, mà chỉ biết cái thực tính chi phần và được khái niệm hóa của sự vật nói trên. Do đó, nếu chúng ta cho rằng cái biết khách quan về một sự vật là biểu hiện cái thực tính toàn diện và đích thực của sự vật ấy thì đấy là một sai lầm lớn.

Thực vậy, biết sự vật một cách khách quan là hàm ý che giấu cái thực tính sáng sủa của sự vật. Trong ý nghĩa này, cái biết khách quan về một sự vật hay thế giới, tuy có thể rõ ràng một cách khách quan, cũng có thể bị coi là cái vọng giác không chân thật vì nó không biểu lộ cái thực tính chân thật của sự vật ấy hay của thế giới.

Mặt khác, Đạo là thực tính chân thật trong đó các sự vật và thế giới hiển lộ ra trong sự hiện diện toàn bộ và trong đó cái được biết và người biết không phải là hai mà là một. Như thé, cùng với Nam Tuyền, chúng ta phải bảo rằng Đạo không thuộc sự biết, vì biết là một vọng giác. Để đạt Đạo, chúng ta phải phủ nhận cái biết cùng với cái nhị biên tính chủ thể-đối tượng của nó.

Việc phủ nhận sự biết đương nhiên dẫn chúng ta đến “Sự không biết” trong đó cái nhị biên tính chủ thể đối tượng biền mất. Bây giờ có sự “không biết” và do đó không có chủ thể lẫn đối tượng, không có người biết lẫn cái được biết. Tuy nhiên, điều này để lại cho chúng ta một sự trống trơn hoàn toàn. Trong khi biết là một sự xác định về một sự vật thì không biết là sự phủ nhận về các sự vật, trong sự không biết chỉ có sự thờ ơ. Thế mà Đạo lại không thuộc sự không biết, vì không biết chỉ là một mặt tiêu cực của biết. Không thể đạt đạo trong sự trống trơn thờ ơ. Đạo chân thật thật sự vượt ngoài cả sự biết lẫn sự không biết, vượt ngoài sự xác định và phủ nhân.

Thế thì vượt ngoài cả sự biết lẫn sự không biết, vượt ngoài cả xác định lẫn phủ nhận nghĩa là gì? Đây là không hay Sùnyatà. Đấy là lý do khiến ngài Nam Tuyền bảo: “Nếu ông quả thật đạt đến cái Đạo vô nghi, thì đấy cũng như thái hư rộng rãi và vô biên”. Và cái Đạo này vốn như thái hư, được thể chứng không ở đâu khác ngoài cái tâm bình thường. Đây là ý nghĩa của lời khẳng định đầu tiên của Nam Tuyền, “cái tâm bình thường là Đạo”.

Do đó, cái tâm bình thường này không phải là cái tâm bình thường trước khi đạt sự thể chứng cái không, mà là cái tâm bình thường sau khi và xuyên qua sự đạt tới và được hỗ trợ bởi sự thể chứng cái không. Đấy là bản chất thực tế của Thiền, Thiền không nói vì về cái kỳ bí, siêu nhiên hay siêu việt. Đằng này Thiền lại bảo rằng cái tâm bình thường là Đạo. Tuy nhiên, điều này không nêu trỏ một xác định hời hợt của cái tâm hằng ngày, vì Đạo như là cái tâm bình thường không thuộc sự biết hay sự không biết, và chỉ bằng cách chối bỏ cả thái hư rộng rãivô biên,chỉ xuyên sự ngộ cái thái hư này, cái tâm bình thường mới được thể chứng là như Đạo.

Điều quan trọng nhất về điểm này là thái hư hay không chẳng phải là sự trống không suông mà chính là sự viên mãn. Vì vượt ngoài sự biết và sự không biết, thái hư hiển lộ một hình thức cao của sự biết vốn tự nó không phải là biết cũng không phải là không biết mà bao gồm cả hai. Thực vậy, thoát ngoài cái nhị biên tính giữa biết và không biết, thái hư có thể sử dụng cả hai một cách tự do mà không bị chúng ngăn chận. Hình thức cao này của sự biết là sự biết trong và xuyên qua sự không biết. Sự biết vốn chính nó là sự không biết. Sự không biết vốn chính nó là sự biết. Hình thức cao này của sự biết chính là satori hay ngộ, vốn cũng được gọi là prajna trong Phật học, tức là trí tuệ.

Trong sự biết theo nghĩa thông thường, người biết và cái được biết tách biệt nhau, chúng ta là hai chứ không phải là một. Trong sự không biết thì không có người biết (chủ thể năng tri) lẫn cái được biết (đối tượng sở tri); cái nhị biên tính của người biết và cái được biết không có mặt. Tuy nhiên, trong hình thức cao của sự biết, tức là sự biết trong và xuyên qua sự không biết, người biết và cái được biết hoàn toàn là một, và tuy vậy sự phân biệt của chúng rất rõ ràng. Nói một cách khác, tự ngã và tha nhân là một và tuy vậy tự ngã thực sự là tự ngã và tha nhân thực sự là tha nhân.

Ở đây, tưởng cũng cần trích dẫn một pháp ngữ nổi danh của vị thiền sư Trung Hoa đời Đường là Thanh Nguyên Duy Tín. Pháp ngữ ấy như sau:

“Ba mươi năm trước, khi chưa khởi sự học Thiền, Lão tăng bảo “Núi là núi, nước là nước”. Sau khi nhập vào chân lý Thiền nhờ sự dạy dỗ của một thầy giỏi, Lão tăng bảo “Núi không phải là núi, nước không phải là nước”. Nhưng bây giờ, đã đạt sự an trú tối hậu (tức chứng ngộ) Lão tăng bảo “Núi thực sự là núi, nước thực sự là nước”.

Cấp độ đầu tiên của hiểu biết, tức là “Núi là núi, nước là nước” nêu trỏ “sự biết” trong ý nghĩa khách quan đã bàn trên. Cấp độ thứ hai của hiểu biết, tức “Núi không phải là núi,nước không phải là nước” biểu thị “sự không biết” như là phủ định của “sự biết”, Và cấp độ thứ ba, cuối cùng, của hiểu biết, tức “Núi thực sự là núi, nước thực sự là nước” nhằm trỏ một hình thức cao của sự hiểu biết trong và xuyên qua sự không biết. Trong sự biết này, mọi sự vật được thể nghiệm rõ ràng trong sự tách bạch đúng thực như chúng, không hơn, không kém; tuy mọi sự vật đều bình đẳng và có thể chuyển đổi nhau trong sự như – thị của chúng, tức là, núi thực sự là núi, nước thực sự là nước. Và tuy vậy núi là nước, nước là núi. Cũng thế, chúng ta có thể bảo rằng tôi thực sự là tôi, anh thực sự là anh. Và tuy vậy tôi là anh, anh là tôi. Tính tương hoán và tương nhập này có được vì hình thức cao của sự biết, tức chứng ngộ, được thể nghiệm trong và xuyên qua sự không biết. Sự tách bạch của mọi sự vật và sự tương nhập của mọi sự vật đi kèm với nhau một cách năng động vì hai khía cạnh này được thể nghiệm trong thái hư, rộng rãivô biên. Đây là lý do tại sao trên kia tôi bảo thái hư hay không chẳng phải là sự biết, hay không biết, mọi sự vật được xác nhận đúng như chính chúng trong thực tính của chúng, không hơn, không kém. Do đó, ngài Vô Môn phát biểu trong bài tụng của ngài rằng:

Xuân có trăm hoa, Thu có trăng,
Hạ về gió mát, tuyết Đông giăng
Ví lòng thanh thản, không lo nghĩ,
Ấy buổi êm đềm chốn thế gian.

Nếu ta thoát ngoài sự biết và sự không biết, tức là nếu lòng thanh thản không lo nghĩ, thì cái tâm bình thường của chúng ta là Đạo. Đạo hay Chân lý không ở đâu xa, không phải là cái gì để thể chứng trong tương lai, mà ở ngay đây, ngay bây giờ, trong cái tâm bình thường của chúng ta.

Như một vị cổ đức bảo:

Đạo không bao giờ xa rời chúng ta dù trong phút chốc.
Nếu không như thế thì đấy không phải là Đạo.

(*) Masao Abe (1915-2006) là một viện sĩ hàn lâm Nhật Bản chuyên về tôn giáo đối chiếu và là giáo sư thực thụ của Viện Đại học Nara. Những quan điểm chín chắn của ông đã được phát triển trong trường phái triết học Kyoto. Ông cũng từng được mời làm giáo sư thỉnh giảng tại nhiều trường đại học Hoa Kỳ. Sau khi Daisetz Teitaro Suzuki qua đời năm 1966, giới nghiên cứu phương Tây công nhận Masao Abe là người đại diện chính yếu cho tư tưởng Thiền Phật giáo ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Các tác phẩm của ông phần lớn được học trò và những người cộng sự góp nhặt biên tập lại, như Thiền và tư tưởng Tây phương (Zen and Western thought),Nghiên cứu về Đạo Nguyên: Triết lý và Tôn giáo (A study of Dogen: His Philosophy and Religion), Phật giáo và Đối thoại về niềm tin (Buddhism and Interfaith Dialogue), Thiền và nghiên cứu đối chiếu (Zen and comparative studies), Thiền và thế giới hiện đại (Zen and modern world).


Ghi chú của người dịch
: Các trích dẫn có đôi chỗ chưa sát hợp với nguyên bản Hán ngữ. Vì tôn trọng cách hiểu của tác giả, chúng tôi vẫn dịch theo bản Anh ngữ: The Core of Zen – The Ordinary Mind TC. Văn Hóa Phật Giáo số 89
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14138)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39693)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15304)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13875)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13916)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37311)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40044)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14633)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14308)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12647)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14819)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19205)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13789)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42602)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13821)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37229)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12660)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11746)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22530)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12505)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12567)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13045)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13104)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17255)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33222)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14827)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12447)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11948)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13124)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51244)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12376)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6605)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30400)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13307)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30664)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19340)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12472)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11839)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14754)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13187)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30663)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12021)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11820)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12712)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31884)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29400)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11777)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11732)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10408)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11544)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9644)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9965)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35388)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10137)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10090)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10036)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9639)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27789)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15470)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9829)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13659)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9828)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9686)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18305)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12040)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9565)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9678)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8697)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8904)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8405)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11473)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31716)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12327)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13311)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9430)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11929)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9214)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9069)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29336)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9064)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9085)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33217)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8419)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30585)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31206)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37095)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32238)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9911)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27081)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8439)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19222)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9770)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant